Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyên tác:  AUTOBIOGRAPHIE D’UN YOGI
Của: Tu sĩ   PARAMHANSA YOGANANDA

CHƯƠNG HAI MƯỜI BA

 MỘT CUNG ĐIỆN TRÊN DÃY TUYẾT SƠN

 -"Sự gặp gỡ giữa Lahiri Mahâsaya và Babâji là một chuyện thần tiên, một huyền thoại phi phàm thật xứng đáng với tác phong của vị Tôn sư bất tử"

Chính bởi những lời này mà tu sĩ Kebalâ bắt đầu câu chuyện tường thuật của ông. Lần đầu tiên tôi nghe câu chuyện này, tôi đã thật sự giật mình vì kinh ngạc. Sau đó tôi đã nhiều lần yêu cầu tu sĩ, thầy dạy Phạn ngữ của tôi, hãy lập lại cho tôi nghe câu chuyện ấy, mà về sau Sri Yukteswa kể cho tôi nghe cũng đại khái giống y như thế. Hai vị đều là đệ tử của đức Lahiri Mahâsaya và đều được nghe Tôn sư trực tiếp kể lại câu chuyện ấy. Đức Lahiri Mahâsaya thuật chuyện như sau:

-"Cuộc gặp dở đầu tiên của tôi với đức Babâji xảy ra vào năm tôi 33 tuổi. Mùa thu năm 1861, tôi đang làm kế toán viên của sở Hành Chánh quân đội Anh ở Anapur. Một buổi sáng ông trưởng phòng cho mời tôi đến và nói:

-"Lahiri, chúng tôi vừa nhận được một bức điện của văn phòng trung ương. Anh sẽ được thuyên chuyển đi Ranikhet, tại đây một tiền đồn quân sự vừa mới được thiết lập."

"Tôi bèn cùng ngồi với một người gia nô bắt đầu một chuyến viễn du dài 500 dặm đường. Khi thì đi ngựa, khi đi xe, sau một tháng trường, chúng tôi đã đến Ranikhet dưới chân dãy núi Tuyết Sơn. Công việc của tôi ở đây cũng nhàn, nên tôi có nhiều thì giở rảnh để đi chơi trên núi. Người ta đồn rằng vùng này đã được thánh hoá bởi sự hiện diện của nhiều bậc hiền giả, chân tu đã đắc đạo. Tôi cảm thấy một sự mong ước mãnh liệt là được gặp các ngài. Một buổi chiều, trong một chuyến đi ngao du trên núi, tôi ngạc nhiên mà nghe thấy có một giọng nói từ đàng xa gọi tên tôi. Tôi đang cố gắng leo lên sườn núi cheo leo như vách của ngọn núi Drongiri, và hơi e ngại rằng có thể tôi không kịp về nhà trước khi trời tối. Sau cùng tôi đến một khoảng trống và hẹp giữa hai bên vách núi có những hang động thâm u; ở trước hang động này tôi thấy một dị nhân gương mặt trẻ như một thanh niên, vừa mỉm cười vừa đưa một tay vẫy tôi như một cử chỉ đón tiếp. Tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy người ấy giống tôi như đúc, chỉ trừ ra mái tóc của người như màu đồng đỏ.

-"Lahiri, con đây rồi."

Dị nhân nói với tôi một cách trìu mến bằng tiếng thổ ngữ Bắc Aán.

-"Con hãy nghỉ ngơi trong động này. Chính ta đã gọi con đến đây."

Tôi bước vào hang động và nhìn thấy có đệm, chăn bông, và vài cái bình bát khất thực.

-"Lahiri, con có nhớ chỗ ngồi này không?"

Dị nhân vừa nói vừa chỉ một tấm nệm vuông ở một góc.

-"Bạch ngài, tôi không nhớ."

Hơi ngạc nhiên vì cuộc gặp gỡ lạ lùng này tôi nói thêm:

-"Bây giờ, tôi phải trở về trước khi trời tối. Sáng mai tôi còn phải có mặt ở sở làm"
Dị nhân nói bằng một câu tiếng Anh rất tôi chảy:

-"Sở làm được tạo ra cho con chớ không phải con được tạo ra cho sở làm!"

Tôi lấy làm kinh ngạc mà thấy dị nhân không những nói được tiếng Anh mà còn chú thích cả lời nói của đấng Christ

-"Ta thấy rằng bức điện tín của ta đã có hiệu quả."

Câu nói đó đối với tôi là một điều bí hiểm. Tôi xin dị nhân giải thích rõ. Người đáp:

-"Ta nói về bức điện tín nó đã kêu gọi con đến nơi thị trấn hẻo lánh này. Chính ta đã dùng thần giao cách cảm để gợi ý cho thượng cấp của con thuyên chuyên con đến Ranikhet. Đối với người nào đã đạt tới sự hợp nhất tâm linh với toàn thể nhân loại, thì tất cả những linh hồn đều là những trạm thu thanh vô tuyến sẵn sàng tiếp nhận mệnh lệnh của y."

Dị nhân nói thêm với tấm lòng ưu ái:

-"Lahiri, chắc hẳn con đã từng quen với chốn hang động này?"

Tôi còn đang hoang mang trong sự thầm lặng, dị nhân bèn bước đến gần và vỗ nhẹ một cái trên trán tôi. Ngay khi đó, một luồng từ điển chạy xuyên qua óc tôi, làm cho tôi nhớ lại những kỷ niệm đã bị che lấp về tiền kiếp của tôi.

-"À, con nhớ ra rồi."

Giọng nói tôi đứt quãng vì xúc động, xen lẫn với những giọt lệ vì sung sướng.

-"Ngài tức là Babâji, Sư phụ con! Cũng như tự thuở nào!"

"Những hình ảnh của quá khứ diễn ra rõ ràng trong trí tôi: chính tại đây, trong động núi thâm u này tôi đã từng sống trong nhiều năm, trải qua nhiều tiền kiếp! Những kỷ niệm đó mỗi lúc càng hiển hiện ra trong ký ức tôi, tôi bèn cuối xuống hôn hai bàn chân của Sư phụ thiêng liêng…

-"Ta đã đợi con ở đây từ trên 30 năm nay; ta hy vọng con sẽ trở lại!"

Một tình thương bao la biểu lộ trong giọng nói của Babâji:

-"Con đã từ biệt ta và biến mất dạng giữa những cảnh giới bên kia cửa tử. Sư hành động của nghiệp quả mầu nhiệm như chiếc đũa thần, đã khiến cho con từ giã cõi trần và con đã biến mất. Tần nhãn quang của con không còn nhìn thấy ta nữa, nhưng còn ta thì trái lại không khi nào! Ta đã theo dõi con trên những làn sóng hào quang dồn dập của biển trung giới, là nơi mà các vị thiên thần bay lượn thong dong. Xuyên qua bóng tôi dày đặc, xuyên qua bão bùng mưa gió, ánh sáng, ta đã theo dõi con như một người mẹ tìm con. Khi con đầu thai vào lòng mẹ trong kiếp này, ta đã chú ý đến con. Khi còn nhỏ, con tập ngồi thiền trong tư thế liên hoa, ta đã có mặt một bên, tuy rằng vô hình vô ảnh. Trải qua bao nhiêu năm tháng dập dồn, ta luôn luôn để ý theo dõi con và trong đợi đến ngày tốt lành mà con sẽ trở lại sống gần bên ta. Đây là cái động đá thân yêu của con khi xưa. Ta vẫn giữ cho nó được sạch sẽ, sẵn sàng tiếp đón ngày con trở về. Đây là tấm nệm con vẫn ngồi thiền, trên đó con đã trải qua bao nhiêu giờ công phu thiền định. Kìa, con hãy nhìn xem, đây là cái bình bát khất thực, trong đó bao lần con đã uống cạn nước cam lồ mà ta rót cho con! Con có nhận thấy chăng nó vẫn trơn tru, bóng loáng, sáng chói chờ đợi đến ngày nó sẽ phục vụ con như thuở nào. Con hỡi, bây giờ con đã hiểu chưa?"

-"Bạch Sư phụ, con còn biết nói gì hơn?", tôi nói thì thầm, giọng nói đứt đoạn vì xúc động. "Chưa bao giờ con được nghe nói đến một thứ tình thương sâu rộng bao la như thế, tình ấy còn mạnh hơn cả bất cứ một mãnh lực nào trên thế gian này!"

Tôi rơi vào một trạng thái say sưa ngây ngất trong một lúc rất lâu, và chiêm ngưởng đức Sư phụ mến yêu của tôi. Thầy của tôi trong cõi sống cũng như trong cõi chết.

-"Lahiri, con phải tinh luyện xác thân con. Con hãy uống chất dầu đựng trong cái chén này, rồi đi ra tắm rửa dưới giòng sông ở trước mặt."

Tôi thầm nghĩ:

-"Sự minh triết của Babâji cũng vẫn như độ nào!’

Tôi bèn tuân theo các chỉ thị đó. Tuy rằng đêm lạnh như băng của vùng Tuyết Sơn đã đến, một nhiệt độ tốt lành dễ chiịu phát sinh từ những rung động thầm kín bên trong nội tâm đã thấm nhuần tất cả tế bào trong thân thể tôi. Hay là chất dầu mà tôi vừa uống đã đem lại sự công hiệu nhiệm mầu?

Một ngọn gió lạnh như cắt thổi rít lên chung qunah tôi, và tung hoành như vũ bão trong đêm tối. Những ngọn sóng nhấp nhô của con sông Gogash lạnh như băng đập vào mình tôi , trong khi tôi bám chặt lấy những tảng đá lớn. Những tiếng gầm thét của chúa sơn lâm vang dội gần bên, nhưng lòng tôi không cảm thấy sợ sệt; một nguồn thần lực vô hình xâm chiếm lấy tôi và đem cho tôi một sự dũng cảm phi thường không thể lay chuyển. Thời gian trôi qua rất mau. Những kỷ niệm xa vời của một tiền kiếp trở lại dồn dập trong trí tôi, xen lẫn với niềm hạnh phúc vừa được gặp lại vị Sư phụ thiêng liêng của tôi.

Thình lình giữa cơn vắng lặng của núi rừng tôi nghe có tiếng chân người bước tới gần. Trong bóng tối một bàn tay ưu ái đỡ tôi đứng dậy và cầmđưa cho tôi một bộ quần áo khô ráo.

-"Sư huynh hãy trở về động, Sư phụ đang chờ đấy."

Người ấy đưa đường cho tôi đi xuyên qua rừng. Từ đàng xa một ánh sáng rực rỡ chọc phủng màn đêm u tối một cách đột ngột. Ngạc nhiên tôi hỏi:

-"Trời đã sáng rồi chăng? Sao mà mau lắm vậy, vì tôi tưởng là đêm hãy còn lâu mới hết."

-"Mới vừa nửa đêm thôisư huynh ạ."

Người hướng dẫn tôi mỉm cười:

-"Aùnh sáng đó toát ra từ một cung điện bằng vàng khối mà đức Sư phụ toàn năng vừa tạo ra. Trong một tiền kiếp, sư huynh đã bày tỏ lòng mong ước có một toà lâu đài bằng vàng. Sư phụ đã làm thoả mãn lòng ước vọng đó để cho sư huynh được giải toả khỉ một sợi dây trói buộc của nghiệp quả"

Người lại nói thêm:

-"Toà cung điện này sẽ là nơi sư huynh làm lể nhập môn theo đạo pháp Kriyâ Yoga. Tất cả các huynh đệ đều vui mừng chào đón sư huynh sau một thời gian vắng mặt lâu dài. Kìa, sư huynh hãy nhìn xem!"

Một toà cung điện nguy nga đồ sộ bằng vàng chói sáng rực rỡ hiện ra trước mắt tôi. Lâu đài có cẩn muôn nghìn viên ngọc quý đủ màu và dựng lên giữa một khung cảnh vườn tược rộng rãi, cây cối sầm uất. Thật là một cảnh tượng có một không hai trên thế gian này. Những vị tu sĩ thánh đức gương mặt hiền hòađứng túc trực nơi các cửa vàng có chạm những viên ngọc lưu ly màu đỏ thắm chói loà. Các cổng ngoài, cửa trong và khung cửa lớn, cửa nhỏ, thảy đều có cẩn ngọc trai, trân châu, kim cương, ngọc bích, ngọc thạch v.v…huy hoàng lộng lẫy, sang trọng vô cùng.

"Tôi đi theo người hướng dẫn viên vào tòa sảnh đường. Một mùi hương trầm và mùi thơm của hoa hường đượm trong không khí; hằng nhìn ngọn hoa đăng muôn màu nghìn sắc chiếu một ánh sáng nhạt mờ huyền ảo. Từng nhóm tu sĩ hoặc môn đồ màu da trắng hoặc nâu sậm ngồi rải rác đó đây hoặc hát thánh ca hoặc ngồi thiền theo tư thế liên hoa, đắm chìm trong cơn yên tĩnh của nội tâm. Một niềm vui tươi phảng phất trong không khí. Người hướng dẫn viên mỉm cừơi một cách thân tình với tôi, trong khi tôi thốt ra những tiếng kêu ngạc nhiên và thán phục. Y nói:

-"Sư huynh hãy chiêm ngưởng cho thỏalòng sự huy hoàng lộng lẫy của toà lâu đài này, vì nó được lập nên để chào mừng sư huynh đây!"

Tôi đáp:

-"Sư huynh hỡi, những công trình kiến trúc nguy nga tráng lệ này thật là vượt khỏi sự tưởng tượng của con người. Xin sư huynh hãy vui lòng tiết lộ cho biết sự bí mật về nguồn gốc của nó."

-"Tôi xin sẳn lòng!"

Một tia minh triết chiếu sáng trong cặp mắt người bạn đồng môn của tôi; người bắt đầu nói:

-"Trong cõi thiên nhiên không có gì là khó giải thích. Toàn thể vũ trụ chỉ là sự kết tinh tư tưởng của đấng Tạo Hoá. Chính quả địa cầu này cũng là sự thể hiện giấc mơ của Đấng Hoá Công; Ngài sáng tạo mọi vật từ trong ý thức hệ của Ngài, cũng y như con người lập lại trong giấc ngủ những gì y đã thấy thật sự trong khi thức tỉnh.

"Lúc khởi thuỷ, Thượng Đế sáng tạo nên Trời Đất bằng cách phác hoạ nên hình ảnh vũ trụ trong trí của Ngài, kế đó ngài mới kết tinh lại thành hình: những nguyên tử tinh lực mới phát sinh và kết cấu lại thành những quả tinh cầu đông đặc. Tất cả những phân tử hoá chất đều kết hợp lại do bởi YÙù chí thiêng liêng. Khi Thượng Đế rút lại cái YÙ chí đó, quả địa cầu lại tan rã thành tinh lực vô hình, vô ảnh, và thậm chí đến tinh lực này cũng tan biến để hoàn nguyên trở lại thành ý thức của Thượng Đế. Chừng đó quả địa cầu dưới hình thức một ý nghĩ của Thượng Đế, đã mất hẳn sự tồn tại của nó trong không gian.

"Nhờ hợp nhất làm một với YÙù chí sáng tạo thiêng liêng, đức Babâji có cái quyền năng kết cấu phối hợp những nguyên tử vật chất lại thành vô số hình thể biến hoá đến vô cùng tận. Toà cung điện bằng vàng khối này được dựng lên trong nháy mắt, cũng có thật như quả địa cầu của chúng ta đây. Sư phụ đã phác hoạ sẵn trong trí cái hình ảnh toà lâu đài bằng vàng và dùng quyền năng của ý chí kết tinh các nguyên tử vật chất trong không gian theo kiểu mẫu cái khuôn đã đúc sẵn trong trí để cho nó thể hiện ra thành sự thật. Điều này cũng giống y như khi Thượng Đế sáng tạo ra Trời Đất và các bầu thế giới và duy trì các quả tinh cầu thành hình trong một thời gian nhất định"

Người bạn tôi nói thêm:

-"Khi toà lâu đài thực hiện xong vai trò của nó, Babâji sẽ làm cho nó tan rã và trở về cái kho tinh lực vật chất trong thiên nhiên."

"Tôi lặng người ngạc nhiên trước sự mầu nhiệm đó, người bạn tôi nói tiếp:

-"Toà cung điện nguy nga cẩn vàng lát ngọc này không phải xây dựng nên bằng sức lao động. Người đã đạt tới cái quả vị thiêng liêng cao quý như Babâji có thể thực hiện bất cứ việc nhiệm mầu nào do bởi nguồn thần lực vô biên ẩn tàng trong Chân ngã của ngài. Một cục đá có tiềm năng chứa đựng cả một kho nguyên tử lực vô tận. Chính cũng bởi đó mà một người phàm có cái tiềm lực hàm xúc một tiềm năng vô biên: ấy là nguồn gốc thiêng liêng ẩn tàng của y."

Vị tu sĩ day qua một bàn gần bên và cầm lấy một lọ lộc bình rất quý, cái quai có cẩn kim cương lóng lánh và nói tiếp:

-"Sư phụ đã tạo nên tạo cung điện này bằng hằng hà sa số những vũ trụ tuyến đã kết tinh đông đặc lại. Sư huynh hãy cầm lấy cái lộc bình này, hãy sờ mó những viên kim cương này để nhận xét rằng đó là sự thật chứ không phải là ảo ảnh."

"Tôi quan sát lọ lộc bình và đưa tay sờ lên vách tường đúc bằng vàng khối. Mỗi viên ngọc quý thật xứng đáng với cung điện của nhà vua! Một sự thoả mãn thâm trầm đã tràn ngập cõi lòng tôi: một ước vọng thầm kín chôn chặt tự đáy lòng từ bao nhiêu kiếp trở về trước, nay vừa mới được thực hiện!

"Xuyên qua những cánh cửa chạm trổ tinh vi, những hành lang dài thăm thẳm, những gian phòng trang hoàng lộng lẫy theo một cách điệu sang trọng của bậc đế vương, vị tu sĩ đưa tôi vào một nơi cung thất to rộng vô cùng. Nơi chính giữa có đặt một chiếc ngai vàng cẩn ngọc chớp sáng loè muôn màu nghìn sắc. Trên ngai vàng, đức Babâji ngồi tĩnh toạ theo thế liên hoa. Tôi bèn cúi đầu làm lễ dưới chân ngài trên sàn gạch đánh bóng. Sư phụ cất tiếng hỏi:

-"Lahiri, con vẫn còn nuôi cái mộng được sở hữu một cung vàng điện ngọc nữa chăng?"

Đôi mắt của Sư phụ chiếu sáng như những viên ngọc quý trong cung điện

-"Con hãy thức tỉnh. Tất cả những giấc mộng trần gian của con nay đã gần phủi sạch!"

Sư phụ bèn thì thầm một câu chân ngôn bí mật. Kế đó người nói:

-"Con hãy đứng dậy để làm lễ nhập môn vào cõi giới của Thượng Đế do đạo pháp Kriyâ Yoga"

Babâji đưa hai tay ra trước một bàn thờ: một ngọn lửa hy sinh (homa) xuất hiện một cách mầu nhiệm, giữa những bông hoa và trái cây. Tôi bèn làm lễ thụ pháp giải thoát của pháp môn Yoga trước bàn thờ khói hương nghi ngút.

"Lúc trời hừng sáng, cuộc lễ đã chấm dứt. Không cảm thấy buồn ngủ chút nào, tôi đi dạo thơ thẩn trong cung điện và ngắm nhìn những đồ mỹ nghệ quý giá cùng những kho tàng bảo vật chỉ có trong những truyện thần thoại hoang đường. Trong những khu vườn hoa đẹp như bồng lai tiên cảnh, tôi nhìn thấy những khối đá tảng của hang núi: mới ngày hôm qua đây chưa có một toà lâu đài nào ở chung quanh.

"Trở về cung thất chiếu rạng ngời những ánh vàng lộng lẫy trước những tia nắng bình minh, tôi đưa mắt nhìn quanh để tìm Sư phụ. Người vẫn ngồi tĩnh tọa trên ngai giữa bầu không khí yên lặng có các vị đệ tử đứng vây chung quanh. Kế đó Babâji nói:

-"Lahiri, chắc con đã đói bụng. Con hãy nhắm mắt lại."

Khi tôi mở mắt ra, toà lâu đài cung điện và những cảnh hoa viên xinh đẹp như mộng đã biến mất! Babâji, các đệ tử và tôi thảy đều ngồi dưới đất, ở ngay chỗ toạ lạc của toà lâu đài khi nãy, cách hang động của Sư phụ không xa. Tôi mới nhớ lại lời nói của vị hướng dẫn tôi từ lúc đầu rằng toà cung điện sẽ được giải thể sau khi đã hoàn thành sứ mạng của nó, những nguyên tử kết hợp sẽ được giải toả và tiêu tan trong kho tinh lực của trời đất. Kinh ngạc vô cùng nhưng tôi nhìn Sư phụ một cách tin tưởng, và tự hỏi không biết ngày ấy sẽ còn dành cho tôi những sự bất ngờ nào nữa chăng. Babâji giải thích:

-"Mục đích việc thiết lập nên toà cung điện này đã được thực hiện."

Ngài lấy một cái chén lớn bằng đất đưa cho tôi và nói:

-"Con hãy cầm lấy cái chén này và con sẽ có đủ những vật thực mà con muốn ăn."

Khi tôi cầm lấy cái chén lớn, nó liền chứa đầy những khoanh bánh bột mì chiên bơ, cà ri và những cao lương mỹ vị khác. Tôi ăn ngon lành và nhận thấy rằng cái chén không bao giờ cạn thức ăn. Khi đã ăn no tôi mới đi tìm nước uống. Sư phụ chỉ cái chén mà tôi vừa dùng xong, và thức ăn được thay thế bằng nước suối mát trong lành. Babâji nói:

-"Người thế gian ít ai ngờ rằng cõi trời là cõi mà mọi điều ước vọng đều được thỏa mãn. Cõi ấy cũng nới rung đến đến quả địa cầu này, tuy rằng thế gian chỉ là hư ảo và không có gì là chân thật."

-"Bạch Sư phụ, đêm nay Sư phụ đưa con vào một lãnh vực tuy ở cõi thế gian nhưng lại rất gần với cõi Trời!"

Tôi mỉm cười mà nhớ đến toà lâu đài thần diệu; có người tu sĩ nào lại làm lễ nhập môn học Đạo ở giữa một khung cảnh cực kỳ xa hoa lộng lẫy như thế? Từ nay tôi có thể chiêm ngưởng trong im lặng cái khung cảnh mộc mạc giản dị tương phản một cách rõ rệt với toà cung điện lúc nãy. Núi rừng, hang động, suối chảy, thông reo, tất cả đều hợp thành một nơi cư ngụ lý tưởng cho những tu sĩ đang ở chung quanh tôi.

"Ngày hôm ấy tôi đắm chìm trong nhửng cơn thiền định, và những sở đắc tâm linh mà tôi đã thực hiện trong những tiền kiếp đã trở lại với tôi, Sư phụ bước đến gần, đưa bàn tay đặt nhẹ lên đỉnh đầu tôi và tôi liền lọt vào cơn đại định "nirvikalpa samadhi", trạng thái ấy tiếp tục kéo dài suốt bảy ngày không dứt. Trong trạng thái đó tôi đã vượt qua các lớp chướng ngại để thực hiện Chân Ngã, tôi đã vượt qua ngưởng cửa của cõi giới siêu linh để bước vào cõi Đạo diệu huyền. Những bức màn ảo ảnh, những tham vọng phù du giả tạm thảy đều lần lượt tiêu tan. Linh hồn tôi đã bước vào cõi Vô Cùng và hợp nhất làm một với Chân Như Đại Ngã tức Đại Hồn của Vũ Trụ. Bắt đầu qua ngày thứ tám tôi quỳ dưới chân Sư phụ và cầu xin ngài hãy giữ tôi lại một bên ngài mãi mãi, giữa chốn núi rừng cô tịch. Sư phụ ôm lấy tôi một cách rất mến yêu và nói:

-"Con hỡi, trong kiếp này, con phải đóng vai trò của con trên sân khấu của cuộc đời thế tục. Con đã được thánh hoá nhờ công phu tu luyện mà con đã thực hành trong bao nhiêu tiền kiếp, bây giờ con phải sống lẫn lộn với người thế gian.

"Sư kiêïn rằng con chỉ gặp ta sau khi đã lập gia đình và có một chức vụ khiêm tốn, có hàm xúc một ý nghĩa sâu xa. Con phải từ bỏ hy vọng gia nhập với nhóm đệ tử của ta trên dãy Tuyết Sơn; vai trò của con sẽ là sống chung lộn với người đời để nêu một tấm gương cao quý về những sở đắc tâm linh mà một người gia trửơng sống ngoài thế gian có thể đạt được nhờ thực hành pháp môn Yoga.

Thượng Đế không hề làm ngơ trước những lời cầu nguyện thiết tha của những kẻ khát khao tìm Đạo và còn sống ngoài thế tục. Con đã được chọn lựa để phổ biến đạo pháp Kriyâ Yoga trong quần chúng. Những kẻ có trách nhiệm gia đình và những bổn phận hằng ngày sẽ nhận được giáo lý ấy dễ dàng hơn ở nơi con, vì con cũng ở vào một hoàn cảnh giống như họ. Vai trò của con sẽ là nêu một tấm gương sống động để chứng minh rằng những thành quả tối cao của sự thực hành đạo pháp Yoga không phải là bị hạn chế đối với những người còn có trách nhiệm gia đình. Dẫu cho sống ngoài thế gian, người hành giả làm tròn các bổn phận của mình một cách vị tha, vô kỷ, chắc chắn sẽ đạt tới sự giác ngộ tâm linh.

"Từ nay, không có gì bắt buộc con phải từ bỏ thế gian vì con đã cắt đứt mọi sợi dây trói buộc của nghiệp quả. Tuy sống trong trần thế nhưng con không còn hệ luỵ cõi trần. Con còn phải trải qua nhiều năm dành cho những bổn phận gia đình, xã hội và tâm linh. Niềm hy vọng thiêng liêng từ nay sẽ thức động những tâm hồn đau khổ của ngừơi đời đang sống trong thế kỷ này. Cuộc đời hoàn toàn sống trong kỷ luật tâm linh của con sẽ giúp cho họ hiểu rằng sự giải thoát là tuỳ nơi sự dứt bỏ thâm sâu từ bên trong chứ không phải từ bên ngoài."

"Gia đình, sở làm, toàn cõi thế gian đối với tôi lúc ấy có vẽ xa vời biết bao nhiêu trong khi tôi lắng nghe những lời dạy đó của Sư phụ tôi trong vùng Tuyết Sơn hẻo lánh hoang vu. Tuy nhiên chân lý đã do cửa miệng của ngài thốt ra và tôi nhìn nhận một cách hoan hỉ rằng tôi phải rời chốn hang động yên tĩnh này. Đức Babâji bèn dạy cho tôi biết những luật lệ cổ xưa và bất biến về việc truyền pháp Yoga giữa Tôn sư và đệ tử. Sư phụ nói:

-"Con chỉ nên truyền bí thuật Kriyâ Yoga cho những môn đệ xứng đáng. Người nào sẳn sàng từ bỏ và hy sinh tất cả để tìm Đạo mới thật xứng đáng để truyền thụ những bí pháp giúp cho y thấu triệt được vấn đề sinh tử bằng cách tham thiền."

-"Bạch Sư phụ, Sư phụ đã ban ân huệ cho thế gian bằng cách phục hồi đạo pháp Kriyâ Yoga đã bị mất đi trong quên lãng, thì nay cũng xin Sư phụ hãy mở lượng từ bi mà làm dịu bớt những luật lệ khắt khe về việc chọn lọc đệ tử."

Tôi nhìn Babâji với đôi mắt khẩn cầu:

-"Con xin Sư phụ cho phép con truyền pháp Kriyâ Yoga cho tất cả những kẻ tầm Đạo, dẫu rằng họ vẫn chưa đạt tới sự dứt bỏ hoàn toàn từ bên trong.Người thế gian, cả nam lẫn nữ, đều đang bị dày vò trong đau khổ cả vật chất lẫn tinh thần, phải cần được nâng đỡ và khuyến khích. Họ sẽ không bao giờ tìm thấy chính Đạo nếu họ bị từ chối không được truyền thụ Đạo pháp Kriyâ Yoga"

-"Ta chuẩn y lời cầu xin đó. Thiên YÙ đã được biểu lộ qua cửa miệng của con."

Bằng những lời đó, Sư phụ đã đánh đổ những bức rào ngăn cách từ muôn đời vẫn che dấu Đạo pháp Kriyâ Yoga trước mắt người thế gian.

-"Con hãy truyền pháp Kriyâ Yoga cho những người tầm Đạo với tấm lòng khiêm tốn."

Sau một lúc im lặng, Babâji nói tiếp:

-"Con hãy lập lại cho mỗi đệ tử lời hứa hẹn này trong kinh Bhagavad Gita:"Dẫu chỉ có một ít hiểu biết về pháp môn này cũng đủ giúp cho ta tránh được nhiều nỗi đau khổ rất lớn."

Sáng ngày hôm sau khi tôi làm lễ kiếu từ Sư phụ để xin ngài ban ân huệ trước khi lên đường, ngài cảm thấy nỗi buồn rầu thất vọng của tôi khi tôi phải từ giả ngài ra đi. Ngài nói:

-"Sự biệt ly vốn không có giữa chúng ta con ạ! Dầu cho con ở nơi nào, con chỉ cần gọi đến ta là ta sẽ xuất hiện ngay tức khắc."

Được an ủi bởi lời hứa hẹn huyền diệu đó, tôi lên đường trở về nhà. Về đến sở làm sau mười mấy ngày vắng mặt, tôi được các bạn đồng nghiệp đón tiếp nồng nàn vì họ tưởng rằng tôi đã đi lạc vào núi trên dãy Tuyết Sơn. Kế đó, tôi nhận được một bức thơ của viên trưởng phòng. Trong thơ nói rằng:"Lahiri phải trở về văn phòng hành chánh ở Danapur. Vịêc thuyên chuyển y đến Ranikhet là một sự sai lầm. Một nhân viên khác sẽ được gởi đến Ranikhet để thay thế cho y."

Sự "sai lầm" đó đã đưa tôi lên tận dãy Tuyết Sơn làm cho tôi mỉm cười. Trước khi trở về Danapur, tôi đến tạm trú vài ngày tại nhà một gia đình quen thuộc ở Moradabad. Tại đây có sáu ngừơi bạn hữu đến thăm tôi.Trong khi tôi hướng câu chuyện đến những vấn đề tâm linh, người chủ nhà tỏ ý buồn rầu và nói:

-"Than ôi! Các vị Chân Sư của Aán Độ ngày nay đã biến mất không còn nữa!"

Tôi phản đối mảnh liệt để cải chính:

-"Thưa ông các vị Chân Sư Aán Độ vẫn còn thánh hoá xứ sở chúng ta bởi gót chân của các ngài!"

Trong cơn hứng khởi tôi cảm thấy cần thuật lại kinh nghiệm của tôi vừa rồi trên dãy Tuyết Sơn. Các bạn tôi tỏ vẻ hoài nghi nhưng chỉ lễ phép mỉm cười. Một bạn bèn kết luận:

-"Lahiri, có lẽ không khí miền sơn cước đã làm cho bạn say sưa ngây ngất và chắc là bạn đã có một cơn mơ!"

Lần này tôi đã làm cho họ phải chú ý, thật không phải một chuyện lạ nếu mỗi người đều mong muốn chiêm ngưởng một vị thánh nhân hiện hình ra một cách bất ngờ như thế. Tôi yêu cầu chủ nhà sắp đặt cho tôi một gian phòng và hai tấm nệm mới nguyên. Tôi nói:

-"Sư phụ tôi sẽ xuất hiện từ trong không gian. Các bạn hãy đứng im lặng phía sau cánh cửa; trong chốc lát tôi sẽ mời các bạn vào."

Tôi bèn ngồi tĩnh toạ nhập thiền và kêu gọi Sư phụ tôi bằng tư tưởng. Trong giây lát một ánh sáng huyền ảo và êm diệu như ánh trăng chiếu le lói trong gian phòng, và hình dáng đức Babâji xuất hiện:

-"Lahiri, tại sao con lại kêu gọi đến ta vì một mục đích nhỏ mọn, vô nghĩa?"

Cặp mắt Sư phụ đượm một vẻ nghiêm khắc:

-"Chân lý chỉ đến với những kẻ thật lòng tìm Đạo, chứ không phải để cho những kẻ tò mò. Thật rất dễ mà tin tưởng nơi những điều tai nghe mắt thấy vì chừng đó sự thật đã hiển nhiên, không còn phải chối cãi gì nữa. Chỉ có ngừơi nào thắng được sự hoài nghi mới khám phá được Chân lý thâm diệu và vô hình vô ảnh."

Kế đó Sư phụ nói với một vẻ nghiêm nghị:

-"Hãy để ta đi!"

Tôi bèn quỳ xuống chân Sư phụ và nài nỉ:

-"Bạch Sư phụ, con xin Sư phụ hãy tha lỗi cho con. Chính vì con muốn gây đức tin nơi những kẻ hãy còn mù quáng về phương diện tâm linh mà con đã kêu gọi Sư phụ. Sư phụ đã chiếu cố mà xuất hiện trước lời cầu xin của con thì con cũng xin Sư phụ hãy vui lòng ban ân huệ cho các bạn con trước khi ra về. Tuy họ thiếu đức tin nhưng ít nhất họ cũng khát khao được biết sự thật về kinh nghiệm lạ lùng của con."

-"Được, ta sẽ ở lại vì ta không muốn cho các bạn con nghi ngờ lời nói của con."

Babâji diïu giọng nói thêm:

-"Từ rày về sau, ta sẽ không xuất hiện trước lời kêu gọi của con nữa, trừ ra khi nào sự có mặt của ta là tối cần thiết."

Khi tôi bước ra mở cửa, thì các bạn tôi đang chờ đợi trong một sự im lặng hoàn toàn. Hãy còn ngờ vực nơi giác quan của họ, họ đứng sửng, miệng há hốc, hai mắt giương to lên để chiêm ngưởng dung nhan đức Babâji đang ngồi ung dung tự tại trên tấm nệm.

-""Đó là phép thôi miên tập thể", một nhân chứng vừa nói vừa cười."Không ai có thể bước vào gian phòng này mà chúng tôi không hay biết!"

Babâji mỉm cười vừa ra lịnh cho mỗi người hãy đến gần và sờ mó vào mình ngài để kiểm chứng sự thật. Khi họ không còn nghi ngờ gì nữa, họ bèn quỳ lạy dưới chân Sư phụ tôi một cách cung kính và tỏ ra ăn năn sám hối vì đã có bụng hoài nghi.

-"Hãy nấu cháo cho các vị dùng đỡ lót dạ", Babâji ra lịnh để đưa thêm bằng chứng về sự thật của ngài. Trong khi nồi cháo đang sôi, Sư phụ đàm thoại với tấm lòng ưu ái cởi mở với tất cả mọi người. Những kẻ hoài nghi lúc nãy, nay đã trở thành những kẻ sùng tín rất mực không còn nghi ngờ gì nữa. Khi chúng tôi đã dùng cháo xong, Babâji đưa tay ban ân huệ cho từng người. Một tia chớp xuất hiện thình lình xẹt ngang qua gian phòng; chúng tôi chứng kiến tận mắt sự giải thể mau như chớp nhoáng của Sư phụ: những nguyên tử, tế bào hợp thành thể xác của ngài bỗng nhiên tan rã mau lẹ trong chớp mắt và phát ra một vầng hào quang mỗi lúc càng mờ dần. Quyền năng của Babâji vốn hoà hợp với Thượng Đế đã giải toã hằng hà sa số những phân tử dĩ thái đã được kết cấu lại thành hình hài thể xác của ngài; những nguồn tinh lực được giải toã bèn trở về hoà lẫn với cái kho tinh lực vô biên của vũ trụ.

_"Tôi đã thấy tận mắt người chiến thắng tử thần", một nhân chứng trong nhóm bạn tôi tên Maitra đã nói như trên. Gương mặt y đổi sắc khi y chứng kiến điều nhiệm mầu của Sư phụ. Y nói tiếp:

-"Tôn Sư bất chấp mọi giới hạn của thời gian và không gian và hành động mọi sự một cách dễ dàng như trò trẻ. Tôi vừa chứng kiến một bậc siêu nhân nắm giữ chìa khoá mở các cõi huyền vi của Trời Đất."

Sau đó tôi trở về Danapur, và tiếp tục công việc ở sở làm cùng làm tròn bổn phận của người gia trưởng."

Lahiri Mahâsaya cũng thuật cho tu sĩ Kebalâ và Sri Yukteswar nghe chuyện một cuộc gặp gở khác với Babâji trong trường hợp hứa hẹn của Sư phụ:"Ta sẽ xuất hiện khi nào cần thiết". Lahiri Mahâsaya kể chuyện như sau:

-"Việc ấy xảy ra trong một cuộc Thánh Lễ Lumbha Mela ở Allahabad, thành phố nơi đó tôi trải qua những tháng nghỉ hè. Trong khi tôi trà trộn trong đám đông những tu sĩ và khất sĩ từ khắp nơi ở Aán Độ đến đây để dự lễ, tôi nhìn thấy một tu sĩ khổ hạnh mình đầy bụi bậm cầm một cái bình bát khất thực. Tôi có ý nghỉ rằng người này chỉ là một kẻ bịp bợm giả vờ khoác lấy cái bề ngoài của kẻ tu hành chứ không phải là một người chân tu.

"Khi tôi vừa đi qua người ấy thì tôi ngạc nhiên mà thấy Babâji đang quỳ gối trước mặt một tu sĩ khác râu tóc xồm xoàm, tôi bèn chạy tới trước và kêu lên:

-"Bạch Sư phụ, Sư phụ làm gì vậy?"

-"Ta rửa chân cho người tu sĩ này; và sau đó ta sẽ lau chùi cái bình bát khất thực của y."

Babâji cười với tôi một cách hồn nhiên như một đứa trẻ nhỏ. Tôi hiểu rằng ngài muốn dạy tôi không nên chỉ trích kẻ khác, mà phải nhìn thấy hình ảnh của Thượng Đế ở bên trong mỗi người, bất luận lớn nhỏ, sang hèn. Sư phụ nói thêm:

-"Khi ta phục vụ những tu sĩ khất thực bất luận đó là những tu sĩ thánh thiện hay ngu dốt, ta học thực hành cái đức tính cao cả mà Thượng Đế quý hơn tất cả mọi đức tính khác; đó là đức khiêm tốn."

 II

 Một sợi dây liên lạc trường cữu giữa Tôn Sư và đệ tử đã nối liền Babâji với Lahiri Mahâsaya. Với một sự chăm sóc đầy trìu mến, vị Tôn sư bất tử đã không quản âm dương cách biệt mà theo dõi người đệ tử trong cõi vô hình ở bên kia cửa tử, và tiếp tục dìu dắt y trong vòng bí mật lúc y mới tái sinh trở lại cho đến khi trưởng thành. Khi người đệ tử đựơc 33 tuổi, Babâji mới thấy rằng thời giờ đã điểm để công khai nối lại sự liên lạc trong quá khứ. Sau cuộc tiếp xúc ngắn ngủi tại Ranikhet, Tôn sư mới cho ngừơi đệ tử mến yêu hạ sơn và lãnh một sứ mạng cứu độ trần gian. "Con hỡi, ta sẽ có mặt một bên con khi nào con cần đến ta." Thử hỏi có thứ tình nào của thế gian có thể bảo đảm một lời hứa hẹn long trọng như thế?

Trong sự âm thầm mà thế gian không hề biết đến, một sự phục sinh tâm linh vĩ đại đang được chuẩn bị nơi một địa điểm hẻo lánh ở ngoại ô thành Bénarès. Cũng như một loài hoa có hương thơm không thể bị mai một trong quên lãng, Lahiri Mahâsaya mặc dầu sống cuộc đời người gia trửơng vẫn không thể dấu sự cao cả tâm linh của mình trước mắt người đời. Không bao lâu những kẻ tầm sư học Đạo ở bốn phương đã tìm đến để được thấm nhuần ân huệ thiêng liêng mà ngừơi ban rải cho họ.

Tại sở làm, viên trưởng phòng người Anh là người đầu tiên đã nhận thấy sự thay đỗi kỳ lạ nơi Lahiri mà ông ta gọi là "tiên sinh trầm lặng". Một hôm, Lahiri Mahâsaya hỏi thăm ông trưởng phòng của mình:

-"Thưa ông, hôm nay tôi thấy hình như ông không được vui. Xin ông cho biết lý do tại sao?"

-"Tôi đang lo buồn vì vợ tôi ở bên Anh quốc đang đau nặng."

-"Để tôi thử dọ tin tức của bà giùm ông."

Lahiri Mahâsaya liền rời khỏi văn phòng tìm nơi hẻo lánh và ngồi thiền trong một lúc. Một chập sau người trở lại với trạng thái bình thừơng và nói với nụ cười an ủi:

-"Bà đã khá nhiều, trong lúc này bà đang ngồi viết thơ cho ông."

Kế đó, Lahiri kể sơ vài đoạn trong bức thơ bà ấy đang viết, ông trưởng phòng sáng mắt lên:

-"À, "tiên sinh trầm lặng", tôi biết ông không phải là một người thường. Tuy vậy tôi vẫn không tin rằng ông có thể chế ngự được không gian và thời gian tùy ý muốn!"

Bức thơ Anh Quốc đã đếùn, ông trưởng phòng rất đỗi ngạc nhiên mà được biết rằng không những bà vợ ông đã khỏi bệnh mà còn viết trong thơ chính những câu mà Lahiri Mahâsaya đã đọc cho ông nghe từ mấy tuần lễ trước!

Sau đó vài tháng bà trưởng phòng đáp tàu sang Aán Độ. Bà đến viếng sở Hoả Xa, nơi văn phòng Lahiri Mahâsaya đang làm việc. Vừa thấy Tôn sư bà ta bước đến chào một cách rất mực cung kính:

-"Thưa ông, chính ông đã xuất hiện với một vầng hào quang sáng rỡ bên giường bịnh của tôi ở Luân Đôn. Sau khi đó, tôi đã hoàn toàn khỏi bịnh! Nhờ đó mà tôi có đủ sức chịu đựng cuộc hành trình lâu dài bằng đường biển để sang Aán Độ.

Ngày nào cũng có một hai người mộ đạo đến khẩn cầu Tôn sư cho họ làm lễ nhập môn theo đạo pháp Kriyâ Yoga. Ngoài những bổn phận tâm linh và công việc ở sở làm, Tôn sư còn chú trọng đến vấn đề giáo dục. Người thành lập nhiều nhóm học sinh và đóng một vai trò hoạt động trong việc truyền bá nền giáo dục ban trung học trong khu vực người Bengali ở Bénarès. Những buổi thuyết pháp thừơng xuyên của Tôn sư về các thánh kinh Aán Độ đã hấp dẫn một số đông thính giả mộ Đạo.

Bằng những hoạt động về mọi mặt, Tôn sư đã đính chánh lời nói rằng:"Sau giờ làm việc và những bổn phận gia đình, còn đâu giờ hành Đạo, tham thiền?" Cuộc đời hoàn toàn có quy củ, mực thước của Tôn sư trong vai trò người gia trưởng là một sự khích lệ đối với những tâm hồn mến Đạo.

YÙ thức được sự hợp nhất của mình với Thượng Đế, Tôn sư quý trọng tất cả mọi gười bất luận lớn nhỏ, cao thấp. Khi một đệ tử kính cẩn chào ngài, ngài luôn luôn đáp lễ. Với một sự thành thật khiêm tốn, người thường nắm chân những quan khách đến viếng và ít khi để cho họ đáp lễ một cách tương tự, tuy rằng sự kính trọng một vị Tôn sư là một phong tục rất cổ ở phương Đông.

Ngài thường nói với các đệ tử:

-"Con hãy luôn luôn nhớ rằng con không là sở hữu của một người nào và cũng không ai là sở hữu của con. Con hãy nghĩ rằng có một ngày con sẽ phải từ bỏ hết tất cả ở thế gian này; vậy con nên hành Đạo ngay từ bây giờ. Con hãy chuẩn bị đời sống bên kia cửa tử và chuyến du hành qua cõi trung giới ngay từ bây giờ bằng cách nâng tâm hồn lên tận Thượng Đế do sự tham thiền. Cái thể xác bằng xương thịt này là nguồn gốc của mọi sự phiền não. Hãy cố gắng tham thiền để sớm nhận thức được cái tinh hoa bất diệt của Chân Ngã tiềm tàng ở nơi con. Chính cái đó mới là thoát khỏi mọi điều đau khổ nghiệp chướng. Vậy con đừng làm nô lệ của xác thân: pháp môn Kriyâ là cái chìa khoá bí mật sẽ mở cửa cho con lọt vào cõi giới Tinh Thần"

Một ngày nọ Sư phụ đang giảng lý kinh Bhagavad Gita cho một nhóm đệ tử ngồi vây chung quanh, họ có dịp nhận thấy một bằng chứng trực tiếp về sự toàn thông của người. Khi Sư phụ đang giải thích đoạn kinh nói về Tâm Thức Bồ Đề giữa cảnh giới trần duyên vọng động, thình lình người thốt lên một tiếng kêu:

-"Có một đám đông linh hồn đang bị chết đuối ở ngoài khơi bờ biển Nhật Bổn!"

Sáng ngày hôm sau, các đệ tử xem báo thấy có bài tường thuật về một vụ đắm tàu làm cho một số đông người bị chết chìm ngoài khơi quần đảo Nhật.

Những đệ tử ở cách xa Lahiri Mahâsaya thường cảm thấy có ý thức về sự hiện diện vô hình của Sư phụ. Người thường nói để an ủi những đệ tử vì ở xa không thể sống gần bên Thầy:

-"Ta luôn luôn ở bên cạnh những người thực hành pháp môn Kriyâ Yoga. Ta sẽ dắt dẫn họ đến mục đích nhờ công phu tu luyện để nới rộng tâm thức của họ."

Tu sĩ Satyânanda thuật chuyện một đệ tử ở xa không thể đến tận Bénarès, tuy vậy cũng được truyền pháp Kriyâ Yoga trong giấc mộng. Lahiri Mahâsaya đã xuất hiện đến với người đệ tử trên đáp lại lời thỉnh cầu của y.

Lahiri Mahâsaya đã phân chia đạo pháp Kriyâ Yoga làm bốn cấp đẳng từ đệ nhất tớ đệ tứ pháp môn. Ba cấp đẳng trên chỉ được truyền thụ cho những đệ tử đã thực hiện được những tiến bộ tâm linh khả quan và rõ rệt. Có một lần, một vị đệ tử sơ cơ cho rằng mình đã tiến bộ nhưng không được thừa nhận đúng mức, bèn tỏ sự bất mãn và nói:

-"Bạch Sư phụ, con hẳn là đã sẳn sàng được truyền thụ đệ nhị pháp môn!"

Ngay khi đó, cánh cửa mở hoát, người bước vào là một đệ tử sơ cơ rất khiêm tốn tên là Brinda Bhagat, làm thư tín viên sở Bưu điện ở Bénarès.

Sư phụ nở một nụ cười thương mến và nói:

-"Brinda, con hãy ngồi an toạ, và nói cho ta biết con đã sẳn sàng để được truyền thụ đệ nhị pháp môn hay chưa?"

Người đệ tử kinh hoảng chắp tay vái lia lịa và nói:

-"Bạch Sư phụ, xin Sư phụ đừng cho con thụ pháp nữa. Con đã xứng đáng được thụ pháp ở cấp cao hơn chăng? Hôm nay con đến đây xin Sư pụ ban ân huệ vì đệ nhất pháp môn Kriyâ Yoga cũng đã làm cho con quá say sưa ngây ngất đến nỗi con không thể phát thơ tín bưu điện được nữa!"

-"Brinda đã nhẹ bước phiêu diêu trên cõi giới tinh thần rồi đó!"

Người Sư phụ nói đến đó, người đệ tử kia lẳng lặng cuối đầu không nói gì. Kế đó y nói:

-"Bạch Sư phụ, con thấy rằng con chỉ là một người thợ dốt mà đi chê đồ khí cụ của mình là dở"

Người thư tín viên hoàn toàn thất học đã phát triễn những khả năng siêu linh của mình bằng pháp môn Kriyâ Yoga đến nỗi những nhà Bác học phải nhờ đến y để diễn đạt những đoạn khó trong Kinh Thánh. Xuất thân là một người dốt, Brinda lại nổi tiếng là người thông minh xuất chúng trong giới các nhà học giả uyên bác.

Ngoài ra những đệ tử rất đông ở vùng Bénarès, còn có một số đệ tử khác đến vài trăn người từ bốn phương ở Aán Độ tìm đến học Đạo dưới chân Sư phụ.

Trong số những tu sĩ được nhập môn thụ pháp Kriyâ Yoga, có vài vị về sau này trở nên những bậc thánh nhân đắc Đạo. Trong một thời gian, Lahiri Mahâsaya đã làm Đạo sư cho hoàng tử Đông cung của vị Quốc vương Isvari Narain Sinha Bahadur ở Bénarès.

Bíêt rõ sự cao cả tâm linh của Tôn sư, quốc vương và hoàng tử đều xin thụ pháp Kriyâ Yoga, cùng với vị Quốc vương Jotindra Mohan Thakur.

Một số đệ tử có địa vị khả quan và thế lực ở ngoài đời muốn truyền bá Đạo pháp Kriyâ Yoga bằng phương tiện quảng cáo, Tôn sư bèn triệt để ngăn cấm việc ấy. Một đệ tử khác có thế lực muốn cho Tôn sư được suy Tôn trong quảng đại quần chúng như là vị thánh sống của Bénarès nhưng Tôn sư cũng từ chối không chịu. Người nói:

-"Đạo pháp Kriyâ ví như một cái hoa, mùi thơm của nó phải được truyền đi một cách tự nhiên, không giả tạo. Những hột giống của nó sẽ nẩy mầm trên mảnh đất phì nhiêu của những tâm hồn đã có sự thức tỉnh tâm linh."

Tôn sư không thèm dùng những phương tiện quảng cáo tối tân như báo chí hay hội hè, vì người biết rằng thông điệp mạnh mẽ của Đạo pháp Kriyâ Yoga sẽ tự nó truyền đi trong thế gian như một làn sóng vô hình để tinh luyện những linh hồn mộ Đạo. Những đệ tử gương mẫu, phải tự họ chứng minh nguồn sinh khí bất tử của pháp môn Kriyâ Yoga.

Lahiri Mahâsaya về hưu năm 1886, tức 25 năm sau khi nhập môn tại Ranikhet, và sau 35 năm làm việc như một công chức. Từ ngày quy điềân, người có nhiều thì giờ rảnh rang nên càng ngày càng có nhiều đệ tử hơn. Ngồi tĩnh toạ trong thế liên hoa, Tôn sư giữ yên lặng hầu như suốt ngày. Người khi rời khỏi tịnh thất dầu cho để đi dạo một vòng quanh vườn nhà. Những đệ tử luôn luôn đến viếng tịnh xá để chiêm ngưởng Tôn sư.

Những quan khách đến viếng tịnh thất đều kinh ngạc mà thấy Tôn sư biểu lộ những dấu hiệu đáng lo ngại, người không thở, không ngủ, các mạch máu và quả tim đều ngừng đập. Đôi mắt người đứng tròng trong nhiều giờ, toàn thân bất động của người đều bao trùm một niềm an tịnh thiêng liêng. Không một người đệ tử nào đến chiêm ngưỡng Tôn sư mà không cảm thấy tâm hồn họ được yên tĩnh; thanh cao khi họ ra về, mỗi người đều nhìn nhận rằng bằng cách đó họ đã thọ lãnh luồng ân huệ bí mật của Tôn sư, một vị sứ giả của Trời.

Lahiri Mahâsaya có thể được người đời suy tôn dưới cái danh hiệu Yogâvatar, có nghĩa là hiện thân của Yoga. Có lòng từ ái đối với tất cả, Tôn sư đã nâng cao trình độ tâm linh của xã hội loài người. Quyền năng của Tôn sư biến đỗi vài vị đệ tử cao cấp trở thành các bậc thánh, và truyền bá Đạo pháp Yoga trong quảng đại quần chúng, đã đặt Lahiri Mahâsaya vào hàng các bậc cứu độ thế gian.

Với tư cách một vị giáo chủ, Tôn sư đã mở rộng cửa Đạo, giải thoát cho tất cả mọi người bằng một phương pháp nhất định, đó là pháp môn Kriyâ Yoga.

Trong cuộc đời của Tôn sư người đã làm nhiều điều mầu nhiệm nhưng điều lớn nhất là đã giản dị hoá Đạo pháp Yoga để cho mọi người thành tâm thiện chí học Đạo có thể lãnh hội được một cách dễ dàng.

Lahiri Mahâsaya thường nói về các điều mầu nhiệm như sau:

-"Sự hành động của những định luật huyền bí thường không được người đời biết rõ, không nên đem ra làm một đầu đề ở chốn công cộng hoặc ấn hành một cách bừa bãi."

Nếu trong những trang sách này tôi có vẽ vi phạm những lời nói trên đây, thì đó là bởi vì một sự chắc chắn từ bên trong do Sư phụ truyền sang tôi, đã cho phép tôi bàn đến những chuyện ấy. Bởi vậy khi tôi kể lại cuộc đời của Babâji, Lahiri Mahâsaya và Sri Yuktewsa tôi thấy cần phải bỏ qua không nói đến một vài chuyện nhiệm mầu mà muốn giải thích rõ, có lẽ phải cần đến nhiều pho sách dầy.

Bằng pháp môn Kriyâ Yoga, những người nào không thể cố gắng nhìn thấy hình ảnh của Thượng Đế nơi kẻ khác ít nhất sẽ khám phá ra Ngài trong tận chốn thâm sâu bí ẩn nhất của lòng mình.

 III

 -"Bạch Sư phụ, Sư phụ có bao giờ gặp đức Babâji chưa?"

Một buổi chiều mùa hạ yên tĩnh, tôi ngồi gần bên Sri Yukteswar trên bao lơn đạo viện, dưới ánh sao vằng vặc của vùng nhiệt đới chói rạng trên đỉnh đầu chúng tôi.

-"Có"

Sư phụ mỉm cười trả lời câu hỏi của tôi với một niềm tôn kính khôn tả hiện ra trong cặp mắt:

-"Thầy đã có hân hạnh được chiêm ngưỡng tôn sư ba lần. Lần thứ nhất là trong dịp Thánh Lễ Kumbha Mela ở Allahabad."

Thánh Lễ Kumbha Mela là cuộc lễ tôn giáo long trọng được cử hành tại Aán Độ từ nghìn xưa, và vẫn còn giữ được tính cách thu hút đối với quần chúng cho đến ngày nay. Hằng triệu tín đồ Aán giáo đều qui tựu đông đảo trong dịp đó để chiêm ngưỡng hàng nghìn những tu sĩ, đạo sĩ khất sĩ ta bà, và các nhà tu khổ hạnh từ bốn phương đến đây, trong số đó có vài người chỉ rời khỏi am thất hay hang động vào dịp Thánh Lễ này để ban ân huệ cho các tín đồ và bá tánh thập phương. Sri Yukteswar nói tiếp:

-"Vào lúc Thầy gặp đức Babâji, Thầy chưa phải là tu sĩ xuất gia, nhưng Thầy đã nhập môn với đức Lahiri Mahâsaya để được thụ pháp Kriyâ Yoga. Sư phụ khuyên Thầy nên đến dự Thánh Lễ Kumbha Mela ở Allahabad vào tháng giêng năm 1984, và đó là lần đầu tiên mà Thầy dự cuộc lễ này. Thầy chỉ nghe tiếng động ồn ào của đám quần chúng, nhưng Thầy không gặp một bậc danh sư nào đáng kể. Thầy đi ngang qua cầu bắc trên sông Hằng, và nhìn thấy một gương mặt quen đang ngồi trên cầu với chiếc bình bát khất thực. Thầy thầm nghĩ trong cơn thất vọng: "Cuộc Thánh Lễ này chỉ là một nơi ồn ào tiếng động và một ổ ăn mày." Thầy tự hỏi phải chăng những nhà bác học Tây Phương kiên nhẫn tìm tòi khảo cứu và nới rộng tầm kiến thức vì sự ích lợi vật chất của nhân loại, há lại chẳng được đẹp lòng Thượng Đế hơn là những kẻ biếng nhác ăn hại này, bề ngoài làm ra vẻ đạo đức, nhưng chỉ sống nhờ của bố thí?

Khi đó một vị tu sĩ xuất gia tạc người cao lớn bước đến gần và nói với Thầy:

-"Có một vị tu sĩ muốn mời ông".

-"Ai vậy?"

-"Oâng hãy đến gặp rồi ông sẽ biết".

Thầy còn do dự, rồi cất bước đi đến một gốc cây lớn đang che bóng mát cho một vị tôn sư và các đệ tử ngồi vây chung quanh. Vị tôn sư ấy, có một vẻ tiên phong đạo cốt khác thường, bèn đứng dậy khi Thầy vừa đến gần, rồi đưa tay ôm lấy Thầy và nói một cách trìu mến:

-"Chào đại đức Swami!"

Thầy đáp:

-"Bạch ngài, tôi chưa phải là tu sĩ xuất gia."

-"Người nào mà do bởi nguồn cảm hứng thiêng liêng, Ta đã phán cho cái danh hiệu ấy, sẽ không thể từ chối được nữa!"

Vị tôn sư thốt ra những lời ấy một cách rất giản dị, nhưng một giọng quả quyết cứng rắn rung động trong những lời nói của ngài; đột nhiên tôi cảm thấy một niềm say sưa mùi Đạo làm cho tôi ngây ngất. Mỉm cười vì đột nhiên tôi lại được đưa lên hàng tu sĩ xuất gia của dòng tu Swami, tôi nghiêng mình cúi đầu làm lễ trước vị tôn sư đã ban cho tôi cái danh dự ấy.

Đức Babâji, (vì đó chính là ngài mà lúc ấy Thầy còn chưa biết) chỉ chỗ mời Thầy ngồi gần một bên. Tác cao lớn, gương mặt trẻ trung, ngài giống đức Lahiri Mahâsaya một cách lạ thường, như Thầy đã từng nghe nói nhưng bây giờ mới nhìn thấy tận mắt. Hiển nhiên là Tôn Sư muốn rằng Thầy được hoàn toàn tự nhiên trước mặt ngài. Ngài hỏi:

-"Con nghĩ sao về Thánh Lễ Kumbha Mela?"

-"Bạch Tôn Sư, con hoàn toàn thất vọng cho đến khi con được gặp Tôn Sư. Sự thánh linh và tất cả những sự xuẩn động ồn ào đó thật không đi đôi với nhau chút nào!"

Tôn sư nói:

-"Con hỡi, con không nên xét đoán sự vô minh lầm lạc của người khác. Trên thế gian tất cả đều lẫn lộn cả tốt lẫn xấu, cũng như cát trộn với đường. Con hãy làm như bậc hiền giả chỉ lọc lấy chất đường mà loại bỏ chất cát. Tuy rằng một số tu sĩ hãy còn đắm chìm trong ảo vọng, vô minh, nhưng cuộc lễ cũng được thánh hóa bởi sự hiện diện của những người đã đạt tới sự giác ngộ thiêng liêng.

Thầy liền nhìn nhận tôn sư nói đúng, vì chính Thầy đã được gặp ngài tại cuộc Thánh Lễ này.

-"Bạch Tôn Sư, con đang nghĩ đến những nhà bác học Tây Phương là những người trí óc thông minh hơn nhiều đối với phần đông những tu sĩ dự cuộc Thánh lễ. Họ sống bên các nước Aâu Mỹ, có những tín ngưỡng khác và không biết có gì là cao cả trong những cuộc Thánh Lễ vĩ đại như cuộc lễ này. Gặp được các vị chân sư Aán Độ sẽ là một điều lợi ích rất lớn đối với họ. Tuy rằng họ có một khối óc rất thông minh, nhưng phần đông người Tây Phương đều thiên về chủ nghĩa duy vật. Những người khác tuy lỗi lạc về các ngành khoa học hay triết học, lại không nhìn nhận tính cách đồng nhất căn bản của tất cả mọi tôn giáo. Sự mù quáng của họ là một bức rào chướng ngại nó hăm dọa một sự chia rẽ đời đời kiếp kiếp giữa Đông phương và Tây phương."

Tôn Sư nói với một giọng chấp thuận:

-"Ta thấy rằng con chú trọng đến Tây phương cũng như Đông phương. Ta cảm thấy lòng con bao quát cả hai chủng lớn trên thế giới, vì vậy nên ta cho mời con đến đây".

Tôn sư nói tiếp:

-"Đông phương và Tây phương sẽ phải đi đến sự hợp nhất về mọi ngành sinh hoạt vật chất và tâm linh. Xứ Aán Độ có nhiều điều cần phải học của phương Tây về phương diện tiến bộ kỹ thuật và văn minh vật chất. Trái lại, Aán Độ sẽ dạy các nước phương Tây về các pháp môn Yoga là những phương pháp tiến bộ tâm linh bao quát đại đồng cho toàn thể nhân loại, và nguồn gốc của mọi tôn giáo.

"Hỡi đại đức Swamiji, con sẽ phải đóng vai trò của con trong việc thiết lập những mối liên lạc điều hòa giữa Đông phương và Tây phương. Trong vài năm nữa, ta sẽ gửi đến cho con một người đệ tử để con huấn luyện nhằm mục đích truyền bá pháp môn Yoga sang Tây phương. Những linh hồn khát khao chân lý đang đòi hỏi một sự giác ngộ tâm linh. Ta nhận thấy có nhiều vị thánh tương lai ở Aâu Mỹ đang chờ đợi sự giác ngộ đó".

Kể đến đoạn này của câu chuyện, Sri Yukteswar nhìn tôi với một cái nhìn thâm sâu, và nói với một nụ cười dưới ánh trăng:

-"Con hỡi, chính con là người đệ tử mà đức Babâji đã hứa gửi đến cho Thầy từ nhiều năm về trước".

Tôi lấy làm sung sướng mà được biết rằng đức Babâji đã dìu dắt những bước chân của tôi đến gặp Sri Yukteswar. Tuy vậy, tôi cũng cảm thấy buồn mà đi sang Tây phương, từ biệt sư phụ mến yêu và chốn đạo viện êm đềm.

Sri Yukteswar nói tiếp:

-"Kế đó. Tôn Sư nhắn với Thầy một thông điệp để chuyển giao cho Lahiri Mahâsaya. Thầy kính cẩn cúi đầu từ giả Tôn Sư. Ngài hứa sẽ gặp lại Thầy sau này. Sáng ngày hôm sau, Thầy rời Allahabad đáp xe lửa đi Bénarès. Đến nơi tịnh thất của Lahiri Mahâsaya, Thầy mới kể lại cho Sư phụ nghe câu chuyện gặp gỡ một vị Tôn Sư trong cuộc Thánh Lễ Kumbha Mela. Sư phụ cười nói:

-"Chắc là con không nhìn ra ngài! Đó là Sư phụ của ta, đức Babâji thiêng liêng!"

Thầy bất giác kêu lên với một lòng sùng kính vô biên:

-"Đức Babâji! Đấng đại giáo chủ Babâji! Vị cứu thế vừa hữu hình vừa vô hình! Tiếc thay, nếu con có thể được gặp ngài lần nữa để quì lạy dưới chân thiêng liêng của ngài!"

Sư phụ nói để an ủi Thầy:

-"Không sao, ngài đã hứa sẽ gặp lại con sau này."

-"Bạch Sư phụ, Tôn sư có dặn con nhắn lại với Sư phụ những lời này: "Hãy nói với Lahiri rằng số dự trữ trong kiếp này đã cạn khô và trống rỗng!"

Vừa nghe câu nói bí hiểm đó, Lahiri Mahâsaya run lên như bị điện giật, và kế đó liền đắm chìm trong một cơn im lặng thâm trầm. Người ngồi yên như pho tượng gỗ, nét mặt sa sầm, và dường như mất hết sinh khí. Tôi lấy làm ngạc nhiên và lo ngại. Tôi không hề thấy người nào bình nhật vui vẻ như Tôn Sư mà lại có sự thay đổi tâm trạng đột ngột như vậy. Những vị đệ tử có mặt đều nhìn Tôn Sư với một vẻ lo ngại.

"Ba giờ đồng hồ trôi qua trong một cơn im lặng hoàn toàn. Kế đó, Tôn Sư trở lại trạng thái vui vẻ bình thường và nói chuyện một cách thân tình với mỗi vị đệ tử, làm cho họ thốt ra những tiếng thở dài nhẹ nhõm.

"Nhìn thấy những phản ứng đó của Sư phụ, Thầy hiểu rằng thông điệp của đức Babâji đã cho Sư phụ biết rằng không bao lâu người sẽ phải rời bỏ xác phàm. Cơn im lặng đáng sợ vừa rồi có nghĩa là Sư phụ đã tự đặt mình dưới sự kiểm soát ý chí, và cắt đứt mọi sợi dây liên lạc cuối cùng còn trói buộc người với ngoại giới để thoát lên cõi Tinh Thần. Những lời nói của Babâji cũng có nghĩa là: "Ta sẽ luôn luôn có mặt bên cạnh con".

"Tuy rằng Babâji và Lahiri cả hai vị đều đắc pháp thần thông và có thể giao cảm với nhau bằng tư tưởng mà không cần đến người trung gian, hai vị đôi khi cũng xử sự theo lối thường tình. Có những trường hợp mà hai vị Tôn Sư chuyển đạt những lời tiên tri bằng lối thông thường, qua một thư tín viên để cho sự thực hiện lời tiên tri đó được lan truyền và giúp thêm một đức tin mới cho những người được nghe câu chuyện ấy về sau này".

"Đó là một trong những lần viếng thăm cuối cùng của Thầy tại nhà Sư Phụ", Sri Yukteswar kết luận.

"Y như Babâji đã tiên đoán, cuộc đời của Lahiri Mahâsaya trong vai trò gia trưởng ở kiếp này đã gần chấm dứt. Mùa đông năm 1985, Sư phụ bị một cái ung nhọt ở phía sau lưng. Người từ chối không chịu giải phẩu, và như vậy người đảm nhận việc trả quả báo xấu của các đệ tử trên xác thân mình. Ít lâu sau đó, Sư phụ trút linh hồn tại Bénarès. Suốt cuộc đời Thầy đều được nguồn cảm hứng tâm linh của Sư phụ toàn năng…"

Mục lục | Lời tựa | 1 | 2 |  3 | 4 | 5 | 6 | 7 |   8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25|
Chúng tôi chân thành cảm ơn Phật tử Huỳnh Thanh Hương đã phát tâm đánh máy gởi sách này về tặng cho Ban biên tập Đạo Phật Ngày Nay.

 


Vào mạng: 1-04-2005

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang