Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Nhân Duyên Vào Đạo Phật
Thích Phổ Huân

20
Đọc tụng kinh Phật

Khi nghiên cứu đạo giải thoát, không một học giả nào lại không lên tiếng sững sờ chới với về lượng kinh điển của nhà Phật. Người thì ví như rừng, kẻ ví như biển...ai lạc vào rồi hẳn phải chơi vơi không biết đâu là hướng đến hướng ra. Quay cuồn lặn hụp như thế đến hết đời cũng chẳng biết mình đã tới đâu! Có thể khẳng định rằng, nếu chọn một chú bé thuộc dạng thông minh; nuôi dưỡng giảng dạy Phật học cho chú ngay khi bắt đầu tập nói, như thế đào tạo chú đến trưởng thành, và tiếp tục tạo đủ điều kiện cho vị này học đến già; đến lúc không còn học được nữa, thì lúc bấy giờ ta có thể tin tưởng rằng vị này làu thông hết kinh điển? Xin thưa chẳng bao giờ! - và có lẽ phải nhiều đời sanh ra để học như vậy mới được phần nào thôi! Nhưng lạ một điều là càng học lại càng thua người không học! Đức Phật há chẳng dạy là xưa nay Như Lai chưa nói một lời!

Như Lai đã không nói gì cả, thì pháp mà người đó học tất nhiên làm sao thành được cái gì! Nói là học cái không không, hóa ra mình là người bất thường, nhưng quả thật trong thời Phật hiện tiền, các vị chứng đạo đâu có sách mà học, đâu có ai là học giả. Thời tượng pháp và cận đại sau này, dù đã có kinh sách truyền tụng nhưng quý Tổ chứng đạo đa số ở nơi làng mạc hẻo lánh, nơi ấy làm sao có phương tiện nghiên cứu học hỏi nhiều.

Vậy ra học kinh không là cứu cánh sao? - Tất nhiên là cứu cánh ban đầu và phương tiện về sau, nghĩa là ban đầu nhờ gặp kinh sách chúng ta mới biết được pháp giải thoát, nhưng về sau đã hiểu biết rồi phải xem đây chỉ là phương tiện, hầu tránh kẹt cứng vào những gì đã học. Cũng từ việc chấp chặt như thế mà Phật đã dạy, xưa nay Ngài chẳng nói một lời. Do vậy nếu người không hiểu sẽ cho rằng quái lạ, không biết phải tu thế nào, vì bấy lâu nay ôm kinh mà đọc gần như muốn thuộc lòng cả một cuốn kinh, chẳng hạn kinh Kim Cương hay Vô Lượng Thọ vậy. Còn các mật chú như chú Đại Bi, chú Lăng Nghiêm thì thâm nhập vào tâm rồi, vậy lãng phí à!

Thế nghĩ ra chỉ có đạo giải thoát mới dạy như vậy, vì muốn đưa chúng sanh vào sự giải thoát đúng nghĩa của giải thoát. Ngón tay chỉ mặt trăng, chiếc bè đưa qua sông mang ý nghĩa tượng trưng. Chúng ta chỉ nhờ ngón tay mà thấy mặt trăng, nhờ chiếc bè mà qua được sông; khi đã thấy được trăng, đã qua được bờ thì nên quên hẳn nó đi, để còn làm chuyện khác! đừng dại cho ngón tay là cứu cánh, cho chiếc bè là đệ nhất nghĩa...tất cả tất cả chỉ là phương tiện. Thế nên Phật nói, chẳng nói một lời là như thế.

Vậy hiện nay chúng ta phải đọc kinh hằng ngày, và chỉ có một vài bài kinh đổi đi đổi lại thế có tác dụng gì không? Trong khi đọc cả pho kinh còn phải bỏ! Chúng ta không từ bỏ bất cứ phương tiện nào, nếu phương tiện đó hợp lý và hợp với khả năng cảm tính của ta theo đường hướng chánh pháp. Nhưng khi đã biết chúng chỉ là phương tiện, thì phải sống đúng với phương tiện đó. Tất nhiên đọc kinh nghiên cứu, tụng kinh tu niệm là điều phải làm của người Phật tử tại gia và xuất gia. Người nào tự xưng mình là Phật tử, mà khinh thường việc tụng kinh là người liều lĩnh tự cho mình có thể bơi vượt qua biển Đại Tây Dương. Và việc gì xảy ra cho người đó! Người đó sẽ chết đuối giữa chừng biển.

Người Phật tử nhờ vào kinh điển để tìm lại hình bóng Phật, để lắng nghe pháp âm vi diệu của Ngài, để nhìn xem mình đã sanh ở đâu ngay thời Ngài còn tại thế. Cuộc luân hồi không tưởng, đâu biết chừng thời ấy mình đã là người Ấn Độ sanh trong dòng Tỳ Xá (thương gia, bình dân) hay Thủ Đà La một giai cấp cùng đinh hèn hạ! Rồi duyên ngộ nào đó gặp Phật và đệ tử Ngài đi qua, chỉ len lén nhìn trộm dung tướng của Ngài, trong tâm móng lên lòng kính mộ; nhờ được như thế mà phước báo hơn hai ngàn năm sau, sanh ra khỏi đất Ấn, và hoàn cảnh bây giờ được tương đối đầy đủ. Do chút nhỏ nhân duyên vậy giờ mới cảm tình với đạo giải thoát chăng!

Vậy lấy việc tụng kinh để mong giữ được tâm ngưỡng mộ, tri ân mơ màng hình dung lại thời mà mình đã thấy trộm Ngài, và mong sao còn gặp lại Ngài trong kiếp sống khá hơn. Hãy thử đọc vài lời kinh rồi mường tượng lại xem sao:...Một thuở nọ, đức Bạt Già Phạm* đi châu du giáo hóa các nước, đến thành Quảng Nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc Am,...

Tùy vào lòng tôn kính tri ân của mỗi người, việc đọc tụng kinh điển có thể mang đến sự giác ngộ. Lục Tổ Huệ

Năng, Ngài chỉ nghe người khác tụng kinh*, và chỉ lọt vào tai một câu, khiến Ngài giác ngộ; chúng ta vì vô minh dầy đặc không được như Ngài, thì nay ôm giữ kinh tụng mãi không lẽ không có ngày giác ngộ sao! Trong kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, ở phẩm thứ ba, ‘Mười Công Đức’ Ngài Đại Trang Nghiêm Bồ Tát xưng tán sự cao siêu mầu nhiệm của kinh Vô Lượng Nghĩa; như khi nghe kinh này các hàng Bồ Tát, Quỷ Thần...các chúng sanh, không ai là không phát tâm Bồ Đề và chứng được Thánh quả. Ca tụng xưng tán rồi, Ngài lại thưa hỏi đức Phật,: Bạch đức Thế Tôn! Kinh này do từ nơi nào tới? Sẽ đi về nơi nào? Và trụ ở nơi chốn nào?...

Trả lời cho Bồ Tát Trang Nghiêm, Phật dạy ...Này thiện nam tử! Kinh này vốn nó từ trong nơi nhà chư Phật mà tới, nó đi đến chỗ hết thẩy chúng sinh phát tâm Bồ đề, và trụ ở nơi các vị Bồ tát sở trụ...

Phật dạy còn nhiều, nhưng ta thấy ở câu vốn nó từ trong nơi nhà chư Phật mà tới, khiến chúng ta thật vững tâm không sợ lạc đường, và không phải chỉ có kinh Vô Lượng Nghĩa mà các kinh khác nói ra cũng từ nơi nhà chư Phật mà tới. Thế thì dù ta đọc kinh có phần nào phân tâm vọng tưởng trong đó, ta cũng đã ở ngay trong nhà chư Phật rồi. Như được nhất tâm trì tụng thời công đức nào mà không phát ra. Tiếp theo Phật lại dạy công đức mà chúng sanh đạt được do nhân duyên nghe qua hoặc trì tụng: ‘Này thiện nam tử! Kinh này, một là hay khiến cho các bồ tát chưa phát tâm, thì phát tâm Bồ đề, không có lòng nhân từ thì khởi ra lòng nhân từ, người hay sát hại thì khởi ra tâm đại bi, người hay ghen ghét thì khởi ra tâm tùy hỉ; người tham ái chấp trước thì khởi ra tâm hỉ xả; người sẻn tham thì khởi ra tâm bố thí; người kiêu mạn nhiều thì khởi ra tâm giữ giới; người giận dữ nhiều thì khởi ra tâm nhẫn nhục; người hay lười biếng thì khởi ra tâm tinh tiến; người hay tán loạn thì khởi ra tâm thuyền định; với người si mê thì khởi ra tâm trí tuệ; người chưa hay độ người thì khiến cho phát tâm độ người, người hay làm thập ác, thì khiến cho phát tâm làm thập thiện; người tu pháp hữu vi thì khiến cho chí cầu đạo vô vi; người tâm thoái chuyển thì khiến cho tâm bất thoái; người làm hạnh hữu lậu thì khiến cho phát tâm vô lậu người nhiều phiền não thì khiến cho phát tâm trừ diệt. Này thiện nam tử! Đó là năng lực thứ nhất bất khả tư nghị công đức của kinh này vậy ’.

Đọc đoạn công đức đây, chúng ta thấy, chẳng có gì là huyền bí khó hiểu, ngược lại thì rõ ràng thực tế mà ai trong chúng ta cũng có thể đạt được công đức này. Phật dạy rõ như thế cho thấy, lời Ngài dạy cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm nay, chỉ là làm sao cho con người rửa sạch tâm mình cho thanh tịnh. Và công đức trì tụng, tức nhắc lại lời Phật dạy chỉ để tu cho được pháp thiện, phát được tâm Bồ Đề. Tuy nhiên cũng xin nhớ rằng ứng nghiệm của kinh không thể nghĩ bàn, vì vốn nó từ trong nơi nhà chư Phật mà tới, nên khi trì tụng chính điểm thời gian đó ta đã ở ngay trong nhà chư Phật. Ở ngay trong nhà chư Phật thì đã đầy đủ tất cả pháp tu, do đó khi thân trang nghiêm cung kính, miệng đọc lên lời Phật, ý nhiếp

định theo thân và khẩu, nơi đây ta đã hòa vào an định của pháp vị giải thoát, từ đó mà có sự cảm ứng bất khả tư nghì là vậy. Thế là tụng kinh nhất tâm có thể nhiếp được ba nghiệp sinh ra công đức thù thắng, hóa giải được những phiền não thô tế trong và ngoài. Hơn nữa thù thắng của lời kinh còn vang động đến mười phương không gian nữa, việc này ta thấy lời kinh đã chữa được nhiều bệnh và hàng phục cả đến các loài phi nhân.

_____________

*Bạt Già Phạm: một danh hiệu khác của đức Phật, với nghĩa đầy đủ phước trí.

____________

*Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. (Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào) lời kinh trong Kinh Kim Cương mà Lục Tổ Huệ Năng, nghe qua liền giác ngộ.


Mục lục | Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 |
| 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 |

 


Cập nhật: 1-12-2000

Trở về mục "Phật giáo cho người bắt đầu"

Đầu trang