Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Nhân Duyên Vào Đạo Phật
Thích Phổ Huân

18
Tu Phật không phải dễ

Ngày Phật còn tại thế, hàng Phật tử tại gia đâu phải ai cũng lãnh hội lời Phật dạy, thậm chí các vị tu sĩ sống gần Phật còn có vị chưa chứng quả mãi cho đến Phật vào Niết Bàn. Có vị còn phản lại giới luật, cho rằng gò bó, hạn cuộc đời sống tu sĩ, cả đến muốn chống lại Phật nữa. Đó là thời chánh pháp Phật còn hiện tiền, bây giờ nhìn lại chúng ta những người đang tập tành lê bước tìm bóng dáng Phật cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm có phải là chuyện dễ không?

Ngày còn Phật ở thế gian, pháp ngữ của Ngài vang vọng khắp không gian, vậy mà còn có người dửng dưng không hiểu; giờ đây pháp ngữ đó chỉ là những nét mực loang trên giấy bản, thì người ta có thể dễ cảm được chăng? Và không chỉ là pháp âm, mà hình tướng trang nghiêm siêu thoát của Phật tỏa ra vẻ đẹp sáng đến cả mười phương thế giới, hay hiểu đơn giản là loài chúng sanh nào cũng nhìn Ngài mê mẩn, nhưng vẫn có người như đui ra nghĩa là không cảm được gì, cho nên không duyên học đạo; thì thời nay chỉ là mường tượng miêu tả vẻ đẹp theo giác quan thô kệch ô nhiễm của con người thời mạt pháp, thì có dễ cho người ngộ đạo không?

Rồi cuộc đời của Phật đã cảm hóa được hàng vạn người, không phân biệt giai cấp, từ hàng vua chúa đến hạng cùng đinh; bất luận người nào khi hiểu lời dạy của Ngài tức thì giác ngộ chứng quả, hay ít ra cũng dứt đi tạo nghiệp mà quả thấp nhất là sanh vào cõi trời. Vậy mà cũng có người không muốn nghe, không muốn thấy sự thật đó, thế bây giờ tìm có được hình ảnh nào đáng so sánh phần trăm, phần ngàn như thời chánh pháp để cho người thời nay thức tỉnh không? Chưa nói là thời đó đời sống con người không phải như thời nay, họ không có nhiều thú vui cám dỗ; nhìn lại bây giờ phải biết vạn lần khó hơn để tìm về Phật đạo!...

Vài điểm để thấy đời nay tu Phật không phải là dễ, thử nhìn xem từ thời Lục Tổ Huệ Năng (638-713) đến nay, biết được có bao nhiêu người đắc đạo! Chỉ lác đác có vài chục người, trong khi có đến cả chục triệu người tu theo Phật (tính chung tu sĩ, cư sĩ). Có phải những người tu sau là tu sai! Điều này không thể khẳng định được, nhưng nói cho dễ nghe, là tu Phật không phải dễ, vì như trên đã nói cả thời còn Phật mà vẫn nhiều người không tu được.

Chúng ta thử nhìn xem ngay chính bản thân mình, những người mới vào đạo hiểu được lấp lửng một vài giáo lý, một vài bài kinh có đủ để chứng đạo không? Đừng nghe tích sử của Lục Tổ người không biết chữ mà chứng đạo rồi móng tâm cho là dễ; không khéo đã không ra khỏi luân hồi mà còn ở vào thế giới thấp nhất của lục đạo. Lục tổ chỉ là người duy nhất từ đó tới nay, ngoài ra không thấy người thứ hai nữa. Một người phi thường liễu đạo như thế không cần suy nghĩ cũng biết là bậc Bồ Tát hóa thân, mà đã hóa thân đẹp lạ như thế tức phải tu hàng vạn kiếp mới được. Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn giải thích, là thời gian từ Thánh quả Tu Đà Hoàn đến được quả Phật phải trải qua tám vạn kiếp, một tiểu kiếp được tạm tính là mười sáu triệu tám trăm ngàn năm(16,800,000), vậy tám vạn kiếp tức tám nhân cho mười ngàn (8 x 10000) rồi nhân cho mười sáu triệu tám trăm ngàn (16,800,000) năm, con số sẽ là một ngàn ba trăm bốn mươi bốn tỉ (1344,000,000,000). Đây lấy con số để tính mà tạm hiểu thời gian lâu vậy, thật ra còn lâu hơn nữa. Phật học Từ điển ĐTC giải thích thêm: Trong kinh, có chỗ thí dụ nầy để chỉ sự lâu dài của một Kiếp: Ví như có một hòn đá vuông vức 40 dặm. Cứ một trăm năm đem chiếc áo Tiên chỉ nặng ba thù* mà phất vào hòn đá một lần. Lần hồi như vậy chừng nào hòn đá mòn và tiêu hết, đó là một Kiếp.

Chỉ đơn giản hiểu vậy thôi, chúng ta thấy chứng được quả Phật là việc không thể tưởng nổi. Với bậc Tu Đà Hoàn là bậc thấp trong tứ quả, phải trải qua thời gian lâu như vậy, thế mà đời nay đâu dễ thấy mấy ai đắc quả Dự Lưu này! Còn như các vị phát Bồ Đề Tâm, mang đủ hình tướng Bồ Tát lăn xả vào đời để được thành Phật, thì thời gian không thể tính được. Trong quyển Phật Giáo Khái Luận của Hòa Thượng Thích Mật Thể, đoạn viết về Kiếp có nói: Các bậc Bồ Tát tu hành phải trải qua tam A Tăng Kỳ kiếp mới thành Phật. A Tăng Kỳ ý nghĩa là vô số kiếp vậy.

Do đó chúng ta tu hành đời nay chớ móng tâm cho là dễ, hoặc cho Phật tại tâm, hoặc cho Phật với ta không khác hoặc chứng đạo chỉ trong sát na v.v...Những tư tưởng như thế chỉ để phương tiện an ủi nhắc nhở sách tấn trên đường hành đạo, chớ thực tế hoàn toàn cách xa.

Chúng ta dư biết tâm vô thường, có thể xoay chuyển từng sát na, và trong trần cảnh dục nhiễm lên đến cực điểm như thời đại hiện nay, ai dám tự hào tâm mình ngưng đọng. Nhưng tâm Phật không phải là tâm ngưng đọng! Dựa vào quả vị Phật thì không tưởng nổi, ta thử so tâm các vị Tổ thôi, chúng ta cũng khó mà với tới. Các Tổ cũng thời mang tâm vô thường nhưng vô thường trong sự tự tại để chuyển thành chân thường đạo, thành ra nhìn cách sinh hoạt của Tổ không khác người thường. Tuy vậy các Tổ cũng nghiêm mật tinh chuyên tu hành khó mà hiểu được, vì ở mức độ tu cao hành giả càng cảnh giác hơn. Lịch sử xưa nay cho thấy Tổ nào cũng gian truân tầm đạo hành đạo, và việc ngộ đạo để lại chứng tích thường xảy ra ở nơi không bị hoen ố của những hình thức danh vị sắc tướng... Suy ra các Ngài buộc phải hành đạo gian khổ như thế, vì các Ngài thấy rằng đời nay không thể với kiến thức Phật học mà chứng được đạo, và chỉ đôi mươi năm giữ giới mà tạo được chân tâm! Đọc trong Từ Bi Thủy Sám chúng ta thấy gương của Ngài Ngộ Đạt quốc sư, đã hơn mười đời sanh ra làm bậc cao tăng đức độ, vậy mà đời cuối sau không kềm hãm được tâm, để cho danh sắc động lòng mà móng tâm tự mãn, nên phải chịu quả báo oan gia hiện lên đòi oán. Mười đời làm Hòa Thượng cao tăng hẳn đã thông hiểu nhiều pháp Phật, hẳn thấm nhuần lý vô thường, vô ngã...và tưởng đã hồi hướng tiêu hết những oan gia nghiệp báo đời trước, ai ngờ khi móng tâm lên nghiệp báo kia vẫn quay về báo oán một cách dễ dàng. May thật Ngài đã nghiêm mật tu hành giới hạnh cả đến chín đời, chớ chỉ có một hai đời mà móng tâm vậy, thì chắc không có cơ hội sám hối mà phải đền mạng. Lại khi bị đền mạng, liệu tâm thức có đủ mạnh từ bi sáng suốt, để hòa vào ánh sáng Phật tức là vẫn kiên trì níu chặt chủng tử Phật pháp, hay sanh tâm buồn thảm tự tủi cho mình đã hành đạo mà vẫn chịu quả xấu rồi hóa thành hờn giận! Thế là xung khắc tâm thức, và khi được sanh làm tu sĩ trở lại, luôn mang tâm trạng giận hờn trong tâm mà không biết nguyên nhân gì, đến chừng gặp người của quá khứ tái sanh thì bao vấn đề rắc rối khởi lên, dù hoàn cảnh không gây hại lại được, nhưng tâm tư khó mà an lạc để tu!

Với chúng ta thì sao, ai biết mình đời trước đã có tu? Và đời trước tu thế nào? Theo kinh điển Phật dạy, muốn biết tương lai nhìn hiện tại đang làm, muốn biết quá khứ nhìn hiện tại đang hưởng. Cũng có thể rõ ràng, chúng ta là người có duyên với Phật pháp, và ít nhiều trong quá khứ đã hành qua nên bây giờ mới ham thích đạo giải thoát vậy. Nhưng bên cạnh sự ham thích đó, chúng ta đã đạt được gì gọi là an lạc trong pháp vị giải thoát! Điều này chỉ trong tâm mỗi người chúng ta tự biết mà thôi, nhưng lược qua lịch sử truyền thừa Phật pháp tính từ thời tượng pháp trở lại đây, ta cũng có thể suy ra pháp vị giải thoát đâu thấy có mấy người được hưởng. Biết rằng các vị chứng pháp không tuyên bố ra, nhưng sự thị tịch của các Ngài có thể cho thấy. Tóm lại chẳng có mấy người, và nếu chúng ta muốn hiếu kỳ, để diện kiến cho được các bậc chân sư chứng đạo, thì hẳn nơi ấy không là nơi mà chúng ta thường ồn ào hoạt động cho bản ngã, nói cách khác không dễ gì tìm thấy trong sinh hoạt của phố thị hiện ta đang sống. Vậy thì cho thấy các Ngài cũng lượng sức mà tu, và dứt khoát hành đạo, chỉ khi cảm thấy khả năng có thể, mới âm thầm đi vào phố thị bằng mọi hình thức hóa duyên độ chúng. Tuy nhiên đa số là thầm lặng tịnh tu để chờ đợi nhân duyên, thành ra ngày nay không còn thấy nhiều người ngộ đạo như xưa là vậy.

Lần nữa nhìn lại chúng ta, những người sơ cơ vào đạo, tâm tánh thô thiển cộc kềnh, thân thể biếng lười dã dượi; tinh tấn được một ngày thì chín ngày giải đãi. Hàng ngày lại đón nhận bao duyên cảnh sắc trần, phóng tâm đối đãi, nên tâm đã không dừng lại được, còn bị cuốn mất - lăn xăn lục đục giỏi lắm chỉ nhìn được tâm chớ bắt được tâm là chuyện không tưởng. Thành ra người tu sơ cơ trong thời đại này chỉ là xoa dịu, vổ về, những lỗi lầm trong quá khứ, và phương pháp sám hối nghiệp nhân đã phạm, là thực tế và tưởng như ý nghĩa nhất cho việc tu hành của chúng ta. Ấy thế trước kia ta cho rằng việc sám hối là hình thức, và tội phước vốn là không, cần gì phải lo sợ chấp chặt mà phiền não! Nào ngờ mới thấy, biết bao người sống đời tu niệm, nghiền ngẫm kinh sách có được mấy vị hành xử tự tại xem tội phước vốn không! Do đó chưa phải là căn cơ trung thượng thì muôn vàn khó khăn trên đường đạo, nếu không bị sa đọa vì ngã mạn tự cao là vạn may rồi. Vầy thì người sơ cơ như chúng ta phải đồng ý rằng tu Phật không phải dễ.

________

*Thù: một cách cân ngày xưa. Hai mươi bốn thù là một lạng, một lạng ngày xưa là nửa lạng bây giờ. 


Mục lục | Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 |
| 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 |

 


Cập nhật: 1-12-2000

Trở về mục "Phật giáo cho người bắt đầu"

Đầu trang