Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Nhân Duyên Vào Đạo Phật
Thích Phổ Huân

6
Thay đổi được an lạc

Khi chưa hiểu đạo giác ngộ chúng ta đã sống thế nào? Nay hiểu đạo rồi phải sống ra sao? Trước kia bước vào cổng Tam Quan vô Chánh Điện lễ Phật, thái độ tinh thần của ta có gì lạ không, và khi rời khỏi chùa ta có lưu luyến hay nghi vấn gì? ...Rất nhiều sự việc, giờ đây ta có thể nhớ lại để thấy sự thay đổi hiện thời.

Thường như bao nhiêu người, nếu không phải là Phật tử thuần thành, việc vào chùa chỉ là để khuây khỏa dạo chơi, tìm cảm giác an ổn hầu quân bình lại cuộc sống xô bồ rầm rộ bên ngoài. Hay khi có biến cố đại sự trong gia đình cần phải tìm đến chùa gặp quý vị tu sĩ cố vấn chỉ bày an ủi...

Ngoài ra, phần lớn đến chùa là để xem lễ hội, văn nghệ trong hai ngày lễ lớn: Phật Đản, Vu Lan. Riêng ba ngày Tết hẳn cũng thường có mặt, cốt để hái lộc đầu xuân cầu cho may mắn. Lộc xuân ở nước ngoài này thường là những câu chúc lành bỏ trong bao lì xì, hay một vài quả trái cây. Quả trái tượng trưng quả báo tốt đầu năm.

Hình thức này là cách chúc an lành cho người viếng chùa đầu năm mới.

Đó là việc viếng đất Già lam trong tâm niệm và hoàn cảnh như vậy. Nhưng đó lại là việc quan trọng nuôi dưỡng tinh thần trên xứ thuần đầy vật chất, cho dù việc được nuôi dưỡng tinh thần này chưa có giọt nước cam lồ Phật pháp nào thấm đến. Điều này thực tế chúng ta đã thấy, những ngày lễ hội rằm lớn, hương trên bàn Phật quyện tỏa nghi ngút, dưới Phật đài người người sụp lạy nguyện cầu. Nói rằng chưa được giọt nước cam lồ Phật pháp thấm vào, nghĩa là hình ảnh khấn nguyện chí thành tha thiết ấy, chỉ xảy ra trong ngày lễ hội mà thôi! Và khi xong lễ phải chờ lại một chu kỳ, mới có cơ hội! Mà cơ hội này cũng do chính ta tạo ra. Tuy nhiên hoàn cảnh đã khiến ta phải thuận theo như vậy, vì có lẽ ai chẳng muốn nhàn hạ để luôn được chiêm ngưỡng Phật đài, để tha thiết bộc bạch lời khẩn nguyện, cho tâm hồn được tự tại an nhiên, cho mọi người được vui vẻ, cho thế giới được hòa bình, cho hoa Ưu Đàm nở rộ tỏa khắp trên hành tinh xanh này!

Quả thật như thế, và nếu nguyện được như vậy thì dù có viếng chùa lễ Phật đợi đến chu kỳ, nhưng chắc chắn đã tạo được giọt nước cam lồ Phật pháp. Vì cầu nguyện với tâm vị tha vô ngã (vì người mà không thấy có mình) nên khế hợp với tâm nguyện chư Phật mười phương. Và theo nhân quả, dù không nguyện được như vậy, duyên lành Tam Bảo cũng được tích thành trong tương lai; do đã dắt được ba nghiệp thân, khẩu, ý vào được đất Già Lam, nhất là lúc ba nghiệp sụp xuống đê đầu lễ Phật, dù là lúc đó chỉ cầu cho riêng mình đi nữa. Do đó chỉ cần đối trước Phật đài chiêm ngưỡng là đã tạo duyên Phật rồi. Thử nhìn lại còn biết bao người chưa bao giờ đặt chân tới chùa, dù để dạo chơi xem hội.

Riêng tâm trạng người mới vừa nhận được viên ngọc quý, tức vừa nhận ra mình diễm phúc gặp đạo vàng, bây giờ đã có khác. Cái khác này chỉ tự mình thấy. Người ngoài chỉ là thấy qua hình ảnh múa máy mà thôi. Tuy nhiên chúng ta cũng đã thay đổi bên ngoài, bằng những động tác có ý thức mà thường nghe là sống trong chánh niệm.

Chúng ta bắt đầu gặp nhau, chào hỏi qua cung cách chấp tay xá chào, và lời đầu tiên thốt ra khỏi miệng là đọc lên danh hiệu ‘‘A Di Đà Phật’’, rồi mới tiếp hỏi sức khỏe, gia đình v.v...Thật ra đọc lên danh hiệu đức Phật A Di Đà, đã đầy đủ lời chúc tụng. Vì đức Phật A Di Đà còn có danh hiệu là Vô Lượng Thọ; mà loài người chúng ta ai mà chẳng cầu được thọ, hẳn nhiên sống thọ ở đây phải khỏe mạnh, sung sướng. Đức Phật Vô Lượng Thọ lại là giáo chủ cõi Cực Lạc, một cõi nước đầy an lạc đến cùng cực, thì tất nhiên cầu chúc qua danh hiệu Ngài phải mỹ mãn vui sướng là trước tiên. Vậy không có câu chúc nào bằng đọc lên danh hiệu Ngài. Còn nếu nói về lý giải thoát mà người học Phật đang tầm kiếm, thì danh hiệu Phật A Di Đà là câu chúc thiết thực. Chúc cho người quay về soi rọi chính mình, qua ánh sáng thanh tịnh để thanh tịnh thân tâm tiêu diệt phiền não; vì danh hiệu Ngài còn gọi là Phật Thanh Tịnh Quang. Đây lại thấy hai chữ Thanh Tịnh vô cùng quan trọng trên hành trình tu học. Bởi pháp tu nào cũng trở thành vô ích nếu hành giả không thanh tịnh được thân tâm.

Vào trong chánh điện, chiêm ngưỡng đấng Thế Tôn, lúc này tâm hồn đã khác nhiều lắm. Bấy giờ người ngoài càng khó thấy được bên trong chúng ta.

Nhìn lên hình ảnh đấng Điều Ngự, chúng ta nghĩ gì? Ta vui hay buồn, khi chợt nhận ra mình quá vô minh đã thất lạc từ bấy lâu nay! Và cuối cùng phải làm gì để đền bù lại những tháng năm lạc lõng, tác nghiệp chất chồng; để cho thân tâm nhẹ nhàng khi phủ phục năm vóc kính lạy đấng Thiên Nhân Sư. Bâng khuâng lo lắng, thao thức, bồn chồn trong lúc này, có khi cảm thấy mâu thuẫn nữa. Mâu thuẫn qua hai hình ảnh, hiện tại ở ngay Phật điện và về lại gia đình...Nhưng không, chúng ta đã có câu trả lời giải đáp, đã thấy được ánh sáng chánh kiến dắt ta về thực tại, thực tại của hiện tại nhiệm mầu...Ta hiểu rằng những xao xuyến kia chỉ là tất cả nghĩ ngợi bâng quơ do từ vọng tưởng tình cảm vui mừng khi nhận ra mình hiểu đạo (chỉ là căn bản). Chính vì hiểu đạo nên nhận thấy rõ mọi ràng buộc chung quanh mình; và khi thấy ràng buộc như thế, nên sợ hãi, cảm thương tưởng chừng thất trí không sao cứu vãn.

Vọng tưởng tình cảm đó ai cũng trải qua, nhưng người học Phật phải vượt qua trước hết. Học Phật lấy trí huệ làm gốc, lấy trí huệ làm hành trang đi trọn con đường. Không có trí huệ, người học Phật sẽ dễ mơ màng theo vọng tưởng điên đảo, dễ lạc đường và cuối cùng vất vả phí sức chẳng đi đến đâu.

Trí huệ của đạo giác ngộ chỉ đến từ căn bản của sự trì giới, tu định (thiền); khác rất nhiều danh từ trí thức hiểu biết ở thế gian. Hiểu biết ở thế gian là hiểu theo giác quan đối đãi, so sánh phạm trù, chớ không phải do từ tu trì giới định: thấy rõ năm uẩn* là không, nên đạt được cái thấy tất cả; và trong cái thấy đó không có vọng tưởng xen vào. Chúng ta hiện thời tuy chưa đạt được trí huệ giác ngộ, nhưng dầu sao cũng đang trên con đường đạt đến cái thấy đó.

Bây giờ nhìn kỹ dung nhan đấng Điều Ngự; hai tay chúng ta chấp lại nhất tâm chiêm ngưỡng vài giây phút; để tâm hồn lắng xuống, lắng xuống thật sâu như ly nước đục từ từ trong suốt vì những bợn nhơ dần dần chìm xuống.

Chúng ta đã cảm được niềm an lạc trong tâm; niềm an lạc này khó tả lắm, và chắc chắn ta cố muốn duy trì mãi niềm an lạc hạnh phúc này. Tuy nhiên niềm hạnh phúc an lạc ngay trước điện Phật không phải hoàn toàn do cảnh điện Phật tạo nên! Điều này ta phải hiểu như vậy, bởi khi quay về cuộc sống thật, trở lại với gia đình, xã hội thì tâm ta không còn an lạc hay sao? Nếu không có an lạc hạnh phúc, thì làm gì chúng ta tồn tại được, ít ra ngay bây giờ! Hẳn nhiên theo lý tưởng quan niệm, truyền thống đạo giáo, mỗi dân tộc mỗi ý thức mà dệt cảm những hạnh phúc an lạc khác nhau. Ở đây chỉ xin thưa niềm an lạc giác ngộ theo chân lý giải thoát. Tất nhiên chúng ta vẫn tìm được niềm an lạc giải thoát ngay tại gia đình, tại hãng xưởng, tại khắp mọi nơi trên cõi Ta Bà này. Niềm an lạc trong đạo giải thoát, là sự bừng tỉnh giác ngộ tìm được tâm cảnh của chính mình; tìm lại được nên tâm tư không còn vọng động xôn xao chạy theo giả cảnh, và lúc không động niệm, ngay đó niềm an lạc tức thời hiện hữu. Do thế có thể tìm được an lạc khắp nơi, mà không phải nhứt thiết là nơi đất già lam ở ngay chánh điện. Nếu nhứt thiết vậy thì các vị tu sĩ chỉ cần một đời tu là giải thoát, vì sống trọn đời trên đất Già Lam, và chúng ta cũng vô cùng ngạc nhiên tại sao mọi người không thành tu sĩ hết để chắc chắn được giải thoát; hay mỗi nhà buộc phải có một chổ thờ Phật để được an lạc hoài...Chúng ta dư biết, ngay cả thời đấng Thế Tôn còn tại thế, mọi người cũng thường thấy hảo tướng của Ngài vậy mà đâu phải ai cũng giác ngộ. Kể cả các vị đã là đệ tử của Phật rồi, vẫn còn bị phiền não lung lạc, nên Phật mới chế ra giới, cũng như dùng biết bao phương tiện pháp môn hầu đánh thức giác tánh nơi các vị.

Họa chăng có thể nói, ở ngay Phật đài tìm an lạc rất mau. Vì do tâm chúng ta hay thường phan duyên* với cảnh bên ngoài, nên tự đấu tranh tìm lại giác tâm khó được, do đó cần mượn cảnh để nhiếp tâm. Hiểu vậy rồi lại càng tăng thêm niềm tín tâm an lạc, và hiểu được mức độ tâm thức mình ra sao, thế nào.

Ngước nhìn lên đấng Điều Ngự lần nữa, chúng ta thấy mình thật hạnh phúc, thấy được Phật pháp lan rộng khắp nơi và tâm chúng ta hiện thời cũng là tâm Phật. Hình ảnh đấng Điều Ngự biểu hiện cho sự toàn giác, thị hiện cho mọi người noi theo.

-Con xin đảnh lễ tỏ lòng tôn kính, tri ân Ngài đã cho con thấy con đường giải thoát; đó là sự bừng tỉnh giác ngộ cuộc đời là huyễn là mộng, thân tứ đại* không thường còn, chỉ có tâm thức giác ngộ mới là miên viễn.

Con xin noi gương Ngài và nguyện sẽ đi trọn con đường giải thoát. Nếu như có thể cầu xin được Ngài hộ trì gia bị, thì con xin ngài gia hộ cho tất cả chúng sinh trên cõi Ta Bà này sớm phá vỡ màn vô minh, mà quay về với đạo giải thoát để biến cõi Ta Bà uế độ thành Tịnh độ trang nghiêm như cõi Phật A Di Đà vậy.

 

Chiêm ngưỡng tán thán, nguyện cầu xong tâm tư chúng ta hẳn đã vơi nhẹ lắm, và mong sao niềm an lạc hoan hỷ nầy sẽ theo mãi với chúng ta đi vào cuộc sống.

Ra về, trở lại gia đình, tiếp xúc bạn bè, lao đầu vào công việc tất cả hoạt động bây giờ đã thay đổi. Thay đổi ý thức và thay đổi hành động...

_______________

* Ngũ uẩn: Là năm món hòa hợp tạo ra thân tâm con người, gọi là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc: vật thể hữu hình. Thọ: cảm thọ vui mừng buồn khổ. Tưởng: tưởng tượng, nghĩ về đối tượng các sự

vật. Hành: tác động của sự động tâm sinh ra hành động...Thức: hiểu biết phân biệt.

_______________

*Phan duyên: nương theo, vịn theo sự vật trần cảnh bên ngoài (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).

___________________

*Tứ đại: đất, nước, gió, lửa. (xem Phật Học Từ Điển, ĐTC)


Mục lục | Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 |
| 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 |

 


Cập nhật: 1-12-2000

Trở về mục "Phật giáo cho người bắt đầu"

Đầu trang