Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
KINH TỤNG HẰNG NGÀY
TỔNG HỢP 49 KINH CĂN BẢN CỦA HAI TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO
NAM TÔNG VÀ BẮC TÔNG

KINH HẠNH BỒ-TÁT
Thứ bốn mươi

 

Lúc bấy giờ, tôn giả Tu-bồ-đề thưa Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là hạnh Bồ-tát?”  O

Đức Phật dạy: “Nầy Tu-bồ-đề! Hạnh Bồ-tát là vì Vô Thượng Bồ-đề mà thực hành.”

Nếu đại Bồ-tát thực hành quán chiếu “sắc” là không, “thọ-tưởng-hành-thức” là không, sáu giác quan, sáu đối tượng giác quan đều không, thực hành sáu Ba-la-mật, thực hành nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhứt nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tánh không, các pháp không, tự tướng không, vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không, thực hành bốn thiền sắc giới, thực hành từ bi hỷ xả, thực hành bốn thiền vô sắc giới, thực hành bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy yếu tố giác ngộ, thực hành tam-muội “không, vô tướng và vô tác,” thực hành tám giải thoát, thực hành chín thiền định, thực hành mười lực, bốn không sợ sệt, bốn trí vô ngại, mười tám đặc tính của Phật, thực hành tâm đại từ đại bi, thực hành hạnh trang nghiêm cõi Phật, thực hành hạnh thành tựu chúng sanh, thực hành các thứ biện tài, văn tự, không văn tự, các môn Đà-la-ni, tánh hữu vi, tánh vô vi, thực hành tất cả chỉ vì đạt được Vô Thượng Bồ-đề mà thôi, không vì một mục tiêu nào khác.  O

Như vậy, nầy Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát hành Bát-nhã Ba-la-mật gọi là Vô Thượng Bồ-đề hạnh, đây là Bồ-tát hạnh.

 - Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Phật?

 - Nầy Tu-bồ-đề! Biết thật nghĩa của các pháp nên gọi là Phật. Được thật tướng của các pháp nên gọi là Phật. Thông đạt thật nghĩa nên gọi là Phật. Biết tất cả  các pháp đúng như thật nên gọi là Phật.       O

 -Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là ý nghĩa của Bồ-đề?

 - Nầy Tu-bồ-đề! Nghĩa “không” là nghĩa Bồ-đề. Nghĩa như, nghĩa pháp tánh là nghĩa Bồ-đề. Danh tướng ngôn thuyết là nghĩa Bồ-đề.

Nầy Tu-bồ-đề! Thật nghĩa của Bồ-đề chẳng hoại được, chẳng phân biệt được. Thật tướng của các pháp chẳng hư dối, chẳng dị biệt là nghĩa Bồ-đề. Bồ-đề đó là sở hữu của các Đức Phật. Lại nầy Tu-bồ-đề! Các Đức Phật Chánh Biến Tri nên gọi là Bồ-đề.  O

- Bạch Đức Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát vì Bồ-đề đó mà thực hành sáu Ba-la-mật cho đến nhứt thiết chủng trí, đối với các pháp, gọi là đắc, là thất, là tăng, là giảm, là sanh, là diệt, là cấu, là tịnh ?

- Nầy Tu-bồ-đề! Nếu đại Bồ-tát vì Bồ-đề mà thực hành sáu Ba-la-mật cho đến hành nhứt thiết chủng trí, đối với các pháp không được, không mất, không thêm, không bớt, không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch.   O

Tại sao vậy? Vì đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật chẳng vì được mất, thêm bớt,                  sanh diệt, nhơ sạch mà phát tâm tu hành nên đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật mà vẫn có thể dung thông và bao trùm được bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn và thiền định Ba-la-mật, bao trùm được từ nội không đến vô pháp hữu pháp không, bao trùm bốn thiền sắc giới, bốn tâm vô lượng, bốn thiền vô sắc, ba mươi bảy yếu tố giác ngộ, ba cửa giải thoát, mười lực, bốn không sợ sệt, tứ trí vô ngại, mười tám đặc tính Phật, đại từ đại bi, mười địa của Bồ-tát, vượt hơn bực Thanh Văn, bực Bích-chi Phật, và an trụ trong cảnh giới Bồ-tát.  O

Nầy Tu Bồ đế ! Lúc thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, đại Bồ-tát vì chẳng lấy hai pháp mà hành sáu Ba-la-mật nhẫn đến vì chẳng lấy hai pháp mà thực hành nhứt thiết chủng trí.

- Bạch Đức Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát vì chẳng lấy hai pháp mà thực hành sáu Ba-la-mật, nhẫn đến vì chẳng lấy hai pháp mà thực hành nhứt thiết chủng trí thì Bồ-tát từ lúc mới phát tâm đến tối hậu tâm làm sao có thể làm lớn mạnh gốc lành ?

- Nầy Tu-bồ-đề! Nếu lấy hai pháp mà hành thì căn lành chẳng lớn thêm được. Tại sao? Vì tất cả phàm phu đều nương hai pháp mà chẳng lớn thêm được căn lành. Đại Bồ-tát chẳng lấy hai pháp mà hành nên từ sơ tâm đến hậu tâm, căn lành nhờ vậy được tăng trưởng. Vì thế nên tất cả thế gian, Trời, Người, A-tu-la đều không thể phục, không thể hoại được căn lành của đại Bồ-tát, để làm cho sa vào các pháp bất thiện, đều không thể cản trở được đại Bồ-tát trên con đường thực hành sáu Ba-la-mật.

Nầy Tu-bồ-đề! đại Bồ-tát phải như vậy mà hành Bát-nhã Ba-la-mật.   O

- Bạch Đức Thế Tôn! Có phải đại Bồ-tát vì căn lành mà thực hành Bát-nhã Ba-la-mật?

-Này Tu-bồ-đề! Không phải vì căn lành cũng chẳng phải chẳng vì căn lành và cũng chẳng phải vì chẳng phải căn lành mà đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật. Nầy Tu-bồ-đề! Theo pháp đại Bồ-tát, chưa cúng dường pháp đến các Đức Phật thì chưa đầy đủ căn lành, chưa được chơn thiện tri thức thì chẳng có thể được nhứt thiết chủng trí.   O

- Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ-tát cúng dường pháp đến các Đức Phật, đầy đủ căn lành, được chơn thiện tri thức có thể được nhứt thiết chủng trí ?         

-Nầy Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm   cho đến lúc đạt được giác ngộ vô thượng, phải luôn học tập, thọ trì và truyền bá chánh pháp, thể hiện qua mười hai thể loại kinh được các Đức Phật tuyên nói. Vì thấu rõ nên được Đà-la-ni. Vì được Đà-la-ni nên phát khởi trí tuệ vô ngại. Vì phát khởi trí tuệ vô ngại nên dù sanh về đâu, cho đến khi được nhứt thiết trí trọn chẳng quên mất. Đại Bồ-tát cũng ở chỗ chư Phật trồng căn                  lành. Do gốc lành đó hộ trì mà vị Bồ-tát không thể sa vào ác đạo và các chướng nạn. Do nhờ căn lành đó mà thâm tâm của bồ-tát được thanh tịnh. Vì thâm tâm  được thanh tịnh nên có thể làm thanh tịnh cõi Phật, thành tựu việc giáo hoá các chúng sanh. Nhờ thiện căn đó gia hộ nên Bồ-tát không một tích tắt xa rời thiện tri thức, đó là chư Phật, chư đại Bồ-tát và chư Thanh Văn hay tán thán Phật, Pháp, Tăng.  O

Như vậy, nầy Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát phải cúng dường pháp đến các Đức Phật, trồng căn lành, gần gũi chơn thiện tri thức.”

Sau khi nghe Đức Phật dạy về Hạnh Bồ-tát  tất cả đại chúng đều vui mừng khôn xiết, phát nguyện thực hành theo.   O

Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. (3 lần, xá 3 xá) OOO

~~oOo~~
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 |  22 | 23 | 24 | 25
26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42 | 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49

 


Vào mạng: 22-3-2002

Trở về mục "Nghi thức Phật giáo"

Đầu trang