Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyên tác:  AUTOBIOGRAPHIE D’UN YOGI
Của: Tu sĩ   PARAMHANSA YOGANANDA

CHƯƠNG TÁM

 SƯ PHỤ SRI YUKTESWARR.

 -"Đức tin nơi thiêng liêng có thể giúp ta làm nên mọi việc, trừ ra việc thi đậu mà không có học bài!" Tôi ngạo nghễ xấp lại quyển sách mà tôi đã giở ra trong một lúc nhàn rỗi và thầm nghĩ:

-"Sự dè dặt của tác giả này chứng tỏ sự hoàn toàn thiếu đức tin. Có lẽ y chú trọng thái quá đến việc thi cử."

Tôi đã hứa với cha tôi là sẽ học cho đến hết chương trình ban Tú Tài. Tôi không tự hào rằng mình chăm học. Những tháng sau cùng, tôi thường đến ngồi suy tư ở những nơi vắng vẻ trên bờ sông Hằng, thay vì đến lớp học.

Khu đất dành cho việc hoả táng xác chết, đặc biệt rùng rợn lúc ban đêm có một sức hấp dẫn rất lớn đối với những tu sĩ Yogi. Người đi tìm chân lý, tìm cái tinh hoa của sự bất tử ắt không cảm thấy ghê rợn trước những cảnh thây ma và sọ người. Tính chất vô thừơng của sự vật trần gian càng biểu hiện rõ hơn ở gần bên cảnh tượng rùng rợn của những đống xương tàn. Đó là bối cảnh của những cuộc đi chơi đêm của tôi, thật khác xa với lối tiêu khiển của bao nhiêu đứa học trò khác!

Tuần lễ thi Tú Tài ở trường trung học đã sắp đến. Thời gian chờ đợi thất là một giai đoạn cực hình; tâm trí tôi không hề được phút nào ngơi nghỉ. Trong những đêm làm bạn với xác chết và sọ người tôi đã thu thập được một kiến thức không có dạy ở nhà trường, nhưng còn thiếu cái quyền năng của tu sĩ Pranabhâ, là phân thân để xuất hiện cùng lúc ở hai nơi!

-"À, Mukunda! Mấy ngày nay anh đi đâu mà biệt tích vậy?". Một bạn học gọi tên tôi ở ngoài đường vào một buổi chiều.

-"À, Nantu, chào anh! Vì biệt tích nên bây giờ tôi mới nguy như thế này!"

Nantu là một học trò giỏi, y cười một cách thoải mái vì sự thú nhận của tôi.

-"Tự nhiên là anh không đủ chuẩn bị để ứng phó với những bài thi năm nay. Có lẽ tôi nên giúp anh!"

Những lời nói đó vang dội bên tai tôi như một lời hứa hẹn thiêng liêng. Tôi bèn hối hả đi đến nhà bạn tôi. Y chỉ dẫn cho tôi nghe một cách vắn tắt cách giải đáp những câu hỏi mà y cho rằng các giám khảo có thể đưa ra trong kỳ thi năm nay.

-"Đó là tất cả những câu hỏi "hóc búa" mà họ sẽ dùng để hạ những thí sinh. Anh hãy học kỷ những bài giải đáp của tôi rồi anh sẽ "trúng tủ"!

Đêm đã khuya sau khi tôi từ giả bạn tôi ra về. Sau khi đã tự nhồi sọ với những kiến thức mới đó, tôi nhiệt thành cầu nguyện sao cho những điều đó đừng tiêu tan như mây khói vào những ngày quyết định. Chương trình thi tú tài gồm nhiều môn học khác nhưng trong khi vội vàng, Nanu đã quên môn Phạn ngữ. Tôi cầu nguyện thiêng liêng hãy giúp tôi vượt qua sự thiếu sót đó.

Sáng ngày hôm sau tôi đi bách bộ dạo chơi và ôn lại trong trí những bài giải đáp vừa học được. Khi tôi đi vào một đường nhỏ qua một khoảnh đất trống, tôi thấy trên bãi cỏ vài trang giấy có chử in; tôi lượm lên xem thì thấy đó là một bài văn thơ Phạn ngữ cổ điển. Tôi bèn đi tìm một học giả hay chử để giúp tôi bình luận bài văn thơ này. Giọng ngâm nga phong phú của ông ta làm nổi bật lên những âm điệu và vần thơ bất hủ của thứ cổ ngữ này.

-"Những câu thơ đặc biệt này chắc không phải là đầu đề thi năm nay", nhà học giả nói với một nụ cười hoài nghi.

Tuy vậy sự hiểu biết tường tận dầu chỉ có một bài thơ duy nhất, đã giúp tôi vượt qua bài thi Phạn ngữ trong ngày hôm sau. Sự chỉ dẫn của Nantu cũng giúp tôi có được số điểm trung bình về những môn học khác.

Cha tôi lấy làm sung sướng mà thấy rằng tôi đã giữ đúng lời hứa. Tôi biết ơn Thượng Đế đã giúp tôi qua sự trung gian của Nantu và đã khiến tôi đi rẽ qua con đường tắt trên mảnh đất hoang có rải rác giấy tờ vụn vặt. Như vậy ngài đã hai lần che chở cho tôi.

Quyển sách mà tác giả phủ nhận quyền năng thiêng liêng đối với vấn đề thi cử lại hiện ra trước mắt tôi. Tôi mỉm cười và thầm nghĩ: "Y sẽ phân vân đến đâu nếu tôi cho y biết rằng sự tham thiền giữa những thây ma nơi nghĩa địa đã giúp tôi thi đỗ tú tài!"

Với tư cách một cậu tú tân khoa, tôi có thể chuẩn bị để công khai rời khỏi gia đình. Sau khi hội ý với Jintendra Mâzumda, tôi quyết định đến một đạo viện Mahâmandal ở Bénarès để theo một khoá huấn luyện tâm linh.

Tuy nhiên tôi cảm thấy nghẹn ngào khi nghĩ đến việc chia ly với gia đình. Từ khi mẹ tôi qua đời, tôi cảm thấy nảy nở một tình thương đậm đà đối với hai em trai tôi là Sananda và Bishnu. Tôi bèn lui vào nơi ẩn trú của tôi trên gác lầu, là chỗ tôi vẫn công phu tham thiền hằng ngày. Tôi khóc rất lâu và sau cùng tôi cảm thấy có một sự thay đổi diệu huyền trong người tôi, dường như dưới ảnh hưởng của một mảnh lực vô hình nào. Sợi dây trói buộc của tình thương gia đình đã bị bẻ gẫy. Quyết định xuất gia tầm đạo của tôi đã trở nên cứng rắn, không sao lay chuyển. Tôi lo hoàn tất việc chuẩn bị lên đường.

Cha tôi bằng lòng cho tôi đi một cách luyến tiếc. Tôi hối hả lên đường để đúng hẹn với Jitendra, y đã có mặt tại đạo viện Bénarès. Khi tôi đến nơi, tu sĩ Dayânanda, vị sư trưởng hãy còn trẻ tiếp đón tôi một cách nồng hậu. Tác cao hơi gầy vẻ mặt suy tư trầm tĩnh, tu sĩ đã gây cho tôi một ấn tượng tốt lành. Gương mặt khôi ngô của tu sĩ phảng phất những nét giống như của đức Phật.

Tôi lấy làm sung sướng mà thấy rằng nơi tư thất mới của tôi có một cái gác nhỏ ở đó mỗi buổi sáng tôi có thể tham thiền trong vài giờ. Những đệ tử trong đạo viện không quen thực hành môn thiền định bèn quyết định giao cho tôi một công việc tổ chức. Họ khen tặng tôi về công việc tôi làm ở văn phòng mỗi buổi chiều.

-"Huynh không nên nhập Niết Bàn quá sớm!", một bạn đồng môn nói với tôi khi tôi rút lui lên gác.

Tôi bèn đến gặp tu sĩ Dayânanda trong am thất nhỏ của ngừơi có cửa sổ nhìn xuống sông Hằng:

-"Thưa sư trưởng, tôi không hiểu ở đây người ta muốn tôi phải làm gì. Tôi đang công phu để đạt tới Đạo một cách trực tiếp. Không được vậy thì không một địa vị, một tín ngưỡng, một sứ mạng nào có thể làm cho tôi thoả mãn."

Vị sư trưởng mặc áo vàng sậm vỗ nhẹ lên vai tôi một cách thân mật. Người rầy một cách nhẹ nhàng vài người đệ tử đang đứng gần bên:

-"Hãy để yên Mukunda! Y sẽ quen dần lối sống ở đây"

Tôi nén lòng một cách lễ phép để khỏi nói rằng tôi lấy làm ngờ về việc đó! Những đệ tử rời khỏi phòng không để ý bao nhiêu tới lời khiển trách vừa rồi. Tu sĩ Dayânanda nói với tôi:

-"Mukunda, cha em gởi tiền cho em đều đều. Em hãy gởi trả về nhà vì ở đây em không cần dùng tiền. Một điểm kỷ luật khác là vấn đề ăn uống; khi em đói, em hãy đừng để cho người ngoài nhìn thấy!"

Tôi không biết rằng bề ngoài tôi có lộ vẻ đói hay không. Nhưng điều mà tôi biết quá rõ, ấy là tôi đói. Ở đạo viện buổi cơm đầu tiên dọn ra vào lúc giữa trưa; ở nhà tôi vẫn có thói quen ăn một bữa thịnh soạn lúc chín giờ sáng.

Khoảng sai biệt ba tiếng đồng hồ đó càng ngày càng trở nên không thể nhịn nổi! Còn đâu những ngày vàng son ở Calcutta, khi đó tôi có thể quở trách người đầu bếp vì dọn cơm trễ có mười phút! Có một lần, vì muốn tự chủ trong sự ăn uống, tôi tập nhịn ăn trong hai mươi bốn giờ. Tôi càng chờ đợi một cách nôn nao hơn đến trưa ngày hôm sau.

-"Chuyến xe lửa của Sư trưởng Dayânanda bị trễ giờ; chúng ta sẽ đợi sư trưởng về mới ăn!"

Jitendra đem cho tôi cái tin chẳng lành đó.

Sư trưởng đi vắng hai tuần nay, để tiếp đón người một cách lễ phép, các đệ tử đợi đến lúc người về đến nơi mới dọn cơm cùng ăn. Mùi hương vị đồ ăn thơm ngào ngạt bay qua lỗ mũi tôi. Tôi phải nằm đo ván để chịu đựng cơn nhịn đói kéo dài vô tận.

-"Cầu xin Thượng Đế khiến cho chuyến xe lửa về sớm."

Tôi nghĩ rằng lời ngăn cấm của tu sĩ Dayânanda bảo tôi đừng lộ vẻ đói ra ngoài, chắc sẽ không áp dụng đối với Thượng Đế. Tuy nhiên ngài vẫn không đáp ứng lời cầu nguyện của tôi, vì trời đã về chiều, màn đêm đã rơi xuống khi sư trưởng bước vào cửa đạo viện, tôi tiếp đón với một niềm hy vọng tràn trề.

-"Sư trưởng còn đi tắm và tham thiền xong chúng ta mới khởi sự ăn", đó là lời thông báo của Jitendra, sứ giả của tai hoạ.

Tôi sắp sửa thấy khó chịu trong mình. Cái bao tử còn non nớt của tôi không quen nhịn ăn, cồn cào kêu đói. Những cảnh chết đói rùng rợn lỏn vởn trong trí của tôi. Tôi thầm nghĩ:

-"Nạn nhân đầu tiên của nạn đói đến tại Bénarès này chắc sẽ là tôi!" Cái cực hình đó chỉ chấm dứt lúc đồng hồ gõ đúng chín giờ. Than ôi! Buổi cơm chiều hôm đó hãy còn ghi dấu vết trong ký ức như một trong những giờ phút tốt đẹp nhất của đời tôi!

Tôi ăn bằng bốn người và nhận thấy rằng tu sĩ Dayânanda ăn uống uể oải một cách vô tâm. Người dường như vượt lên cao hơn những sự khoái cảm trần tục của tôi.

-"Thưa Sư trưởng. Sư trưởng không đói sao?", tôi hỏi tu sĩ sau khi đã ăn uống no lòng, tôi bước vào văn phòng của người.

-"Có chứ! Tôi không ăn uống gì cả trong bốn ngày qua. Tôi không bao giờ ăn trên xe lửa vì ở đó đầy những rung động nặng nề xấu xa của kẻ phàm tục. Tôi triệt để tuân theo những quy luật của giòng tu của tôi. Tôi bị bận rộn vì nhiều vấn đề tổ chức, nên chiều nay tôi chỉ ăn uống sơ sài. Nhưng không sao ngày mai tôi sẽ ăn cẩn thận."

Tu sĩ nói xong bèn cười một cách thoải mái.

Tôi lấy làm hổ thầm trong bụng. Nhưng trọn một ngày chịu cực hình không thể nào quên được một cách dễ dàng; tôi đánh bạo đưa ra một câu hỏi cuối cùng:

-"Thưa sư trưởng, tôi có sự nghi ngờ. Nếu theo lời dặn của Sư trưởng, tôi không đòi ăn uống khi đói bụng và nếu không ai mời tôi ăn; chắc là tôi sẽ chết đói!"

-"Chừng đó, em hãy chịu chết"

Những lời nói đó có tác dụng như tiếng quất của một ngọn roi da.

-"Chừng đó Mukunda em hãy chết nếu cần! Em đừng bao giờ nghĩ rằng em sống không phải nhờ ở Thượng Đế mà chỉ nhờ ở đồ ăn! Đấng Thiêng Liêng đã sáng tạo ra đồ vật thực và đã cho chúng ta biết đói bụng, chắc hẳn là sẽ lo chu đáo cho chúng ta khỏi phải thiếu thốn điều gì. Em đừng nghĩ rằng cơm gạo ban cho em sự sống và tiền bạc hay người đời có thể nuôi dưỡng được em. Họ có thể nuôi em sống được chăng nếu Thượng Đế thu hồi lại ở nơi em hơi thở của sự sinh tồn? Họ chỉ là những khí cụ thụ động của ngài mà thôi. Em có thể bắt buộc cái bao tử tiêu hoá đồ ăn tuỳ theo ý muốn được chăng? Em hãy suy nghĩ kỷ, Mukunda để nhận thấy cái Nguyên Lý độc nhất ở bên ngoài các hiện tượng biến hoá vô cùng tận."

Những lời nói cương nghị này làm cho tôi cảm thấy lạnh tê người. Thế là cái thành kiến cố hữu cho rằng thể xác thắng đoạt tinh thần không còn đứng vững. Thỉnh thoảng tôi đã có dịp thưởng thức cái thú vui về sự độc lập huyền diệu của Tinh Thần. Trong bao nhiêu thành phố mà tôi đi ngang qua trong suốt cuộc đời di chuyển không ngớt của tôi, tôi đã có dịp nhận xét thấy cái hiệu lực của bài học ấy, mà tôi đã thọ lãnh trong một đạo viện ở Bénarès!

 II

 Món của cải duy nhất mà tôi đem theo từ Calcutta là cái linh vật hộ phù bằng bạc của vị tu sĩ Thánh Đức, mà mẹ tôi đã để lại cho tôi. Tôi đã giữ gìn nó kỷ lưỡng trong nhiều năm và bây giờ nó được cất giữ kín đáo trong phòng tôi.

Một buổi sáng, tôi mở cái hộp để ngắm nhìn nó. Những ổ khoá đều còn nguyên vẹn, nhưng món linh vật đã biến mất. Buồn rầu, tôi xé cái vỏ bọc ngoài của nó và biết rằng nó đã không cánh mà bay đúng như lời tiên tri của vị tu sĩ đã làm cho nó xuất hiện từ lúc đầu.

Sự giao thiệp của tôi với những đệ tử của Dayânanda càng ngày càng trở nên căng thẳng. Sự tự do của tôi làm phật lòng đến cả vị sư trưởng. Sự áp dụng giờ giấc tham thiền quá chặc chẽ của tôi, nó vốn là cái lý tưởng vì đó mà tôi rời khỏi gia đình, đã đem đến cho tôi những sự chỉ trích nặng nề từ mọi giới.

Đau lòng một hôm tôi quyết định cầu nguyện cho đến khi tôi nhận được một sự trả lời.

"Hỡi đức Phật Mẫu đại từ đại bi của Vũ Trụ, xin Ngài hãy dạy con tính chất từ bi của ngài qua những linh ảnh, hay qua một vị Tôn sư mà Ngài sẽ gởi đến cho con!"

Tôi khóc và cầu nguyện rất lâu, giờ khắc trôi qua mà tôi không nhận được một sự trả lời. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy như bị lôi cuốn cả thể xác lẫn linh hồn lên tận những cõi giới cao siêu huyền diệu.

-"Tôn sư con sẽ đến trong ngày hôm nay!"

Giọng nói ấy, một giọng nói thanh bai của phái nữ với những âm điệu của cỏi trời, dường như vọng đến từ khắp nơi và cũng không từ nơi nào.

Cái kinh nghiệm siêu linh đó bị gián đoạn bởi một tiếng kêu lanh lảnh; một đệ tử trẻ tên Habu gọi tôi từ sau bếp ở từng dưới:

-"Mukunda! Thôi đừng tham thiền nữa! Người ta cần anh đi chợ mua đồ."

Nếu trong trường hợp khác tôi đã phản ứng kịch liệt. Nhưng không hiểu sao lúc ấy tôi lấy khăn lau nước mắt và lẳng lặng nghe theo. Habu và tôi bước ra cửa đi về phía một chợ ở xa, trong khu vực Bengali của thành Bénarès. Mặt trời nắng gắt của Aán Độ chưa lên đến tốt đỉnh chúng tôi đã mua xong những đồ vật dụng cần thiết và vạch một con đường đi xuyên qua một đám rừng người đông đảo, những đàn bà nội trợ chen lẫn với những tăng lư, tu sĩ, hướng dẫn viên du lịch, quả phụ ăn mặc nâu sòng, người Bà la môn, người hành khất và…bò.Khi đi ngang qua một con đường nhỏ hẹp có vẻ nghèo nàn, tôi quay đầu lại và nhìn thấy một người có vẻ giống như chúa Giê su, mặc áo màu vàng sậm của giới tu sĩ và đứng ở đầu đường. Người ấy trông dường như một người quen cũ, khiến tôi càng chú ý nhìn kỷ. Bỗng nhiên, một sự nghi ngờ xâm chiếm lấy tôi và tôi tự nhủ:"Có lẽ mình lầm người tu sĩ này với một người nào khác. Thôi ta đi!"

Mười phút trôi qua, tôi cảm thấy hai chân tôi nặng như chì, dường như chúng đã trở thành đá và không còn tuân theo ý nuốn của tôi. Tôi thử quay trở lại thì hai chân tôi đi được như thường.Tôi lại thử tiến bước theo lối đi ngược chiều, thì hai chân tôi lại nặng như chì không thể cử động.

"Vị tu sĩ hấp dẫn tôi đến với người bằng một thứ mãnh lực từ điển nào đó." Với cái ý nghĩ đó trong trí, tôi giao những gói đồ cho Habu; y đã quan sát những cử chỉ của tôi một cách ngạc nhiên; sau cùng y bật cười:

-"Anh làm gì vậy? Chắc anh điên rồi!"

Trí óc huyên náo của tôi lúc ấy làm cho tôi không màng đáp lại. Tôi quay đầu trở lại và lặng lặng noi theo con đường nhỏ hẹp mà tôi đã đi qua. Gần đến đầu đường, tôi nhận thấy gương mặt trầm lặng ấy đang nhìn chăm bẳm về phía tôi. Chỉ còn vài bước nữa và tôi đã quỳ mọp dưới chân người:

-"Kính lạy Sư phụ!"

Gương mặt thiêng liêng ấy không gì khác hơn là gương mặt đã từng xuất hiện trong vô số những linh ảnh của tôi. Đôi mắt yên tĩnh, cái đầu tóc dài dơn sóng xoả xuống vai như đầu sư tử và bộ râu ngắn vuốt nhọn dưới cằm, chính gương mặt ấy đã chinh phục tôi trong những cơn linh ảnh mê ly, nó tượng trưng một sự hứa hẹn nào đó mà tôi không hoàn toàn hiểu rõ ý nghĩa.

-"Con đây rồi, con đã đến."

Sư phụ tôi lập lại câu ấy bằng tiếng bengali, giọng nói hơi run vì cảm động:

-"Ta đã đợi con từ bao nhiêu năm nay."

Kế đó là một cơn yên lặng kéo dài, trong lúc đó những lời nói cũng là thừa. Một nhạc khúc du dương đang vang lên trong lòng của vị Tôn sư và đệ tử. Một tiếng nói trong nội tâm bảo cho tôi biết rằng Sư phụ đã đắc đạo và có thể dắt dẫn tôi đến chân lý. Những sự vô minh đen tối của dĩ vãng đã tiêu tan trước ánh bình minh mới lố dạng trong cuộc đời tôi. Tự nó cũng đã xuất hiện trong một tiền kiếp xa xăm nào. Dĩ vãng, hiện tại, tương lai chỉ là một cuộc tuần hoàn tiếp diễn vô tận. Đây không phải là vầng mặt trời đầu tiên đã chứng kiến việc tôi ngồi dưới chân thiêng liêng của người!

Bàn tay trong bàn tay, Sư phụ dắt tôi đến nơi am thất tạm thời của người ở khu Rana Mahal tại Bénarès. Người đi với những bước đi chắc chắn. Cao lớn và lưng thẳng tuy đã có đến 55 tuổi vào thời kỳ đó, người vẫn nhanh nhẹn và lực lưỡng như một thanh niên. Đôi mắt đen sậm, lớn và đẹp chiếu sáng ngời ánh sáng minh triết. Những lọn tóc dài hơi xoắn tròn tô điểm gương mặt cao quý của người. Nơi người sức mạnh đi đôi một cách rất đều hoà với sự dịu dàng.

Khi chúng tôi đến nơi sân thượng của một ngôi nhà trổ ra phía bờ sông Hằng. Sư phụ nói với một giọng ưu ái:

-"Ta cho con cái đạo viện này và tất cả những gì ta sở hửu"

-"Bạch sư phụ con đi tìm sự Minh Triết và ước mong đạt tới chân lý. Đó là những kho tàng mà con đang thèm muốn của sư phụ!"

Bóng hoàng hôn qua mau ở Aán Độ đã sắp tàn; khi sư phụ lại nói tiếp đôi mắt người lại phản chiếu một tình thương rộng rãi vô biên:

-"Ta cho con tất cả tình thương của ta và không điều kiện."

Đó là những lời vô cùng quý báu! MoÄt phần tư thế kỷ trôi qua trước khi sư phụ nói lại một lần nửa với tôi vầ tình thương của người.

-"Để đáp lại con có cho ta cái tình thương cũng vô điều kiện đó không?"

-"Bạch sư phụ, con xin kính yêu sư phụ mãi mãi"

-"Tình của thế gian vốn ích kỷ và bắt nguồn từ những ham muốn và thoả mãn dục vọng. Tình thiêng liêng vốn cho ra không điều kiện, vô giới hạn và không thay đổi. Tâm hồn con người khi tiếp xúc với tình thiêng liêng ấy sẽ vĩnh viễn trở nên siêu thoát ."

Kế đó ngừơi đứng dậy và đưa tôi vào một gian phòng. Chúng tôi ăn xoài và bánh ngọt hạnh nhân trong khi đó sư phụ lái câu chuyện để thăm dò tâm hồn tôi. Tôi rất thán phục về sự Minh Triết hoà lẫn với đức khiêm tốn của người.

-"Con đừng buồn về việc cái linh vật hộ phù đã biến mất vì nó đã hoàn tất sứ mạng của nó"

Sư phụ tôi, chẳng khác như tấm gương thiêng liêng đã phản ảnh trọn cả cuộc đời tôi.

-"Bạch sư phụ, sự hiện diện của sư phụ là một ân huệ, nó bù lại gấp bội phần sự thất lạc đó."

-"Đã đếân lúc con cần thay đổi không khí vì con đã cảm thấy không vui trong cái đạo viện này."

Tôi không nói gì về dĩ vãng của tôi , vả lại điều đó cũng là thừa. Tôi hiểu rằng với đức giản dị và khiêm tốn, sư phụ không hề muốn tôi thán phục cái nhãn quang siêu linh của ngừơi.

-"Con phải trở về Calcutta, tại sao con lại đặt gia đình ra ngoài tình thương của con đối với toàn thể nhân loai?"

Lời đề nghị đó làm tôi không vui. Gia đình đã tiên đoán sự trở về của tôi, tuy tôi vẫn dửng dưng trước những lời kêu gọi khẩn thiết trong các bức thơ của nhà gởi cho tôi. Ananta anh cả tôi, đã tuyên bố:"Chúng ta hãy để cho con chim non vỗ cánh tung bay trên những từng trời triết lý siêu hình. Rốt cuộc nó sẽ mệt mỏi và sẽ khiêm tốn bay trở về tổ ấm gia đình"

Những lời nói khiêu khích này hãy còn vang dội trong ký ức của tôi, tôi cương quyết không chịu trở về Calcutta.

-"Bạch sư phụ con không trở về nhà nhưng con sẽ theo sư phụ khắp mọi nơi. Xin sư phụ cho con biết quý danh và địa chỉ"

-"Ta là tu sĩ Sri Yukteswar Giri. Đạo viện chính của ta ở Serampore, đường Rai Ghat. Ta chỉ ở đây có vài ngày để thăm viếng mẫu thân."

Tôi thầm nghĩ:

-"Thiên ý thật là một điều bí hiểm khôn lường! Serampore chỉ cách Calcutta có độ mười hai dặm đường; tuy vậy, để cho cuộc gặp gỡ của chúng tôi được thực hiện, chúng tôi phải đến tận nơi thánh địa Kasi (Bénarès), là nơi được thánh hóa bởi kỷ niệm của đức Lahiri Mahâsaya. Chính đức Phật, đức Shankaracharya, và những bậc hiền nhân thánh triết khác của Aán Độ cũng đã đặt gót chân lên Bénarès và làm cho thành phố ấy trở nên bất tử!"

-"Con hãy đến với ta trong bốn tuần lễ"

Lần đầu tiên, Sri Yukteswarr nói với một giọng nghiêm khắc.

-"Ta đã bày tỏ tình thương bất diệt và niềm vui của ta khi ta tìm thấy con, và bởi đó mà con đã cãi lời ta. Ta rất nghiêm khắc trong việc chọn lựa đệ tử; họ phải tuyệt đối tuân theo kỷ luật tâm linh của ta."

Tôi giữ một sự im lặng kéo dài. Sư phụ đoán biết dễ dàng sự khó nghĩ của tôi.

-"Con sợ về sẽ bị gia đình chế diễu chăng?"

-"Con sẽ không trở về nhà."

-"Con phải trở về trong vòng ba mươi ngày."

-"Bạch sư phụ, không khi nào!"

Tôi kính cẩn quì xuống chân sư phụ và từ biệt mà không nói gì thêm để làm dịu bầu không khí căng thẳng. Vừa bước chân ra đi trong đêm tối, tôi vừa tự hỏi tại sao sự gặp gỡ huyền diệu đó lại kết thúc bằng một điều không vui? Sự tương đối ảo ảnh (mâyâ) ở cõi thế gian luôn luôn pha lẫn lộn cái vui với cái buồn! Trí óc còn non nớt của tôi chưa đủ tinh luyện thuần thục để chịu nép mình dưới uy quyền của một vị Tôn sư.

Sáng ngày hôm sau, tôi nhận thấy rằng sự thù nghịch của các bạn đồng môn trong đạo viện đối với tôi đã tăng gia rõ rệt; mỗi ngày, tôi đều bị đụng chạm với họ một vài lần. Sau đó ba tuần lễ, tu sĩ Dayânanda rời đạo viện để đi dự một phiên họp tại Bombay. Sự thù nghịch của cả đạo viện bèn có dịp đổ dồn lên đầu tôi:

-"Mukunda là một kẻ ăn bám, y chịu sự nuôi dưỡng của đạo viện mà không đóng góp phí tổn!"

Nghe nói vậy, lần đầu tiên tôi mới hối tiếc là đã tuân lịnh của sư trưởng và gởi tiền trả lại cho cha tôi. Buồn rầu, tôi mới tìm gặp Jitendra, bạn duy nhất của tôi và nói:

-"Tôi đi đây. Anh hãy vui lòng chuyễn đạt sự hối tiếc và lời chào kính cẩn của tôi cho sư trưởng khi người trở về."

-"Tôi cũng sẽ đi! Những công phu thiền định của tôi cũng bị ngăn trở và chỉ trích giống như trường hợp của anh", Jitenda than thở.

-"Tôi vừa gặp một hiền giả lạ chưa từng có. Chúng ta hãy đến gặp người tại Serampore."

Nhân dịp đó, con "chim non" sửa soạn vỗ cánh bay về miền đông, gần bên Calcutta.

Mục lục | Lời tựa | 1 | 2 |  3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25|
Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban biên tập Đạo Phật Ngày Nay.

 


Vào mạng: 13-03-2005

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang