Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyên tác:  AUTOBIOGRAPHIE D’UN YOGI
Của: Tu sĩ   PARAMHANSA YOGANANDA

CHƯƠNG MỘT

***

THUỞ THIẾU THỜI

Từ nghìn xưa những đặc điểm của nền văn minh Ấn Độ vẫn gồm có việc sưu tầm chân lý và tầm sư học Đạo. Định mệnh đã dắt dẫn tôi đến một vị minh sư thánh triết mà cuộc đời siêu việt sẽ tiêu biểu cho cuộc sống nhân loại trong những thế hệ tương lai. Đó là một trong những vị minh sư, di sản của những thời đại cao cả huy hoàng của Ấn Độ, vẫn từng xuất hiện ở mỗi thế hệ loài người để giữ gìn cho xứ sở của các Ngài thoát khỏi cái số phận của Babylone và Ai cập! Trong những ký ức thời thơ ấu của tôi, phảng phất có sự nhớ lại cái hình bóng xa xăm của một tiền kiếp với những cảnh băng giá trên dãy Tuyết Sơn (1) trong khi đó tôi đã từng là một tu sĩ. Những hình bóng của dĩ vãng đó cũng gợi cho tôi thấy trước, do một sợi dây liên lạc huyền bí những linh ảnh của tương lai.

Tôi sinh ra tại Gorakhpur, một thành phố miền đông bắc Ấn Độ, vào khoảng cuối thế kỷ trước và sống tại đó trong tám năm đầu tiên của đời tôi. Cha mẹ tôi có tám người con: bốn trai và bốn gái. Tôi tên là Mukunda Lai Ghosh, là người con thứ tư trong gia đình, trên tôi còn có một anh và hai chị.

Cha mẹ tôi đều là người tỉnh Bangale. Cả hai đều sống cuộc đời đạo đức gương mẫu, và một bầu không khí hoàn toàn hoà hợp trong gia đình giúp cho sự phát triễn đều hoà của tám đứa con nhỏ.

Cha tôi Bhagabati Charan Ghosh, là một người tốt bụng nhưng nghiêm nghị và đôi khi có vẻ nghiêm khắc. Chúng tôi thương yêu và kính trọng người. Vốn là một nhà toán học và lý luận, cha tôi sống thuần bằng lý trí. Mẹ tôi nuôi nấng chúng tôi trong tình thong. Khi mẹ tôi qua đời cha tôi dồn hết cho chúng tôi tình phụ tử đậm đà mà từ trước người vẫn cố đè nén. Từ đó tôi nhìn thấy cái nhìn của người đôi khi phảng phất giống cái nhìn trìu mến của mẹ tôi.

Mẹ tôi biểu lộ lòng kính mến đối với cha tôi hàng ngày bằng cách mặc quần áo sạch sẽ tươm tất cho chúng tôi mỗi buổi chiều để đón cho cha tôi đi làm về. Chức vụ của cha tôi hồi đó là Phó Chủ tịch Công ty Hoả xa Bengale-Nagpur, một trong những công ty lớn nhất ở Ấn Độ. Công việc của người đòi hỏi một sự xê dịch thường xuyên, bởi đó hồi thời niên thiếu tôi đã từng sống ở nhiều thành phố khác nhau.

Mẹ tôi luôn luôn bố thí rất rộng rãi cho kẻ nghèo. Cha tôi tuy tốt bụng nhưng thích sống có mực thước trật tự và điều này cũng áp dụng cho cả việc quản lý ngân sách gia đình. Có lần chỉ trong nửa tháng mẹ tôi tiêu xài về việc bố thí nhiều hơn số tiền cha tôi kiếm được trong trọn tháng. Cha tôi bèn hỏi:

-"Tôi chỉ yêu cầu bà một việc là hãy bố thí trong một giới hạn hợp lý!"

Mẹ tôi rất nhạy cảm đối với mọi điều chỉ trích của cha tôi. Người không nói gì, lẳng lặng ôm khăn gói bước ra cửa, gọi một chiếc xe ngựa rồi nói:

-"Vĩnh biệt, tôi trở về nhà mẹ tôi đây!"

Đó là lời hăm doạ cổ điển của phụ nữ Aán mỗi khi có chuyện xích mích trong gia đình.

Chúng tôi bèn khóc, ông cậu tôi từ đâu thình lình bước vào và rất đúng lúc, và nói nhỏ bên tai cha tôi một vài lời khuyên đầy minh triết đã từng được trãi nghiệm qua nhiều thế kỷ. Khi cha tôi đã xin lỗi, mẹ tôi bèn để khăn gói ở lại và cho chiếc xe ngựa về không. Như thế chấm dứt cuộc bất hoà duy nhất mà tôi biết đã từng xảy ra giữa cha mẹ tôi. Một lần khác tôi nghe mẹ tôi nói:

-"Oâng hãy đưa tôi 10 ru bi để cho một người đàn bà vô phước đang đợi ở trước cửa".

Mẹ tôi vừa nói, vừa kèm theo một nụ cười rất hấp dẫn, không thể nào mà từ chối được.

-"Tại sao 10 ru bi? 1 ru bi cũng được mà. Khi các cụ nhà tôi qua đời, (cha tôi nói tiếp để tự bào chửa)ø lần đầu tiên tôi đã biết cảnh nghèo. Bửa ăn trưa của tôi chỉ gồm có một trái chuối nhỏ, mà tôi phải đi học, trường học cách xa tới mấy dặm đường. Về sau khi tôi vào Đại học, tôi nghèo đến nỗi tôi xin tiền trợ cấp mỗi tháng chỉ có một ru bi của một vị thẫm phán rất giàu. Vậy mà ông ta từ chối, viện lẽ rằng tôi đòi hỏi quá nhiều!.

Mẹ tôi nói:

-"Oâng thấy chưa? ngày nay ông cay đắng biết bao nhiêu khi nhớ lại sự từ chối đó! Vậy ông có muốn cho người đàn bà kia cũng cảm thấy một sự cay đắng như vậy chăng khi ông từ chối 10 ru bi mà bà ấy đang cần dùng cấp bách?" Mẹ tôi kết luận một cách rất hợp lý.

-"À, vậy là bà đã thắng!", cha tôi nói, và đành chào thua trước một lý luận chặt chẻ như thế. "Đây là 10 ru bi, bà hãy đưa cho bà ấy với tất cả mọi sự chúc lành của tôi."

Cha tôi dạy dỗ con cái trong vòng kỷ luật chặt chẽ và chính cha tôi cũng là một người sống rất khắc khổ. Bởi đó ngừơi không khi nào đi xem hát mà chỉ giải trí bằng sự tu dưỡng công phu và đọc Thánh kinh Bhagavad Gita. Khinh thường mọi sự xa xỉ, người mang đôi giầy cho đến khi cũ mèm không còn dùng được nữa. Các anh em tôi mua xe hơi khi loại xe này trở thành thông dụng, còn cha tôi chỉ đi xe "buýt" để đến sở làm. Lòng ham mê tài lợi là một điều hoàn toàn xa lạ đối với tính chất của người. Có một lần sau khi đã góp công thành lập nhà ngân hàng thành phố Calcutta, cha tôi từ chối không nhận phần chia lời đặc biệt của mình và nói rằng người chỉ làm bổn phận trong khi nhàn rỗi thế thôi.

Sau khi cha tôi về hưu được vài năm, một chuyên viên kế toán người anh đến xem xét sổ sách công ty. Ông ta lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà nhận thấy rằng cha tôi không hề đòi hỏi phần chia lời của mình. Người chuyên viên tuyên bố:

-"Ông ấy đã làm xong công việc của ba ngưoi! Công ty còn thiếu ông ta một số tiền lời chưa trả là 125.000 ru bi!"

Các viên chức Hoả Xa bèn gởi cho cha tôi một ngân phiếu trả đủ số tiền trên. Cha tôi không nghĩ gì về vấn đề ấy, thậm chí cũng quên cả việc nhắc nhở gia đình về số tiền đó. Về sau em trai tôi là Bishnu nhận thấy có một số tiền lớn gởi vào trương mục ngân hàng của cha tôi mới hỏi người về vấn đề ấy. Cha tôi nói:

-"Cần gì phải hãnh diện vì một lợi lộc vật chất? Người theo con đường minh triết không hề vui mừng vì được lợi lộc cũng như y không buồn khi bị mất mát thua lỗ. Y biết rằng con ngừơi khi bước vào đời không có một xu và khi từ giả cuộc đời cũng vậy mà thôi.

Ít lâu sau khi thành hôn cha mẹ tôi đã trở thành đệ tử của vị Minh sư Lahiri Mahasaya tại thành Bénares. Việc này càng tăng cường thêm tính chất khắc khổ vốn tự nhiên của cha tôi. Mẹ tôi có lần tâm sự với Uma, chị tôi:

-"Ba mầy với tao chỉ gần nhau một năm có một lần, mục đích duy nhất là để có con mà thôi."

Chú Abinash Babu, nhân viên Công ty Hoả Xa trạm Gorakhpur đã giới thiệu cha tôi cho vị Tôn sư Lahiri Mahasaya. Chú có thuật cho tôi nghe nhiều chuyện lạ lùng về đời sống các vị minh sư Ấn Độ và luôn luôn kết luận rằngTôn sư cao hơn các vị ấy.

-"Cháu có bao giờ nghe nói về những trường hợp lạ lùng đã khiến cho cha cháu trở nên đệ tử của Đức Lahiri Mahasaya chưa?"

Chính trong một buổi chiều mùa hạ đẹp trời khi chúng tôi ngồi chơi trước thềm nhà mà chú Abinash đã hỏi tôi câu hỏi đó, nó làm cho tôi rất tò mò. Tôi lắc đầu và ngồi lắng tai nghe. Chú bắt đầu nói:

-" Nhiều năm trước khi cháu ra đời, có lần tôi yêu cầu ba cháu hồi đó là Trưởng phòng sở Hoả Xa ở Gorakhopur, hãy cho tôi nghỉ phép một tuần để viếng thăm Sư Phụ ở Bénarès. Ba cháu bèn chế giểõu tôi; "Chú sắp trở thành cuồng tín chăng? Chú hãy siêng năng làm việc trong văn phòng, nếu chú muốn tiến thân trong đường công danh sự nghiệp"

"Ngày đó tôi buồn bã trở về nhà do một con đường nhỏ, và gặp ba cháu cũng đang đi kiệu về nhà khi tan giờ làm việc. Ba cháu cho những ngừơi phu khiêng kiệu trở về, rồi đi bộ để đàm đạo với tôi. Đ ể an ủi tôi, ba cháu mới nêu cao những lợi ích của sự làm việc để thành công trên đường đời. Tôi nghe một cách uể oải vì tâm trí tôi lúc ấy chỉ nghĩ đến Tôn sư Lahiri Mahasaya.

 Chúng tôi đi trên con đừơng mòn xuyên qua một cánh đồng yên tịnh, mặt trời chiều còn chiếu ánh nắng vàng trên ngọn cỏ. Chúng tôi bèn dừng chân đứng ngắm cảnh. Chính trong lúc ấy, từ trong cánh đồng cách chung tôi vài bứơc, thình lình xuất hiện vị Tôn sư của tôi:

-"Bhagabati, sao con quá khắc khe với thuộc hạ của con lắm vậy?". Giọng nói của Tôn sư vang rền và làm cho chúng tôi lặng người vì ngạc nhiên. Nói xong, ngài liền biến mất một cách đột nhiên như khi ngài xuất hiện. Tôi bèn quì gối giữa đường và thốt lên:" Lahiri Mahasaya, Sư phụ của con!". Ba cháu cũng hoàn toàn lặng người như bị sét đánh, và khi người đã trở lại sắc thái bình thường người nói:

-"Abinash, không những tôi cho chú nghỉ một tuần, mà chính tôi cũng nghỉ phép ngắn hạn để đi Bénarès ngày mai. Tôi khát khao được chiêm ngưỡng Đức Lahiri Mahasaya, người có quyền năng hiện hình tuỳ theo ý muốn chỉ vì mục đích duy nhất là để xin phép cho chú. Tôi muốn đem vợ tôi theo và yêu cầu Tôn sư cho chúng tôi được làm lễ nhập môn để theo ngài học Đạo. Chú sẳn lòng giới thiệu chúng tôi chứ?"

-"Lẽ tự nhiên", tôi đáp.

"Tôi rất vui mừng mà thấy rằng lời cầu nguyện của tôi đã linh ứng và mọi sự đã xảy ra một cách tốt đẹp.

"Chiều hôm sau chúng tôi lên xe lửa đi Bénarès. Qua ngày kế đó chúng tôi đi lần lần, khi thì đi xe ngựa, khi thì đi bộ ttrên các đường mòn để đến nơi am thất vắng vẻ củaTôn sư. Khi chúng tôi bước vào phòng khách, chúng tôi nghiêng mình kính cẩn chào Tôn sư, còn ngài thì ngồi trong tư thế "liên hoa" như thường lệ. Ngài bèn nhìn thẳng vào mắt ba cháu và nói:

-"Bhagabati, sao con quá khắc khe với thuộc hạ của con lắm vậy!", những lời này chính ngài đã thốt ra hôm nọ ở cánh đồng Gorakhpur. "Ta rất vui mà thấy con đã cho phép Abinash đến đây và cả hai vợ chồng con cùng đi!"

"Kế đó Tôn sư bèn làm lễ nhập môn cho cha mẹ cháu theo đạo pháp Kryâ Yoga . Từ ngày đáng ghi nhớ khi cái linh ảnh của Tôn sư xuất hiện trên cánh đồng, ba cháu và tôi sát cánh với nhau không rời như hai huynh đệ đồng môn. Đức Lahiri Mahasaya đã chú ý đặc biệt đến cháu ngay từ ngày cháu sinh ra đời. Cuộc đời cháu chắc chắn là sẽ có liên hệ với ngài, vì ân huệ củaTôn sư không bao giờ lầm lẫn….

Đức Lahiri Mahasaya từ bỏ thế gian ít lâu sau khi tôi vừa bước vào cuộc đời. Bức di ảnh của ngài lồng trong một cái khuôn chạm trổ rất đẹp, luôn luôn được đặt trên một bàn thờ nhỏ của gia đình, bất cứ ở thành phố nào mà cha tôi di chuyển đến vì nhu cầu công vụ. Sáng và chiều, mẹ tôi và tôi đều suy gẫm trước bàn thờ, và dâng hương hoa.

Bức chân dung đó có một ảnh hưởng lạ lùng trong đời tôi. Tư tưởng về Tôn sư không ngớt thấm nhuần vào người tôi một cách sâu xa khi tôi càng trưởng thành. Có nhiền khi trong những cơn thiền định của tôi, hình ảnh ngài dường như bứơc ra khỏi cái khuôn và ngồi xuống trước mặt tôi như người sống. Khi tôi thử đưa tay ra để sờ vào hai bàn chân ngài thì hình ảnh ấy lại trở thành bức chân dung và lại lọt vào cái khuôn. Thời gian trôi qua, đức Lahiri Mahâsaya không còn là một hình ảnh lồng trong khuôn mộc mạc tầm thường nữa, mà trong linh giác của tôi ngài đã biến thành một sự hiện diện rực rỡ huy hoàng. Tôi luôn luôn gởi lời cầu nguyện đến với ngài trong những khi buồn thảm cô đơn và tôi luôn luôn được một sự hổ trợ tinh thần rất mạnh mẽ. Lúc đầu tôi rất buồn vì tưởng rằng ngài đã chết nhưng về sau tôi nhận thức rõ rệt về sự toàn thông của ngài và tôi không buồn rầu nữa. Ngài thường viết thư trã lời cho những đệ tử quá bồn chồn mong được gặp mặt ngài như sau:"Các con có được lợi ích gì mà nhìn thấy cái thể xác vật chất của ta trong khi ta luôn luôn hiện diện trước nhãn quang tâm linh của các con"

Nhờ bức di ảnh của Tôn sư mà tôi đã được khỏi bịnh một cách nhiệm mầu hồi tôi mới lên tám tôi, điều này càng làm tăng thêm lòng yêu quý của tôi đối với ngài. Khi cha mẹ tôi còn ở Ichapur tỉnh Bengale, tôi mắc bịnh thiên thời một chứng bịnh hiểm ngèo rất khó chữa. Các y sỉ đã tuyệt vọng và tuyên bố không thể chữa khỏi được bịnh ấy. Mẹ tôi ngồi bên giường bịnh và bảo tôi hãy nhìn bức chân dung của đức Lahiri Mahasaya treo trên tường ở trên đầu giường của tôi.

-"Con hãy quỳ trước mặt ngài bằng tư tưởng", mẹ tôi nói, vì biết rằng tôi không còn đủ sức để cựa quậy một ngón tay."Nếu con có thể chiêm bái ngài với tất cả tâm hồn, thì con sẽ được cứu thoát."

Tôi chiêm ngưỡng bức thánh dung và đột nhiên một ánh sáng rạng ngời bao phủ lấy mình tôi và lan rộng ra khắp phòng. Cơn buồn mửa và những triệu chứng khác đều tiêu tan, tôi cảm thấy hết bịnh. Đồng thời tôi có đủ sức nghiêng mình tới trước và nắm lấy bàn tay của mẹ tôi chứng tỏ cho mẹ tôi biết rằng đức tin vững chắc của mẹ tôi nơi đức Tôn sư đã được đáp ứng mỹ mãn. Mẹ tôi bèn ôm lấy bức chân dung mầu nhiệm và áp đặt lên gò má của bà nhiều lần để tỏ lòng Tôn kính.

-"Oâi Tôn sư cao cả! Xin tạ ơn ngài đã ban ân huệ để cứu mạng con tôi!".

Khi đó tôi biết mẹ tôi cũng đã nhận thấy cái ánh hào quang sáng rực nhờ đó mà tôi đã được cứu chữa khỏi một chứng bịnh hiểm nghèo.

Bức chân dung đó là một trong những tài sản quý nhất của tôi. Ngày xưa chính đức Tôn sư đã ban bức chân dung ấy cho cha tôi, hiện nay nó vẫn còn mang theo những từ điển và thần lực thiêng liêng, Kali Kuma Roy, bạn đồng môn với cha tôi có thuật cho tôi nghe lịch sử huyền diệu của nó.

Tôn sư vốn rất ghét chụp ảnh. Mặc dù ngài đã phản đối nhiều lần nhưng người ta đã chụp được nhiều bức ảnh của một nhóm đệ tử vây chung quanh đức Lahiri Mahasaya. Những người chụp ảnh, lấy làm vô cùng ngac nhiên mà thấy rằng trong các bức hình, không thấy có Tôn sư đâu cả và chỗ ngài ngồi lại trống trơn, hiện tượng này đã gây nên nhiều lời bình luận sôi nổi.

Khi đó, một đệ tử kiêm chuyên viên nhiếp ảnh đại tài là Ganga Dha Babu, mới nhất định chụp cho kỳ được hình ảnh của Tôn sư mới nghe. Sáng ngày hôm sau khi Tôn sư ngồi tĩnh toạ công phu theo thế "liên hoa" trên một chiếc ghế dài với một tấm bình phong phía sau lưng, Ganga Dha Babu bèn thình lình xuất hiện với một cái máy ảnh. Y đã chuẩn bị mọi sự một cách vô cùng chu đáo và chụp liên tiếp mười hai tấm ảnh. Khi rửa hình xong thì trong hình chỉ trơ trọi có cái ghế dài và tấm bình phong, mà không thấy Tôn sư đâu cả.

Xấu hổ và rưng rưng nước mắt, Ganga Dha Babu đến tìm đức Tôn sư. Nhiều giờ lặng lẽ trôi qua trước khi Tôn sư phá tan im lặng và nói:

-" Ta là tinh thần. Máy ảnh của con có thể nào chụp được cái tinh thần vô hình vô ảnh?"

-"Con thấy rỏ là không! Nhưng bạch Tôn sư con rất mong muốn có một tấm hình của cái linh điện bằng xương thịt mà theo con biết đang làm chỗ trú ngụ duy nhất cho cái tinh thần đó"

-"Như vậy con hãy đến đây sáng ngày mai. Ta sẽ để cho con chụp một tấm"

Thế là người nhiếp ảnh viên lại có dịp trổ tài. Hình bóng đức Tôn sư từ trước vẫn không ai chụp được, lần này đã hiện ra rõ rệt trên bức ảnh. Từ khi đó Tôn sư không bao giờ chịu cho ai chụp ảnh ngài nữa.

Ít lâu sau khi đã phục hồi sức khoẽ nhờ bức chân dung mầu nhiệm của Tôn sư, tôi có một linh ảnh lạ lùng. Một buổi sáng khi tôi còn ngồi trên giường, bỗng nhiên tôi rơi vào một giấc mơ thâm sâu huyền diệu. Một ánh hào quang rạng ngời và rộng lớn vô biên đột nhiên xuất hiện trước nhãn quang của tôi. Những hình ảnh thiêng liêng của các đấng hiền minh thánh triết đắm chìm trong cơn thiền định trong các hang núi thâm u diễn ra trước mắt tôi như một cuốn phim trên màn ảnh.

-"Quý vị là ai?", tôi cất tiếng hỏi.

-"Chúng tôi là các đạo sĩ Yogi trên dãy Tuyết sơn", câu trả lời vang vọng đến tai tôi gây cho tôi một cảm giác say sưa, lâng lâng thoát tục.

-"A, tôi cũng phải lên dãy Tuyết sơn để trở nên như quý vị."

Cái linh ảnh biến mất nhưng những tia sáng vẫn còn nới rộng thành những vòng tròn trong không gian vô tận..

-"Ánh sáng huyền diệu ôi! Người là ai?"

-"Ta là Thượng đế. Ta là Ánh sáng" Giọng nói ấy nghe xuôi rót vào trong như tiếng suối bạc chảy trong khe núi.

-"Con chỉ muốn hợp nhất với Ngài!"

Niềm phúc lạc thiêng liêng ấy tan dần và biến mất, còn tôi từ ấy luôn luôn khao khát muốn tìm sự hợp nhất với Thượng đế là đấng trường tồn, nguồn gốc của mọi hạnh phúc và an vui bất tận. Cái kỷ niệm ấy vẫn còn tồn tại rất lâu sau khi linh ảnh chấm dứt.

Một kỷ niệm khác hồi thời thơ ấu của tôi cũng đáng ghi nhớ, vì nó còn ghi dấu trên mình tôi bằng một cái thẹo. Một buổi sáng Uma, chị tôi và tôi cùng ngồi chơi dưới tàn cây to ở Gorakhpur. Trên cành cây những con két đang mổ vào những trái sung chin đỏ. Uma kêu đau và lấy thuốc xoa bóp chổ đau. Để giởn chơi, tôi cũng lấy một chút thuốc và xoa trên cánh tay tôi.

-"Em không đau mà cũng thoa thuốc trên tay làm gì?" chị tôi hỏi

-"Chị không biết, ngày mai em sẽ bị mụt nhọt. Em thoa thuốc trước ở chổ mà nó sẽ xuất hiện."

-"Đồ nói láo!"

-"Chị ơi, chị không có quyền mắng em như thế trước sáng ngày mai, rồi chị sẽ thấy đúng như lời em nói" tôi tức mình nên nói càn như vậy.

Uma không tỏ vẻ hối hận mà còn lập lại câu mắng tôi lúc nãy. Tôi bèn đáp lại bằng một giọng đầu cương quyết:

-"Với cả sức mạnh và ý chí trong mình tôi, tôi tuyên bố không trễ hơn sáng ngày mai, tôi sẽ có một cái mụt nhọt nơi cánh tay này, còn cái mụt nhọt của chị sẽ song gấp đôi!"

Sáng ngày hôm sau quả thật nơi cánh tay tôi mọc lên một cái mụt nhọt khá lớn và đỏ au, còn mụt nhọt của Uma song vù lên trông thật dễ sợ. Chị tôi la hoảng lên và chạy kiếm mẹ tôi:

-"Mẹ ơi! Mukunda đã thành phù thuỷ!"

Mẹ tôi nghiêm nghị bảo tôi không bao giờ nên dùng quyền năng của lời nói để làm chuyện chẵng lành. Tôi vâng lời mẹ và từ đó không hề quên lời dạy ấy.

Mụt nhọt của tôi về sau phải đem đi mỗ, tôi hãy còn giữ lại cái thẹo nơi cánh tay mặt, nó luôn luôn nhắc nhở tôi cái quyền năng bất hũ của lời chú nguyện chẳng lành.

Những lời nói chất phác tầm thường bề ngoài có vẻ vô tội mà tôi đã thốt ra với ai một sự tập trung ý chí mãnh liệt cũng đủ phát ra một sức mạnh vô hình phá hoại các tế bào trong da thịt. Về sau tôi hiểu rằng các âm ba rung động của lời chú nguyện có một quyền năng mãnh liệt, nó còn có thể được sử dụng để giúp chúng ta thoát khỏi những khó khăn của cuộc đời.

Gia đình chúng tôi đổi đến Lahore trong tỉnh Punjab. Nhà có đặt một cái trang thờ nhỏ ở ngoài bao lơn để thờ đức Phật bà Quan Thế Âm. Không hiểu sao tôi có một đức tin chắc chắn rằng trước cái trang thờ thiêng liêng này mỗi lời cầu nguyện của tôi đều sẽ được đáp ứng. Một ngày nọ khi tôi đang đứng với chị Uma trước bao lơn tôi thấy có hai con diều giấy bay trên nóc nhà ở phía bên kia đường. Uma thấy tôi đang suy tư bèn nói đùa:

-"Hôm nay em có vẽ như một nhà hiền triết"

-"Em đang nghỉ đức Phật Mẫu thật đã quá tốt lành mọi điều em mong ước"

-"Chị chắc Ngài đã cho em một con diều giấy kia rồi đấy." Chị tôi nói bằng một giọng giễu cợt.

-"Tai sao không?"

Tôi bèn âm thầm cầu nguyện đức Phật Mẫu làm cho một con diều giấy kia rơi vào tay tôi.

Bên Aán độ người ta rất thích chơi diều giấy. Mỗi người chơi lại tìm cách cắt đứt sợi dây diều của một kẻ đối phương. Khi con diều bị cắt đứt dây, nó sẽ bay lượn trên không trước khi rơi xuống nóc nhà và một cuộc rượt bắt sôi nổi sẽ diễn ra xem ai bắt được con diều, vì lẽ tôi và Uma đang đứng trên bao lơn, nên không thể nào chúng tôi rượt bắt kịp những người khác.

Phía bên kia đường lộ, cuộc chơi đã bắt đầu. Một con diều bị cắt đứt dây, nó liền bay đến gần chổ tôi đứng. Tự nhiên gió im bặt làm cho con diều cũng ngừng bay hết một lúc, sợi dây của nó vướng vào một cây xương rồng trên nóc bằng của nhà bên cạnh, rồi cuốn lại thành một cái gút to xòa xuống trước mặt tôi. Tôi bèn đưa tay ra nắm lấy sợi dây và đưa con diều cho Uma.

-"Đây chỉ là sự ngẫu nhiên tình cờ và không có dính dáng gì đến lời cầu nguyện của em. Em hãy bắt luôn con diều kia thì chị mới tin."

Tuy chị tôi nói vậy nhưng tôi thoáng thấy trong cặp mắt chị có một sự ngạc nhiên, nó đính chánh lời của chị.

Tôi bèn tiếp tục cầu nguyện Phật bà Quan Thế Aâm với tất cả tâm hồn. Một người chơi diều bị cắt đứt dây, con diều bèn nhảy múa trên không theo chiều gió và hướng về phía tôi. Sợi dây lại quấn vòng quanh cây xương rồng như lúc nãy rồi làm thành một cái gút lớn hạ xuống trước mặt tôi. Tôi bèn nắm lấy và đưa con diều thứ hai cho Uma.

-"Lạ thật, đức Phật Mẫu quả đã nghe lời cầu nguyện của em, chị chẳng hiểu gì cả!" . Chị tôi liền chạy đi như một con nai tơ bị đuổi.

Mục lục | Lời tựa | 1 | 2 | 3| 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25|
Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban biên tập Đạo Phật Ngày Nay.

 


Vào mạng: 1-04-2005

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang