Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
KINH TỤNG HẰNG NGÀY
TỔNG HỢP 49 KINH CĂN BẢN CỦA HAI TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO
NAM TÔNG VÀ BẮC TÔNG

KINH CÁC PHÁP TU VIÊN THÔNG
Thứ bốn mươi sáu
 

 

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo khắp các đại Bồ-tát và hàng A-la-hán đã dứt hết lậu hoặc rằng: Các ông là Bồ-tát và A-la-hán sanh trong Phật Pháp đã chứng quả vô học. Nay Như Lai hỏi các ông: Lúc mới phát tâm, trong mười tám giới, các ông tâm đắc ở giới nào ? Do nhân duyên gì ? Nhờ phương tiện nào mà các ông được Tam-ma-đề viên thông tâm tánh ?    O

 

1. DO THANH TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Lúc đó, Tỳ-kheo Kiều-trần-như từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chắp tay thưa:

- Bạch Đức Thế Tôn ! Sau khi Như Lai thành đạo ở Lộc Uyển, chúng con gặp Phật trước tiên. Chúng con được Phật khai thị cho về pháp Tứ Diệu Đế. Do nghe tiếng Pháp của Phật mà con tỏ ngộ. Lúc đó Đức Thế Tôn hỏi con: Có hiểu không, con thưa là đã hiểu. Nhơn đó Thế Tôn đặt cho con cái tên là A-nhã, ấn chứng chúng con là những người A-la-hán. Nay Phật hỏi viên thông, đối với con thanh trần là mầu nhiệm nhất.     O

 

2. DO SẮC TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Ưu-ba Ni-sa-đà đứng dậy chắp tay cung kính thưa:

- Bạch Đức Thế Tôn ! Con cũng được gặp Phật sau những ngày Như Lai thành đạo không lâu. Trông vào tướng hảo quang minh của Thế Tôn  con quán sâu vào tướng bất tịnh của sắc thân ô trược. Từ cái tử thi bắt đầu trương sình, đến tướng bạch cốt, vi trần, con sanh lòng nhàm chán tột bậc, chợt tỏ ngộ tánh: sắc, không, không sắc đều chẳng ra gì. Như Lai ấn chứng cho con cái tên là Ni-sa-đà, con được A-la-hán quả. Nay Phật hỏi duyên cớ được viên thông, xin thưa: Đối với con sắc trần là ưu việt nhất.   O

 

3. DO HƯƠNG TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Đồng Tử Hương Nghiêm đứng dậy cung kính chắp tay thưa:

- Bạch Đức Thế Tôn ! Trước đây Như Lai dạy con quán sát kỹ về các pháp tướng hữu vi. Một hôm con tĩnh tọa trong giảng đường các tỳ-kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương thoang thoảng trong tĩnh mịch u nhàn, tác dụng đến mũi con. Con tư duy quán xét: Hương này không phải do gỗ, không phải do hư không, không phải do khói, không phải do lửa. Đi ra không dính vào đâu. Đến đâu không chỗ dừng trụ. Quán chiếu như vậy, ý thức phân biệt của con tự khắc tiêu vong. Trí vô lậu phát sanh, Như Lai ấn chứng cho con danh hiệu là Hương Nghiêm. Vì do con thể nghiệm mùi hương mà chứng được A-la-hán quả. Nay Phật hỏi phương tiện được viên thông, xin thưa: Với con, hương trần là tối thắng nhất.       O

 

4. DO VỊ TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Hai vị Bồ-tát Dược Vương, Dược Thượng, cùng năm trăm Phạm thiên trong hội chúng đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn ! Từ vô lượng kiếp, chúng con là lương y cứu tế thế nhân. Miệng chúng con thường nếm những lá hoa cây cỏ kim thạch trong cõi Ta-bà này. Tất cả những vị: mặn, lạt, chua, cay, ngọt, đắng… vị biến đổi sanh, vị hòa hợp có; vị nào lạnh vị nào nóng thứ có độc, thứ không con đều biết cả. Được phục vụ các đức Phật và tất cả chúng sanh, rõ biết tánh chất của vị trần: Không phải không, không phải có, không phải tức thân tâm, không phải ly thân tâm. Nhờ con phân biệt vị trần mà được khai ngộ. Phật ấn chứng cho chúng con danh hiệu là Dược Vương và Dược Thượng. Nay Phật hỏi nhân duyên và phương tiện được viên thông, xin thưa: Đối với chúng con vị trần là ưu việt nhất.    O

 

5. DO XÚC TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Bạt-đà-bà-la cùng với mười sáu vị tăng sĩ đồng là đạo bạn cùng đứng dậy cung kính chắp tay thưa:

- Bạch Đức Thế Tôn ! Chúng con trước kia ở thời Phật Oai Âm Vương, nghe pháp xuất gia. Lúc chư Tăng tắm, con theo thứ lớp vào nhà tắm để tắm. Bỗng nhiên con tư duy và nhận thức rằng: Nước vốn không rửa bụi và cũng chẳng rửa chân, trung gian an nhiên lặng lẽ. Con tâm đắc tột độ cái chân lý: "Chẳng có gì". Tập quán trước không quên, đến nay con theo Phật xuất gia được quả vô học. Đức Phật thuở ấy gọi con với cái tên: Bạt-đà-la (thiên thủ). Do con phát hiện tánh mầu nhiệm của xúc trần mà thành Phật tử. Nay Phật hỏi duyên cớ được viên thông, xin thưa: Đối với con xúc trần là hơn tất cả.   O

 

6. DO PHÁP TRẦN ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Đại Ca-diếp và Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang v.v… đồng đứng dậy cung kính chắp tay thưa:

- Bạch Đức Thế Tôn ! Kiếp xa xưa trong cõi này có Phật ra đời hiệu Nhật Nguyệt Đăng. Sau khi Phật diệt độ chúng con thắp sáng ngọn đèn chánh pháp để cúng dường; đem tâm trong sáng vàng thắm thếp tô Phật tượng. Do đó đời đời kiếp kiếp thân thường viên mãn, rực rỡ như vàng ròng. Chúng con quán sát sáu trần luôn luôn biến hoại. Con trụ tâm trong vắng lặng, nhập định diệt tận, thân tâm rỗng rang, thời gian trăm nghìn kiếp tựa hồ như trong cái khảy móng tay. Do thành tựu pháp không quán mà con được quả A-la-hán. Thế Tôn ấn chứng con là: Đầu-đà đệ nhất; pháp trần thâm diệu nhờ tuệ nhãn con được khai minh, lậu hoặc được dứt trừ. Nay Phật hỏi duyên cớ viên thông, với sở ngộ chứng của con thì pháp trần là tối thượng.     O

 

7. DO NHÃN CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả A-na-luật-đà đứng dậy cung kính chắp tay thưa:

- Bạch Đức Thế Tôn ! Lúc con mới xuất gia thường ưa thích nằm và ngủ li bì. Như Lai quở con là loại súc sanh. Nghe lời quở của Phật, con thầm khóc, tủi hổ và tự trách mình. Con cương quyết thề không ngủ và con thức suốt bảy ngày đêm. Hai con mắt con bệnh và hư mất. Thế Tôn thương dạy cho con pháp: Lạc Kiến Chiếu Minh Kim Cang Tam-muội. Sau khi được tam muội, con thấy suốt hiện tượng trong mười phương như trái chanh, trái quít để trên bàn tay. Như Lai ấn chứng cho con quả A-la-hán. Nay Phật hỏi nguyên nhơn nào được viên thông, xin thưa: Theo chỗ tâm đắc của con là xoay tánh thấy của nhãn căn trở về bản thể thanh tịnh bản nhiên là ưu việt nhất.   O

 

8. DO TỶ CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Châu-lợi-bàn-đặc đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật rằng:

Bạch đức Thế Tôn, con vì thiếu trì tụng kinh điển nên không có tuệ đa văn. Khi mới gặp Phật, con xin xuất gia nghe học pháp Phật con cố nhớ một bài kệ của Như Lai mà không sao nhớ nổi. Con gắng học suốt cả một trăm ngày, nhớ câu trước thì quên câu sau; nhớ câu sau lại quên câu trước. Phật thương con ngu muội, dạy con ở một nơi yên tĩnh tu tập pháp môn điều hòa hơi thở ra vào. Bấy giờ con vận dụng quán trí theo dõi từng hơi thở, từ thô đến vi tế, từng sát na nhiếp ý, vận dụng tư duy, chia hơi thở thành bốn thời kỳ: Hít vô gọi là sanh. Đầy hơi gọi là trụ. Thở ra gọi là dị. Mãn hơi gọi là diệt. Thực hiện một thời gian, tâm con bừng sáng rỗng rang được đại vô ngại, các lậu hoặc dứt hết, thành A-la-hán. Trước pháp tòa, Phật ấn chứng cho con thành quả vô học. Nay Phật hỏi viên thông, theo chỗ sở hành của con: Tập trung tư tưởng xoay vào quán hơi thở ra vào minh bạch, là pháp hành hiệu quả nhất.    O

 

9. DO THIỆT CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Kiều-phạm-ba-đề đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Rằng con mắc khẩu nghiệp trong kiếp quá khứ, nhiều đời phải tật nhơi mãi như trâu. Như Lai thương, dạy cho con pháp: Nhất vị thanh tịnh tâm địa. Nhờ đó con diệt phân biệt, được Tam-ma-đề. Con quán chiếu rằng: Tánh biết vị không phải do thân thể, cũng không phải do ở ngoại vật. Do đó, trong thì thân tâm giải thoát; ngoài thì như rời bỏ thế gian. Viễn ly ba cõi như chim sổ lồng; cấu nhiễm không còn, tiêu vong hóa trần tướng, pháp nhãn thanh tịnh, được quả A-la-hán. Như Lai ấn chứng cho con lên hàng Vô học. Nay Phật hỏi phương tiện được viên thông, xin thưa: Theo con thì: trả vị về cho phân biệt của thiệt căn là ưu việt nhất.   O

 

10. DO THÂN CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Tất-lăng-già-bà-ta đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật rằng: Lúc con mới phát tâm xuất gia theo Phật, thường nghe Phật dạy: "Cuộc đời chẳng có gì vui". Đang khi đi khất thực, vừa đi vừa tư duy lời Phật, bỗng dưng con đạp phải cái gai độc. Cả thân đều đau đớn. Trong lúc đau đớn, con quán chiếu tư duy: Giác tâm thanh tịnh vốn không có cái đau và cái biết đau ! Một thân thể lẽ đâu lại có hai tánh biết ! Nhiếp niệm không bao lâu thân tâm bỗng nhiên rỗng rang thanh tịnh. Hai mươi mốt ngày sau, các lậu hoặc được tiêu trừ, Phật ấn chứng cho con lên hàng Vô học chứng A-la-hán quả. Nay Phật hỏi duyên cớ nào được viên thông, xin thưa, đối với con: Nắm giữ giác tánh xem nhẹ thân căn là thành công dễ nhất.      O

 

11. DO Ý CĂN ĐƯỢC VIÊN THÔNG

 Tôn giả Tu-bồ-đề đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật rằng: Từ nhiều kiếp đến nay, con vẫn được tâm vô ngại thường trú nơi không tịch. Sự vật hiện tượng trong mười phương đối với con trở thành "chân không hóa" chẳng chút vương víu buộc ràng. Như Lai phát minh tánh giác là chân không; con tư duy thể nhập: Bảo minh không hải tam muội, tri kiến đồng như Phật. Con được Phật ấn chứng lên hàng vô học A-la-hán. Nay Phật hỏi nhơn duyên được viên thông, theo chỗ chứng ngộ của con: Quán các tướng đều là phi tướng. Cái phi tướng đối tượng cũng không lưu lại. Nhìn hiện tượng vạn pháp đúng như thật của nó: "Có mà thật chẳng có gì", đối với con, đó là phương tiện chinh phục ý căn hữu hiệu nhất.     O

 

12. DO NHÃN THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Xá-lợi-phất đứng dậy cung kính chắp tay thưa: Bạch Đức Thế Tôn ! Từ nhiều kiếp đến nay, sự nhận thức của con thường thanh tịnh. Số kiếp thọ sanh lên xuống nhiều như số cát sông Hằng. Do vậy mà các pháp biến hóa thế gian, xuất thế gian một khi thấy là con nhận thức không xa chân lý, được vô chướng ngại. Trong lần gặp gỡ giữa đường, ba anh em tôn giả Ca-diếp dụng ý theo con để thuyết pháp. Các ông nói cho con nghe về giáo lý nhân duyên sâu xa của Phật. Nhân buổi đàm đạo đó, con được tỏ ngộ; nhận thức được rằng: "Tâm không ngằn mé". Rồi con theo Phật xuất gia. Trí tuệ sáng suốt ngày càng viên mãn, được đại vô úy, thành A-la-hán quả, trưởng tử Phật. Nay Phật hỏi nguyên nhân tỏ ngộ viên thông, xin thưa: Theo chỗ chứng đắc của con thì sự nhận thấy rõ ràng, nhận thức đánh giá chính xác đúng như thực của sự vật hiện tượng là thành công ưu việt nhất.       O

 

13. DO NHĨ THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Bồ-tát Phổ Hiền đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Rằng con đã từng làm Pháp vương tử cho các Như Lai nhiều như số cát sông Hằng. Mười phương Như Lai dạy các đệ tử Bồ-tát tu hạnh Phổ Hiền chính là do dựa theo đức tinh tấn của con mà đặt ra cái tên Phổ Hiền Hạnh.

Bạch Đức Thế Tôn ! Con sử dụng tánh nghe của tâm mà nhận biết nguyện vọng của chúng sanh. Do vậy, giả sử ở một phương khác, cách ngoài hằng sa thế giới, có chúng sanh phát phát tâm tu hạnh Phổ Hiền thì liền trong lúc ấy, con cỡi voi sáu ngà, phân thân trăm nghìn đến chỗ người ấy. Giả sử người kia nghiệp chướng sâu dày chưa thấy được con, con cũng thầm kín xoa đầu an ủi ủng hộ khiến cho sở nguyện thành tựu. Nay Phật hỏi nguyên nhân tu chứng viên thông, con xin thưa: Sử dụng tánh nghe của nội tâm mà nhận biết tự tại, đối với con là pháp môn ưu việt nhất.  O

 

14. DO TỶ THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Tôn-đà-la-nan-đà đứng dậy cung kính chắp tay thưa với Phật: Lúc con mới xuất gia theo Phật học đạo, trong khi tu tam ma đề, tâm thường tán loạn. Đức Thế Tôn dạy con quán điểm trắng ở chót mũi. Con bắt đầu thực hành, trải qua thời gian hai mươi mốt ngày, thấy hơi thở trong mũi ra vào như khói; thân tâm trong sáng như ngọc lưu ly. Tướng khói lần lần không còn, tâm con được khai ngộ, các lậu tận sạch trong, thành A-la-hán. Thế Tôn thụ ký cho con thành quả Bồ đề. Nay Phật hỏi sở nhân được viên thông, xin thưa: Đối với con tập trung ý niệm, quán hơi thở và điểm trắng ở tỷ căn là thành tựu hữu hiệu nhất.    O

 

15. DO THIỆT THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Con từ nhiều kiếp đến nay biện tài vô ngại, tuyên thuyết các pháp: khổ, không, hiểu sâu thật tướng, cho đến những pháp môn bí mật như hằng sa của Như Lai, con có thể diễn giảng trước đại chúng không hề có sự sai lầm và sợ sệt. Thế Tôn biết con có đại biện tài, dạy con tuyên dương chánh pháp, giúp Phật chuyển pháp luân. Con nhờ giảng nói chánh pháp mà được quả A-la-hán. Thế Tôn ấn chứng cho con là: "thuyết pháp đệ nhất". Nay Phật hỏi nguyên nhân được viên thông, xin thưa: Con dùng pháp âm hàng phục tà ma ngoại đạo, tiêu trừ hoặc lậu là ưu việt nhất.   O

 

16. DO THÂN THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Ưu-ba-ly đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Rằng chính con theo Phật xuất gia, con thấy Như Lai sáu năm cần khổ, cuối cùng hàng phục tà ma, chế ngự ngoại đạo, giải thoát các lậu thế gian. Phật dạy con trì giới, giữ gìn tánh nghiệp và nghiệp biểu hiện của thân, miệng, ý, giữ vẹn ba nghìn oai nghi, tám vạn tế hạnh. Nhờ vậy, thân tâm tịch tịnh thành quả A-la-hán. Nay làm kỷ cương trong đại chúng, Như Lai ấn chứng con là "trì luật đệ nhất". Hôm nay Phật hỏi phương tiện được viên thông, xin thưa: Đối với con do giữ gìn thân được thanh tịnh. Thân đã thanh tịnh thì tâm sẽ thanh tịnh theo. Đó là phương pháp uốn dẹp tu sửa thân tâm hữu hiệu nhất.          O

17. DO Ý THỨC ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Rằng lúc nọ con đi khất thực giữa đường được ba anh em tôn giả Ca-diếp: Ưu-lâu-tần-loa, Dà-gia và Na-đề giảng nói lý nhân duyên thậm thâm của Phật, tâm con bừng ngộ thông suốt rỗng rang. Như Lai ban cho cà-sa mặc vào thân, râu tóc tự cạo. Con có khả năng du hí khắp mười phương không trở ngại. Đại chúng suy tôn con là "thần thông đệ nhất", trong hàng vô học A-la-hán. Nay Phật hỏi viên thông, xin thưa: Con xoay ý thức trở về tánh sáng suốt trạm nhiên. Giống như lóng nước đục, lóng nước lâu trở về tự thể trong sạch. Đó là phương tiện tu sửa đối với con hữu hiệu nhất.    O

 

18. DO HỎA ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Tôn giả Ô-sô-sắt-ma đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Con nhớ những kiếp xa xưa, tánh con nhiều tham dục. Bấy giờ nhằm thời Đức Phật Không Vương trụ thế. Đức Không Vương Như Lai bảo rằng: "Người đa dâm như đống lửa hồng". Rồi Phật dạy con quán hơi nóng trong cơ thể cả khắp tứ chi. Nhờ quán như vậy tinh thần sáng suốt, nội tâm đứng lặng, tâm háo dâm trở thành lửa trí tuệ. Từ đó, chư Phật gọi con với cái tên Hỏa Đầu. Con dùng sức hỏa quang tam muội mà chứng quả A-la-hán. Con phát đại nguyện, nếu có chư Phật thành đạo thì con làm lực sĩ hầu cận Phật để đánh dẹp bọn tà ma khuấy phá. Nay Phật hỏi nhân duyên được viên thông, xin thưa rằng: Do con quán hơi ấm trong thân, lưu thông không ngăn ngại; từ đó các lậu tiêu trừ, sanh lửa trí tuệ. Đối với con, đó là pháp tu hữu hiệu nhất.   O

 

19. DO ĐỊA ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Bồ-tát Trì Địa đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Rằng con nhớ lại trong những kiếp xa xưa, con từng được gặp Phật và cúng dường chư Phật như hằng sa, và cũng từng phục vụ vô lượng chúng sanh đem đến chúng sanh nhiều lợi lạc. Trong một kiếp nọ, ở vào thời Phật Phổ Quang trụ thế, con là một Tỳ-kheo phát tâm sửa chữa những đoạn đường gồ ghề sụp lở, những bến xe, bến đò bất tiện cho sự đi lại của nhiều người. Ngoài những công trình gánh đất, bưng sỏi, đắp bồi sửa chữa như vậy, con còn mang gánh giúp đỡ những người gánh gồng nặng nhọc ở chợ búa mà không lấy tiền công.   O

Vào thời Phật Tỳ-xá-phù trụ thế, nhân gian nhiều đói kém, con phải cõng giúp nhiều người không kể gần xa mà chỉ lấy một đồng tiền… có lúc con ra sức kéo phụ xe trâu qua những nơi quá lầy lội. Có lúc vì Phật con sửa đường bằng phẳng đợi Phật đi hóa trai.

Một hôm Đức Như Lai Tỳ-xá-phù đi qua đoạn đường con vừa sửa chữa. Phật xoa đầu con mà dạy rằng: "Nên bình cái tâm địa thì đất đai trên thế giới đều bình". Con nghe, tâm liền sáng bừng tỏ ngộ. Con quán thấy vi trần trong cơ thể cùng tất cả vi trần tạo thành thế giới bên ngoài không sai khác gì nhau. Tự tánh vi trần không chạm sát với nhau, cho đến đao binh các thứ tự nó cũng không va chạm gì. Nhờ nhận thức như vậy, con tỏ ngộ vô sanh nhẫn, thành A-la-hán hồi tâm. Nay ở trong hàng Bồ-tát nghe Phật dạy: Tri kiến Phật như diệu liên hoa, con lãnh hội trước tiên, đại chúng suy tôn là thượng thủ. Nay Phật hỏi nguyên do đạt đến viên thông, xin thưa: Do con quán trần ở nội thân và trần cấu của thế giới bên ngoài bình đẳng không sai khác. Tất cả từ Như Lai tàng tùy duyên biến hiện. Vọng tâm chấp mắc trần tướng tiêu vong thì trí tuệ viên mãn thành đạo Bồ Đề. Đó là đối tượng sở quán, đối với con đem lại thành công ưu việt nhất.      O

 

20. DO THỦY ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Bồ-tát Đồng Tử Nguyệt Quang đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Rằng con nhớ hằng sa kiếp trước có đức Phật ra đời hiệu Thủy Thiên. Thủy Thiên Như Lai dạy các Bồ-tát nên quán về nước để nhập Tam-ma-đề. Phật dạy quán tánh nước không gì lấn cướp làm cho mất hẳn được. Từ nước mắt, nước mũi, nước miếng, nước tiểu, nước tân dịch trong châu thân… đều quán một tánh nước đồng nhau. Tánh nước trong tự thân và tánh nước trong các bể Hương Thủy của thế giới Hoa Tạng, đồng nhau không sai khác. Lúc con thành tựu pháp thủy quán này, con chỉ thấy được tánh đồng của nước mà chưa thấy được "thân không". Hồi bấy giờ, con là một tỳ-kheo tọa thiền trong một tịnh thất, có người đệ tử trông cửa sổ nhìn vào, thấy toàn là nước. Vì nhỏ dại nó liền lấy một miếng ngói ném vào, rồi tự bỏ đi. Khi xuất định con thấy tim đau một cách lạ thường. Truy nguyên ra duyên cớ, con bảo người đệ tử: Khi con nhập định, trông thấy nước trong thất thì hãy vào nhặt miếng ngói mà người đã ném ấy ra. Quả thật, khi xuất định, con không còn đau đớn nữa.  O

Qua vô lượng kiếp sau con được gặp vô lượng Phật, nhưng chưa chứng ngộ. Mãi đến thời Như Lai Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương thì con mới chứng được "không thân". Bây giờ con thấy rõ nước trong tự thân cùng với nước bể Hương Thủy trong mười phương thế giới đồng một tánh chân không, không sai khác. Ở nước Phật Sơn Hải Huệ Tự Tại, con được hiện là Đồng Chân, dự vào hàng Bồ-tát. Nay Phật hỏi nguyên nhân được viên thông, xin thưa: Do con quán tánh nước dung thông mà được vô sanh nhẫn. Đối với con, pháp Thủy quán là ưu việt nhất.   O

