Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Nhân Duyên Vào Đạo Phật
Thích Phổ Huân

35
Hướng về chư Phật

Thế giới sống của chúng ta tất cả là tương đối, không gì tuyệt đối, nói theo lý nhân duyên duyên khởi thì liên hệ mật thiết với nhau, hay gọi theo kinh Hoa Nghiêm là trùng trùng duyên khởi; ý nói lên cả pháp giới vũ trụ vô cùng này đều khởi lên do tâm mà có ‘các pháp do tâm tạo’. Do đó mọi hình ảnh tác động nào đều phản ảnh sự động niệm của ta: ta đi đứng nằm ngồi, ta tư tưởng phán đoán và cụ thể hóa qua đủ mọi hành động gầy dựng, phá vỡ tất cả là những tương đối lăn xăn trong pháp giới. Các bậc chứng đạo thấy được pháp giới lăn xăn như vậy, và từ đây các Ngài tự chuyển hóa Pháp giới cảnh của chính các Ngài trở thành Pháp giới tánh thanh tịnh, vì tất cả do tâm biến hiện mà ra. Tư tưởng đó hóa thành trí huệ Bát Nhã, thấy được tất cả khởi lên do nhân duyên vọng động đều là không thật, để chuyển thành Chân Không thanh tịnh, rồi trở về cái có trong an nhiên Diệu Hữu. Tức là pháp Trung Đạo mà Phật đã luôn dạy cho hàng đệ tử của Ngài.

Ngày nay chúng ta dù tu pháp môn nào cũng phải giữ con đường trung đạo hài hòa vào tâm cảnh, không vì tự cho mình chọn đúng pháp môn rồi bảo người khác là sai.

Cảm thấy chọn đúng pháp môn chỉ là hợp căn, có duyên với pháp đó. Hơn nữa theo lý nhân duyên mật thiết với nhau, thì đối lập giữa tâm cảnh là vấn đề cho người tu Phật phải vượt qua để gạn lọc thanh tịnh tâm mình.

Hành giả ngồi thiền khó thể an định, nếu tâm còn chấp trước so sánh pháp tu, dù là so sánh sự phát triển của mình huống là đến sự đúng sai của người khác. Hành giả trì chú niệm Phật, nhất định phải nhất tâm, để có thể đi vào Thanh Tịnh Tam Muội, không khác vào Tam Ma Địa là cảnh giới an định dứt trừ phiền não của các bậc chứng thiền, nếu còn suy tưởng tự cho mình là đúng, không khéo sẽ vào ma đạo!

Đó là con đường trung đạo nhắc nhở chúng ta phải khéo léo đi vào, và để an toàn cho việc đi vào trung đạo đó, nhất định chúng ta phải nên hướng về tâm điểm là sự lý thanh tịnh toàn giác. Thanh tịnh toàn giác đó là bậc đạo sư của chúng ta, là đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, đấng -ng Cúng, Chánh Biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự, Trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn.

Hướng về sự toàn giác thanh tịnh của Ngài dù là bằng sự qua hình ảnh, hay về lý là tánh chân giác, đều nhất định cần phải hướng về và luôn luôn phải hướng về. Trong đời sống hiện tại quá phức tạp, nhiễu nhương biến động này, ai là người tu Phật lại dám tự hào không hướng về Phật! Cách đây hơn cả ngàn năm các vị Đại sư, Tổ sư Trung hoa, Tây Tạng, Tích Lan v.v...đều đã nhất tâm hướng về để tìm cầu giải thoát, chứng tích đó là những tượng thờ hình ảnh đức Thế Tôn được tạo lên, mà bây giờ trở thành thánh tích lịch sử. Nhưng đáng ghi nhận hơn là ngay thời Phật còn tại thế, các đệ tử của Ngài dù đã đắc đến quả Thánh cao nhất là Vô Sanh mà vẫn còn hướng về, để cầu được quả Viên Giác (Phật). Các vị hướng về bằng cách quán tưởng chân tướng giải thoát của đấng Thế Tôn, qua hình ảnh sinh hoạt thường tình của Ngài và chuyển hóa chân tướng thanh tịnh đó, trở lại chính với các vị bằng sự liễu đạo vượt siêu quả vị A La Hán đi đến quả Chánh Đẳng Chánh Giác ở vị lai. Đọc lại các kinh Đại thừa nghe Ngài A Nan kể, kinh nào chẳng có hàng ngàn vị Bồ Tát đến nghe Phật thuyết pháp. Có kinh Phật dạy là có vô số Bồ Tát đến dự nghe mà đệ tử Thánh tăng của Ngài chỉ thấy rất ít. Đó chưa nói hàng quỷ thần, thiên vương thì tính sao cho xuể. Chẳng hạn lời đầu kinh Dược Sư, trước giờ nói pháp ‘...cùng với tám ngàn vị Đại Bí Sô, ba vạn sáu ngàn vị Đại Bồ Tát, các hàng quốc vương, đại thần, bà la môn, các hàng cư sĩ, thiên long, bát bộ, cùng nhơn, phi nhơn, cả thảy đại chúng nhiều vô lượng, đồng vây quanh Phật cung kính thỉnh Ngài thuyết pháp...’

 

Do suy xét nhận rõ như thế, người học pháp giải thoát thời nào cũng phải đặt tâm hướng về chư Phật, hướng về chư Phật là hướng về sự giải thoát; đơn giản như vậy, nhưng cụ thể hóa bằng những phương cách tu hành tùy theo mỗi hành giả. Người tu thiền dù không đặt nặng đọc kinh, trì chú, niệm Phật nhưng phải hướng về bằng tâm niệm, ít ra cũng phải tối thiểu tạo cho mình một ảnh tượng Phật trước mặt để đi vào định tâm. Như không có ảnh tượng thì phải tự theo nghi thức nào đó xưng tán danh hiệu đấng giác ngộ rồi mới đi vào Thiền. Đây là vấn đề thật tự nhiên chẳng có kẹt chấp gì cả, dù pháp môn Thiền là vô chấp, bởi vì phải thận trọng sự nguy hiểm của cái vi tế móng tâm kẹt vào sự kiêu mạn.

Sự nguy hiểm này đức Phật đã dạy rõ trong kinh Lăng Nghiêm, thiết nghĩ thật quan trọng mà chúng ta nên nhận ra. Phật dạy Ngài A Nan Mười Món Ma về Sắc Ám mà người tu thiền không khéo sẽ bị ma cám dỗ đi vào tà đạo. Phật dạy khi tu thiền hành giả do dụng công nên tạm hiện những cảnh sau đây:

 

1-Thân thể không bị chướng ngại,

2-Lượm bỏ trùng độc trong thân,

3-Nghe trong hư không có tiếng nói pháp,

4-Thấy Phật hiện và hoa sen trổ,

5-Thấy các vật báu đầy cả hư không,

6-Thấy ban đêm như ban ngày,

7-Thân thể không biết đau,

8-Thấy cảnh giới Phật hiện khắp nơi,

9-Ban đêm thấy, nghe được phương xa,

10-Thân hình biến hóa, nói pháp thông suốt.

 

Ở đây chỉ ghi lại tên của mười món ma, đọc rõ từng món sẽ thấy Phật dạy chi tiết hơn. Cuối cùng Phật dạy rằng: Này A Nan, mười cảnh ma này, đều do trong lúc tu thiền, dụng tâm phá trừ sắc ấm, nên nó biến hiện ra các cảnh như vậy. Nếu khi gặp những cảnh như vậy, mê lầm không biết, cho mình đã chứng Thánh thì bị ma nó ám ảnh, rồi sanh ra đại vọng ngữ, nói mình thành đạo chứng quả v.v...Vậy khi ta nhập diệt rồi, các ông nên y lời ta dạy, đem những việc ma này, giảng dạy cho người tu hành đời sau, bảo hộ người tu hành đặng thành đạo quả, chớ để cho họ bị thiên ma nhiễu hại.*

 

Đọc qua lời răn nhắc như vậy, càng thấy rằng sự tu niệm của chúng ta luôn luôn nên hướng về chân ảnh Phật. Người tu trì chú, niệm Phật thì sự hướng về quá rõ ràng, hơn là người chuyên về Thiền định, vì người niệm Phật trì chú đọc kinh là đã hướng tâm đến chân ảnh của sự giác ngộ qua lời kinh và danh hiệu của bậc toàn giác. Và người tu thiền thế nào cũng nên hướng về dù là ảnh tượng hay chân ảnh. Chân ảnh Phật, vừa là lý tánh giác ngộ nhưng cũng vừa là những lời kinh và ảnh tượng. Nhớ lại Lục tổ Huệ Năng, Ngài là bậc tổ thiền đắc đạo đã chứng thực bằng sự lưu lại cho đời nhục thân bất hoại; Ngài được như vậy cũng do nhân duyên nghe được lời kinh Kim Cang để từ đó làm nơi quy ngưỡng hướng về và việc hướng về của Ngài quả thật là siêu việt, nhưng dù sao ta vẫn thấy Ngài vẫn nhờ vào lời kinh Phật mà ra. Cho nên người tu thiền đời nay không thể được như Ngài, thì cũng nên nương vào kinh để đi sâu vào lý tánh mà lợi ích có thể sẽ dễ dàng đạt quả được ngay thời nay.

 

Sự hướng về giác ngộ bằng tự tâm, mới dễ đưa ta tới gần chân giác, chứ không phải giữ chặt ảnh tượng nghi thức thờ cúng là về gần với Phật, dù đó vẫn là sự hướng về.

Tới đây là phần lý hướng về, để hòa vào pháp thân giác ngộ. Hướng về giải thoát qua lý tánh, giúp ta lúc nào cũng sống gần với Phật (giác), và ta có thể tìm được ảnh tượng trang nghiêm của Ngài ở khắp mọi nơi, ngay khi đang sinh hoạt trong đời sống qua hình ảnh thô của thân. Hướng về như vậy quả thật là khó, nhưng đây mới là sự hướng về sâu kín nhất, do vì như thế mà trong các pháp tu, thấy rằng pháp niệm danh hiệu Phật cho ta nhiều cơ hội không quên hướng về chân giác.

Xét cho cùng thì cả hai, lý và sự cần phải hướng về; chúng ta có thể vừa tu thiền để làm dịu tâm vọng động, vừa niệm Phật tụng kinh để sống mãi với chánh niệm, và dễ dàng hướng về chân tâm thanh tịnh giải thoát.

 

Tóm lại sự hướng về cả hai, ảnh tượng và chân tánh đều rất cần thiết cho người thật cầu giải thoát; và đó là con đường Trung Đạo giúp ta an tâm vững bước không sợ sai lạc, khi mình vẫn còn mang một tâm thức mê mờ thô lậu.

__________________

*Triết Lý Thủ Lăng Nghiêm, HT. Thích Thiện Hoa, Phật Học Viện Quốc Tế (Hoa Kỳ) tái bản 1987.

***

Tạm dừng,

Chúng ta đã có duyên bước vào đạo giải thoát rồi, dù là những bước chập chững, nhưng chắc chắn sẽ tới. Vậy nỗi vui mừng hân hoan đó, là áp dụng đạo lý vào đời sống của mình để thăng hoa giải thoát.

Thật ra tất cả đã sẵn có từ lâu, chúng ta chỉ là người quay về muộn, nay tự biết mình mãi giong ruổi quên đường, giờ mới được lên thuyền cũng chưa gọi là lỡ chuyến. Thuyền vẫn còn chờ, ta hãy cố gắng thu dọn hành trang không nên nuối tiếc. Hành trang mang theo trên mình không là vật chất gồ ghề như ta đã từng gầy dựng trong đời; hành trang này không còn là hình tướng nữa, mà chính là những hành động tạo tác trong quá khứ và hiện tại của ta.

Thiện nghiệp, ác nghiệp là những hành trang, nhưng thiện nghiệp có sức đưa con thuyền qua bờ bên kia hưởng vui an lạc, và ác nghiệp lại đưa ta quay về với bến củ của đau thương phiền muộn; tệ hơn phải bị trôi dạt vào cảnh giới tối tăm với hình thù thô xấu.

Ngày nay ta có nhân duyên tìm lại được mình mãi mê bao kiếp sống phí phạm, ta hãy ý thức làm lại cuộc đời, để sống và hành động phù hợp với tâm niệm giác ngộ giải thoát mà Đấng Giác Ngộ đã từ bi chỉ dạy.

Khi hành trang đã chuẩn bị, ta không lo ngại giờ phút lên thuyền, và sẽ hân hoan đón nhận ngày từ bỏ bến bờ ở đây. Niềm hân hoan đón nhận đó, ngay lúc này đã làm ta thay đổi cách sống, giúp ta vui vẻ hành xử những hoạt cảnh trong đời, để trở thành một hành trang giải thoát.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
TK. Thích Phổ Huân.

Mục lục | Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 |
| 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 |

 


Cập nhật: 1-12-2000

Trở về mục "Phật giáo cho người bắt đầu"

Đầu trang