Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
KINH TỤNG HẰNG NGÀY
TỔNG HỢP 49 KINH CĂN BẢN CỦA HAI TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO
NAM TÔNG VÀ BẮC TÔNG

KINH CHỈ  BÀY PHƯƠNG TIỆN
Thứ bốn mươi ba

1. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn từ chánh định an lành mà dậy, bảo tôn giả Xá-lợi-phất: “Trí huệ của các Đức Phật rất sâu vô lượng. Trí huệ đó khó hiểu, khó vào, tất cả hàng Thanh Văn cùng Bích-chi Phật đều không biết được. Vì sao? Phật đã từng gần gũi trăm nghìn muôn ức vô số các Đức Phật, trọn tu vô lượng đạo pháp của các Đức Phật, dõng mãnh tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp, ý thú khó hiểu.     O

Này Xá-lợi-phất! Từ lúc ta thành Phật tới nay, các nhơn duyên, các thí dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp. Vì sao? Đức Như Lai đã đầy đủ phương tiện, tri kiến và ba-la-mật.   O

Này Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượng vô ngại lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát tam-muội đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có.

Này Xá-lợi-phất! Như Lai rõ các món phân biệt, khéo nói các pháp, lời lẽ êm dịu, vui đẹp lòng chúng. Này Xá-lợi-phất! Vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, Như Lai thảy đều trọn nên.   O

*

2. Thôi này Xá-lợi-phất! Chẳng cần nói nữa. Vì pháp khó hiểu, ít khi có thứ nhất mà Phật thành tựu đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chơn thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tánh như vậy, tướng như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng bài kệ rằng:   O

3. Đấng Thế Hùng khó lường,
Các trời cùng người đời,
Tất cả các loài chúng sanh,
Không ai hiểu được Phật.
Trí lực, vô sở úy,
Giải thoát các tam-muội ,
Các pháp khác của Phật,
Không ai so lường được.
Các món tánh tướng nghĩa,
Ta cùng mười phương Phật,
Mới biết được việc đó.  O
4. Pháp đó không chỉ được,
Vắng bặt tướng nói năng.
Các loài chúng sanh khác,
Không ai thể hiểu đặng.
Giả sử khắp mười phương,
Đều như Xá-lợi-phất,
Và các đệ tử khác,
Cũng đầy mười phương cõi,
Cùng suy chung so lường,
Chẳng lường được Phật trí.
Bực Duyên Giác trí lanh,
Vô lậu thân rốt sau,
Cũng đầy mười phương cõi,
Số đông như rừng tre,
Hạng này chung một lòng,
Trong vô lượng ức kiếp,
Muốn xét Phật thật trí,
Chẳng biết được chút phần.   O
Bồ-tát mới phát tâm,
Cúng dường vô số Phật,
Rõ thấu các nghĩa thú,
Lại hay khéo nói pháp,
Đông đầy mười phương cõi,
Như lúa, mè, tre, lau,
Một lòng dùng trí mầu,
Trải số kiếp hằng sa,
Thảy đều chung suy lường,
Chẳng biết được trí Phật.
Hàng Bất thối Bồ-tát,
Số đông như hằng sa,
Một lòng chung suy cầu,
Cũng lại chẳng hiểu được.   O
5. Xá-lợi-phất phải biết,
Lời Phật nói không khác,
Với Pháp của Phật nói,
Nên sanh sức tin chắc,
Pháp của Phật thâm sâu,
Cần phải nói chơn thật.
Bảo các hàng Thanh Văn,
Cùng người cầu Duyên Giác,
Ta khiến cho thoát khổ,
Đến chúng đặng Niết-bàn,
Phật dùng sức phương tiện,
Dạy cho ba thừa giáo,
Chúng sanh nơi nơi chấp,
Đều độ họ thoát khỏi. O

*

6.   Khi đó trong đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Thanh Văn lậu tận A-la-hán, như ngài A-nhã Kiều-trần-như v.v.. và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận sự nam cùng cận sự nữ, hạng người phát tâm Thanh Văn Duyên Giác, đều nghĩ rằng: “Hôm nay Đức Phật cớ chi lại ân cần ngợi khen phương tiện mà nói thế này: “Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh Văn cùng Duyên Giác không thể đến được.”   O

Đức Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến nơi Niết-bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó thế nào ?

7. Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất biết lòng nghi của bốn chúng, chính mình cũng chưa rõ, liền bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn ! Nhơn duyên gì mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương tiện thứ nhứt nhiệm mầu rất sâu khó hiểu của các Đức Phật ?     O

Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói đến điều đó, hôm nay bốn chúng thảy đều có lòng nghi. Cúi xin Đức Thế Tôn bày nói việc đó.

8. Khi đó Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: Thôi thôi ! Chẳng nên nói nữa. Nếu nói việc đó tất cả trong đời, các trời các người đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.”       O

9. Ngài Xá-lợi-phất lại bạch Phật rằng: “Cúi xin Thế Tôn tuyên thuyết. Vì trong hội đây có vô số muôn nghìn trăm ức a-tăng-kỳ chúng sanh đã từng gặp các đức Phật, các căn nhanh lẹ, trí tuệ sáng suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin.”     O

10. Đức Phật lại ngăn Xá-lợi-phất “Nếu nói việc đó thì tất cả trong đời, trời người, A-tu-la đều sẽ kinh nghi, Tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ phải sa vào hầm lớn.”

Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật rằng:      O

Đấng Vô thượng lưỡng túc,
Xin nói pháp đệ nhứt,
Con là trưởng tử Phật.
Xin thương phân biệt nói.
Vô lượng chúng hội đây,
Hay kính tin pháp này,
Đời đời Phật đã từng,
Giáo hóa chúng như thế,
Đều một lòng chắp tay,
Muốn nghe lãnh lời Phật.
Chúng con nghìn hai trăm,
Cùng hạng cầu Phật quả,
Nguyện Phật vì chúng con,
Tuyên thuyết phân biệt nói.
Chúng con nghe pháp ấy,
Thời sanh lòng vui mừng.     O

11.  Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất: Ông đã ân cần ba phen thưa thỉnh, đâu đặng chẳng nói. Nay ông và đại chúng lóng nghe và khéo suy nghĩ, Như Lai sẽ phân biệt, giải bày.”   O

12.  Khi Đức Phật nói lời hứa khả, trong hội có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cận sự nam, cận sự nữ, cả thảy năm nghìn người liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. Vì những người này gốc tội sâu nặng và tăng thượng mạn, chưa đặng mà nói đã đặng, chưa chứng mà cho đã chứng, có lỗi dường ấy cho nên không ở lại. Đức Thế Tôn yên lặng không ngăn cản.

*

13.  Bấy giờ, Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trong chúng ta đây không còn cành lá, chỉ toàn hột chắc. Này Xá-lợi-phất! Những người tăng thượng mạn như vậy lui về cũng là tốt. Nay ông và đại chúng nên khéo nghe, ta sẽ tuyên nói.”   O

Ngài Xá-lợi-phất bạch rằng: “Vâng thưa Thế Tôn, chúng con nguyện ưa muốn nghe.”

*

14.  Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Pháp mầu như thế, các Đức Phật Như Lai đến khi đúng thời mới nói, như bông linh thoại đến mùa mới hiện một lần. Này Xá-lợi-phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.   O

15.  Này Xá-lợi-phất! các Đức Phật theo thời nghi nói pháp, ý thú khó hiểu. Ta dùng vô số phương tiện, các món nhơn duyên, lời lẽ thí dụ, diễn nói các pháp.   O

Pháp đó không phải là suy lường, phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các Đức Phật mới biết được thôi. Vì các Đức Phật Thế Tôn chỉ do một nhơn duyên lớn mà hiện ra nơi đời. Đó là các Đức Thế Tôn vì muốn cho chúng sanh mở tri kiến Phật, để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng sanh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sanh chứng vào tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời. O

*

16.  Này Xá-lợi-phất, các Đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ-tát, những điều làm ra thường vì một việc: chỉ đem tri kiến Phật chỉ cho chúng sanh tỏ ngộ thôi.

Này Xá-lợi-phất! Đức Như Lai chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sanh nói pháp, không có hai thừa hay ba thừa nào khác. Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phương cũng như thế.  O

Này Xá-lợi-phất! Thuở quá khứ các Đức Phật dùng vô lượng, vô số phương tiện, các món nhơn duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp. Vì pháp đó đều là một Phật thừa nên các chúng sanh đó theo chư Phật nghe pháp rốt ráo đều chứng được “Nhứt thế chủng trí.”   O

Này Xá-lợi-phất! Thuở vị lai, các Đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, các món nhơn duyên, lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, chỉ vì giới thiệu một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo Phật nghe pháp rốt ráo đều chứng được “nhứt thế chủng trí.”  O

Này Xá-lợi-phất! Hiện tại nay, trong vô lượng muôn nghìn trăm ức cõi Phật ở mười phương, các Đức Phật Thế Tôn làm nhiều điều lợi ích an vui cho chúng sanh. Các Đức Phật đó cũng dùng vô lượng, vô số phương tiện các món nhơn duyên, lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp đó đều là một Phật thừa, các chúng sanh ấy theo Phật nghe Phật rốt ráo đều đặng chứng “nhứt thế chủng trí.”  O

Này Xá-lợi-phất! Các Đức Phật đó chỉ giáo hóa Bồ-tát, vì muốn mở cho chúng sanh tri kiến Phật, vì muốn trình bày cho chúng sanh tri kiến Phật, vì muốn giúp chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật, và vì muốn cho chúng sanh chứng được tri kiến Phật vậy.                                                                                           O

Này Xá-lợi-phất! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng sanh có những điều ưa muốn, thâm tâm mê chấp, ta tùy theo bổn tánh họ dùng các món nhơn duyên, lời lẽ, thí dụ cùng sức phương tiện mà nói pháp cho họ để họ chứng đặng một Phật thừa: “nhứt thế chủng trí.”  O

*

17.  Này Xá-lợi-phất! Trong cõi nước ở mười phương còn không có hai thừa, hà huống có ba !

Này Xá-lợi-phất! Các Đức Phật hiện ra trong các đời ác năm trược, nghĩa là: kiếp trược, phiền não trược, chúng sanh trược, kiến trược và mạng trược. Như thế, Xá-lợi-phất, lúc kiếp loạn trược chúng sanh nhơ nặng, bỏn sẻn, tham lam, ghét ganh, trọn nên các căn chẳng lành cho nên các Đức Phật dùng sức phương tiện, chỉ có một Phật thừa, phân biệt nói thành ba.   O

18. Này Xá-lợi-phất! Nếu đệ tử ta tự cho mình là A-la-hán cùng Duyên Giác mà không nghe không biết các việc của các Đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ-tát, thời phải biết rằng họ chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Duyên giác. O

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni đó tự cho mình đã đặng A-la-hán, là thân rốt sau rốt ráo Niết-bàn, rồi không quyết chí cầu đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, nên biết họ là những người tăng thượng mạn.

Này Xá-lợi-phất! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ trì lời Như Lai dạy. Lời các Đức Như Lai nói không hư vọng, vốn không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa thôi.

Nói xong, Đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng bài kệ rằng:  O

*

19.  Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Mang lòng tăng thượng mạn,
Cận sự nam ngã mạn, 
Cận sự nữ chẳng tin,
Hàng bốn chúng như thế,
Số kia có năm nghìn,
Chẳng tự thấy lỗi mình,
Nơi giới có thiếu sót,
Tiếc giữ tội, quấy mình,
Trí nhỏ đó đã ra.
Hàng cám tấm trong chúng,
Không cam nổi phải đi.
Họ thật kém phước đức,
Chẳng kham lãnh pháp này,
Chúng nay không cành lá,
Chỉ có những hột chắc.                                       O
20.  Xá-lợi-phất khéo nghe !
Pháp của các Phật đặng,
Vô lượng sức phương tiện,
Mà vì chúng sanh nói.
Tâm của chúng sanh nghĩ,
Các món đạo ra làm,
Bao nhiêu những tánh dục,
Nghiệp lành dữ đời trước,
Phật biết hết thế rồi,
Dùng các duyên thí dụ,
Lời lẽ sức phương tiện,
Khiến tất cả vui mừng. O
Hoặc là nói Khế Kinh,
Cô Khởi cùng Bổn Sự
Bổn Sanh, Vị Tằng Hữu
Cũng nói những Nhơn Duyên
Thí Dụ và Trùng Tụng,
Luận Nghị, thảy chín kinh.
Căn độn ưa pháp nhỏ,
Tham chấp nơi sanh tử,
Nơi vô lượng Đức Phật,
Chẳng tu đạo sâu mầu,
Bị các khổ não loạn,
Vì đó nói Niết-bàn.
Ta bày phương tiện đó,
Khiến đều vào huệ Phật.   O 
Chưa từng nói các ông,
Sẽ đặng thành Phật đạo.
Sỡ dĩ chưa từng nói,
Vì giờ nói chưa đến.
Nay chính là đến giờ,
Quyết định nói Đại thừa.   O
21. Chín bộ pháp của ta,
Thuận theo chúng sanh nói,
Vào Đại thừa làm gốc,
Nên mới nói kinh này.
Có Phật tử tâm tịnh,
Êm dịu cùng căn lợi,
Nơi vô lượng các Phật,
Mà tu đạo sâu mầu,
Vì hàng Phật tử này,
Nói kinh Đại thừa đây.
Ta ghi cho người đó,
Đời sau thành Phật đạo.     O
Bởi thâm tâm niệm Phật,
Tu trì tịnh giới vậy,
Hạng này nghe thành Phật,
Rất mừng đầy khắp mình,
Phật rõ tâm tánh họ,
Nên giảng nói đại thừa.
Thanh Văn hoặc Bồ-tát,
Nghe ta nói pháp ấy,
Nhẫn đến một bai kệ,
Đều thành Phật không nghi.   O
22. Trong cõi Phật mười phương,
Chỉ có một thừa pháp,
Không hai cũng không ba,
Trừ Phật phương tiện nói,
Chỉ dùng danh tự giả,
Dắt dẫn các chúng sanh ,
Vì nói trí huệ Phật.
Các Phật ra nơi đời,
Chỉ một việc này thiệt,
Hai thứ chẳng phải chơn.    O
Trọn chẳng đem tiểu thừa,
Mà tế độ chúng sanh,
Phật tử trụ đại thừa,
Như pháp của mình đặng,
Định, huệ, lực trang nghiêm,
Dùng đây độ chúng sanh.
Tự chứng đạo vô thượng,
Pháp bình đẳng đại thừa,
Nếu dùng tiểu thừa độ,
Nhẫn đến nơi một người ,
Thời ta đoạ xan tham,
Việc ấy tất không được.     O
Nếu người tin vào Phật,
Như Lai chẳng dối gạt,
Cũng không lòng tham ganh,
Dứt ác trong các pháp,
Nên Phật ở mười phương,
Mà riêng không chỗ sợ.
Ta dùng tướng trang nghiêm,
Ánh sáng soi trong đời,
Đấng Thế Tôn vô lượng,
Vì nói thiệt tướng ấn.     O
23.   Xá-lợi-phất nên biết !
Ta vốn lập thệ nguyện
Muốn cho tất cả chúng,
Bằng như ta không khác.
Như ta xưa đã nguyện,
Nay đã đầy đủ rồi.
Độ tất cả chúng sanh ,
Đều khiến vào Phật đạo.
Nếu ra gặp chúng sanh,
Dùng Phật đạo dạy cả,
Kẻ vô trí rối sai,
Mê lầm không nhận lời.  O
Ta rõ chúng sanh đó,
Chưa từng tu cội lành,
Chấp chặt nơi ngũ dục,
Vì si ái sanh khổ.
Bởi nhơn duyên ác dục,
Sa vào ba đường dữ,
Xoay lăn trong sáu nẻo,
Chịu đủ những khổ độc,
Thân mọn thọ bào thai,
Đời đời tăng trưởng luôn.
Người đức mỏng ít phước,
Các sự khổ bức ngặt,
Vào rừng rậm tà kiến,
Hoặc chấp có chấp không,
Nương gá các chấp này,
Đầy đủ sáu mươi hai,
Chấp chặt pháp hư vọng,
Bảo thủ không bỏ đặng.
Ngã mạn tự khoe cao,
Dua nịnh lòng không thiệt,
Trong nghìn muôn ức kiếp,
Chẳng nghe danh tự Phật.
Cũng chẳng nghe chánh pháp,
Người như thế khó độ.     O
24. Cho nên Xá-lợi-phất !
Ta vì bày phương tiện,
Nói các đạo dứt khổ,
Chỉ cho đó Niết-bàn.
Ta dầu nói Niết-bàn,
Cũng chẳng phải thiệt diệt,
Các pháp từ xưa nay,
Tướng thường tự vắng lặng,
Phật tử hành đạo rồi,
Đời sau đặng thành Phật.
Ta có sức phương tiện,
Mở bày khắp ba thừa.  O
Tất cả các Thế Tôn,
Dầu nói đạo nhứt thừa,
Nay trong đại chúng này,
Đều nên trừ nghi lầm,
Lời Phật nói không khác,
Chỉ một, không hai thừa.   O
25. Vô số kiếp đã qua,
Vô lượng Phật diệt độ,
Trăm nghìn muôn ức Phật,
Số nhiều không lường được.
Các Thế Tôn như thế,
Các món duyên thí dụ,
Vô số ức phương tiện,
Diễn nói các pháp tướng.
Các Đức Thế Tôn đó,
Đều nói pháp nhứt thừa,
Độ vô lượng chúng sanh ,
Khiến vào nơi Phật đạo.
Lại các đại thánh chúa,
Biết tất cả thế gian,
Trời người loài chúng sanh ,
Thâm tâm chỗ ưa muốn,
Bèn dùng phương tiện khác,
Giúp bày nghĩa đệ nhứt.       O
26. Nếu có loài chúng sanh ,
Gặp các Phật quá khứ,
Hoặc nghe pháp bố thí,
Hoặc trì giới, nhẫn nhục,
Tinh tấn, thiền, trí thảy,
Các món tu phước huệ,
Những người như thế đó,
Đều trọn thành Phật đạo.
Sau các Phật diệt độ,
Nếu người lòng lành dịu,
Các chúng sanh như thế,
Đều trọn thành Phật đạo.    O
27. Các đức Phật độ rồi,
Người cúng dường Xá-lợi,
Dựng muôn ức thứ tháp,
Vàng, bạc và pha lê,
Xà cừ cùng mã não,
Ngọc mai khôi, lưu ly,
Thanh tịnh rộng nghiêm sức,
Trau dồi nơi các tháp,
Hoặc có dựng miếu đá,
Chiên đàn và trầm thủy,
Gỗ mật cùng gỗ khác,
Gạch ngói bùn đất thảy,
Hoặc ở trong đồng trống,
Chứa đất thành miễu Phật,
Nhẫn đến đồng tử giỡn,
Nhóm cát thành tháp Phật,
Những hạng người như thế,
Đều trọn thành Phật đạo.     O
28. Nếu như người vì Phật,
Xây dựng các hình tượng,
Chạm trổ thành các tướng,
Đều trọn thành Phật đạo.
Hoặc dùng bảy báu làm,
Thau đồng bạch, đồng đỏ,
Chất nhôm cùng chì kẽm,
Sắt gỗ cùng với bùn,
Hoặc dùng keo, sơn, vải,
Nghiêm sức làm tượng Phật,
Những người như thế đó,
Đều trọn thành Phật đạo.
Vẽ vời làm tượng Phật,
Trăm tướng phước trang nghiêm,
Tự làm hoặc bảo người ,
Đều trọn thành Phật đạo.    O
Nhẫn đến đồng tử giỡn,
Hoặc cỏ cây và bút,
Hoặc lấy móng tay mình,
Mà vẽ làm tượng Phật,
Những hạng người như thế,
Lần lần chứa công đức,
Đầy đủ tâm đại bi,
Đều trọn thành Phật đạo.
Chỉ dạy các Bồ-tát ,
Độ thoát vô lượng chúng.   O
29. Nếu người nơi tháp miếu,
Tượng báu và tượng vẽ,
Dùng hoa hương, phan, lọng,
Lòng kính mà cúng dường,
Hoặc khiến người trổi nhạc,
Đánh trống, thổi sừng ốc,
Tiêu địch, cầm không hầu,
Tỳ-bà, chụp chả đồng,
Các tiếng hay như thế,
Đem dùng cúng dường hết,
Hoặc người lòng vui mừng,
Ca ngâm khen đức Phật,
Nhẫn đến một tiếng nhỏ,
Đều trọn thành Phật đạo.   O
30. Nếu người lòng tán loạn,
Nhẫn đến dùng một bông,
Cúng dường  nơi tượng vẽ,
Lần thấy các đức Phật,
Hoặc có người lễ lạy,
Hoặc lạy chỉ chắp tay,
Nhẫn đến giơ một tay,
Hoặc lạy hơi cúi đầu,
Dùng đây cúng dường tượng,
Lần ấy vô lượng Phật,
Từ thành đạo vô thượng,
Rộng độ chúng vô số,
Vào vô dư Niết-bàn,
Như củi hết lửa tắt.       O
Nếu người lòng tán loạn,
Vào nơi trong tháp miếu,
Một xưng nam-mô Phật,
Đều trọn thành Phật đạo.                                  
Nơi các Phật quá khứ,
Tại thế hoặc diệt độ,
Có người nghe pháp này,
Đều trọn thành Phật đạo.   O
31. Các Phật vốn thệ nguyện,
Ta tu hành Phật đạo,
Khắp muốn cho chúng sanh,
Cũng đồng đẳng đạo này.
Các Phật đời vị lai,
Dầu nói trăm nghìn ức,
Vô số các pháp môn,
Kỳ thiệt vì nhứt thừa.
Các Phật Lưỡng Túc Tôn,
Biết pháp thường không tánh,
Giống Phật theo duyên sanh,
Cho nên nói nhứt thừa.
Pháp đó trụ ngôi pháp,
Tướng thế gian thường còn,
Nơi đạo tràng biết rồi,
Đức Phật phương tiện nói.
Hiện tại mười phương Phật,
Của trời người cúng dường,
Số nhiều như hằng sa,
Hiện ra nơi thế gian,
Vì an ổn chúng sanh ,
Cũng nói pháp như thế.     O
Biết vắng bặt thứ nhứt,
Bởi dùng sức phương tiện,
Dầu bày các món đạo,
Kỳ thiệt vì Phật thừa.
Biết các hạng chúng sanh ,
Thâm tâm luôn nghĩ nhớ,
Nghiệp quen từ quá khứ.
Tánh dục, sức tinh tấn,
Và các căn lợi độn,
Dùng các món nhơn duyên,
Thí dụ cùng lời lẽ,
Tuỳ cơ, phương tiện nói.     O
32.  Ta nay cũng như vậy,
Vì an ổn chúng sanh ,
Dùng các món Pháp môn,
Rao bày nơi Phật đạo,
Ta dùng sức trí huệ,
Rõ tánh dục chúng sanh ,
Phương tiện nói các pháp,
Đều khiến đặng vui mừng.      O
Xá-lợi-phất nên biết !
Ta dùng mắt Phật xem,
Thấy sáu đường chúng sanh,
Nghèo cùng không phước huệ,
Vào đường hiểm sanh tử,
Khổ nối luôn không dứt.
Sâu thâm nơi ngũ dục,
Như trâu “mao” mến đuôi,
Do tham  ái tự che,
Đui mù không thấy biết,
Chẳng cầu Phật thế lớn,
Cùng pháp dứt sự khổ.
Sâu vào các tà kiến,
Lấy khổ muốn bỏ khổ,
Phật vì chúng sanh này,
Mà sanh lòng đại bi.     O
33. Xưa, ta ngồi đạo tràng,
Xem cây cùng kinh hành,
Trong hai mươi mốt ngày,
Suy nghĩ việc như vầy:
Trí huệ của ta đặng,
Vi diệu rất thứ nhứt,
Chúng sanh các căn chậm,
Tham vui si và mù,
Các hạng người như thế,
Làm sao mà độ đặng?        O
Bấy giờ các Phạm Vương,
Cùng các trời Đế -thích,
Bốn Thiên Vương hộ đời,
Và các Đại Tự Tại,
Cùng các thiên chúng khác ,
Trăm nghìn ức quyến thuộc,
Chấp tay cung kính lễ,
Thỉnh Ta chuyển pháp luân.
Ta liền tự suy nghĩ,
Nếu chỉ khen Phật thừa,
Chúng sanh chìm nơi khổ,
Không thể tin pháp đó.
Do phá pháp không tin,
Rớt trong ba đường dữ.
Ta thà không nói pháp,
Mau vào cõi Niết-bàn.
Liền nhớ Phật quá khứ,
Thực hành sức phương tiện,
Ta nay chứng đặng đạo,
Cũng nên nói ba thừa.      O
34.  Lúc ta nghĩ thế đó,
Mười phương Phật đều hiện,
Tiếng phạm an ủi ta,
Hay thay ! Đức Thích-ca,
Bực Đạo Sư số một,
Đặng pháp vô thượng ấy,
Tùy theo tất cả Phật,
Mà dùng sức phương tiện.
Chúng ta cũng đều đặng,
Pháp tối diệu thứ nhứt,
Vì các loại chúng sanh,
Phân biệt nói ba thừa.
Trí kém ưa pháp nhỏ,
Chẳng tự tin thành Phật,
Cho nên dùng phương tiện,
Phân biệt nói các quả,
Dầu lại nói ba thừa,
Chỉ vì dạy Bồ-tát.     O
35.  Xá-lợi-phất nên biết !
Ta nghe các Đức Phật,
Tiếng nhiệm mầu rất sạch,
Xưng: “Nam-mô chư Phật” !
Ta lại nghĩ thế này,
Ta ra đời trược ác,
Như các Phật đã nói,
Ta cũng thuận làm theo,
Suy nghĩ việc đó rồi,
Liền đến Ba-la-nại.
Các pháp tướng tịch diệt,
Không thể dùng lời bày,
Bèn dùng sức phương tiện,
Vì năm Tỳ-kheo nói.
Đó gọi "Chuyển pháp luân",
Bèn có tiếng Niết-bàn,
Cùng với A-la-hán,
Tên Pháp, Tăng sai khác.   O
Từ kiếp xa nhẫn lại,
Khen bày pháp Niết-bàn,
Dứt hẳn khổ sống chết,
Ta thường nói như thế.    O
36.  Xá-lợi-phất phải biết !
Ta thấy các Phật tử,
Chí quyết cầu Phật đạo,
Vô lượng nghìn muôn ức,
Đều dùng lòng cung kính,
Đồng đi đến chỗ Phật,
Từng đã theo các Phật,
Nghe nói pháp phương tiện,
Ta liền nghĩ thế này:
Sở dĩ Phật ra đời,
Để vì nói Phật huệ,
Nay chính đã đúng giờ. O
37.  Xá-lợi-phất phải biết !
Người căn chậm trí nhỏ,
Kẻ chấp tướng kiêu mạn,
Chẳng thể tin pháp này.
Nay ta vui vô úy,
Ở trong hàng Bồ-tát ,
Chính bỏ ngay phương tiện,
Chỉ nói đạo vô thượng.
Bồ-tát nghe pháp đó,
Đều đã trừ lưới nghi,
Nghìn hai trăm La-hán,
Cũng đều sẽ thành Phật.
Như nghi thức nói pháp,
Của các Phật ba đời,
Ta nay cũng như vậy,
Nói pháp không phân biệt.
Các Đức Phật ra đời,
Lâu xa khó gặp gỡ,
Nói pháp này khó hơn.
Vô lượng vô số kiếp,
Nghe pháp này cũng khó,
Hay nghe được pháp này,
Người đó cũng lại khó.
Thí như hoa Linh Thoại,
Tất cả đều ưa mến,
Ít có trong trời, người ,
Lâu lâu một lần trổ.      O
38. Người nghe pháp mừng khen,
Nhẫn đến nói một lời,
Thời là đã cúng dường,
Tất cả Phật ba đời,
Người đó rất ít có,
Hơn cả hoa Ưu-đàm.
Các ông chớ có nghi,
Ta là vua các pháp.
Khắp bảo các đại chúng,
Chỉ dùng đạo nhứt thừa.
Dạy bảo các Bồ-tát ,
Không Thanh Văn đệ tử.     O
39.  Xá-lợi-phất các ông !
Thanh Văn và Bồ-tát,
Phải biết pháp mầu này,
Bí yếu của các Phật.
Bởi đời ác năm trược,
Chỉ tham ưa các dục,
Những chúng sanh như thế,
Trọn không thể cầu đạo. 
Người ác đời sẽ tới,
Nghe Phật nói nhứt thừa,
Mê lầm không tin nhận,
Phá pháp, đọa đường dữ.
Người tàm quý trong sạch,
Quyết chí cầu Phật đạo,
Nên vì những người ấy.
Rộng khen đạo nhứt thừa.    O
Xá-lợi-phất nên biết !
Pháp các Phật như thế.
Dùng muôn ức phương tiện.
Tuỳ thời nghi nói pháp.
Người chẳng học tập tu.
Không hiểu đặng pháp này.
Các ông đã biết rõ.
Phật là thầy trong đời.
Việc phương tiện tùy nghi.
Không còn lại nghi lầm.
Lòng sanh rất vui mừng.
Tự biết sẽ thành Phật.   O

Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. (3 lần, xá 3 xá) OOO

~~oOo~~
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 |  22 | 23 | 24 | 25
26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42 | 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49

 


Vào mạng: 22-3-2002

Trở về mục "Nghi thức Phật giáo"

Đầu trang