 

21. DO PHONG ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Bồ-tát Lưu Ly Quang Pháp Vương Tử đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Con nhớ lại hằng sa kiếp trước có Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Thanh. Phật khai thị cho các Bồ-tát về: Bản giác diệu minh. Dạy các Bồ-tát quán: Thế giới và chúng sanh đều do sự vận động của sức gió vọng duyên chuyển biến mà hình thành. Riêng con, lúc bấy giờ, con quán không gian an lập; quán thời gian trôi đi mãi; quán thân, khi động khi dừng; quán tâm, niệm trước diệt, niệm sau sanh… Tất cả những chuyển động biến diệt, con thấy không hai không khác. Con nhận thức rõ rằng tánh của các thứ động: Đến không chỗ từ, đi không chỗ tới. Tất cả chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới có trong pháp giới mười phương do sức gió vọng duyên mà hình thành, mà sanh hoạt với nhau trong tánh bản giác diệu minh, chân tâm minh diệu. Giống như hàng vạn muỗi mòng trong một cái đồ đựng, kêu vo vo rầm rỉ, ào ào rối rít với nhau.

Con quán sát tư duy như vậy, không bao lâu, con được vô sanh pháp nhẫn làm vị Pháp Vương tử. Nay Phật hỏi viên thông, xin thưa: Do con quán tánh phong đại "đi không chỗ từ, đến không chỗ tới" mà tỏ ngộ tâm bồ-đề. Đối với con thì quán phong đại là đệ nhất.  O

 

22. DO KHÔNG ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Bồ-tát Hư Không Tạng đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Con nhớ lại con cùng Như Lai đồng chứng được "vô biên thân" hồi thời Phật Định Quang. Lúc đó tay con cầm bốn đại bảo châu chiếu sáng cõi Phật mười phương như số vi trần đều hóa thành hư không. Bấy giờ tâm con sáng suốt thành trí Đại Viên Cảnh. Con quán sát khắp thế giới Liên Hoa Tạng và cùng tột hư không, hoà quyện trong thân con. Thân con và hư không chẳng ngăn ngại gì nhau. Do vậy, con khéo vận dụng hài hòa vào cõi nước như vi trần làm Phật sự được thuận lợi lớn lao. Sức thần to lớn đó do con quán sát tứ đại không có chỗ sở y. Do vọng tưởng mà thấy có diệt có sanh. Hư không không hai, cõi Phật vốn đồng. Do con phát minh được tánh đồng mà chứng được vô sanh pháp nhẫn. Nay Phật hỏi nhơn duyên nào được viên thông, xin thưa: Do con quán chiếu hư không vô biên mà thể nhập Tam-ma-đề là phương tiện ưu việt nhất.   O

 

23. DO THỨC ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Bồ-tát Di-lặc đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Con nhớ lại vi trần kiếp trước có Đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Con được theo Phật xuất gia, nhưng tâm còn trọng hư danh thế gian, ưa giao du với các hàng vọng tộc. Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh dạy con tu tập định: Duy tâm thức và con được nhập Tam-ma-đề. Trải hằng sa số kiếp đến nay, con sử dụng tam muội ấy, phụng sự hằng sa chư Phật, tâm cầu danh, được diệt hết. Đến thời Phật Nhiên Đăng ra đời con mới chứng được tam muội thức tâm diệu viên vô thượng. Bấy giờ con quán thấy cõi nước của chư Như Lai, tột bờ mé hư không, tịnh uế, có không đều do thức tâm biến hiện.

Bạch Đức Thế Tôn ! Do con tỏ ngộ Duy tâm thức, thức tánh của con xuất hiện vô lượng Như Lai, và hiện nay được Phật thọ ký, con sẽ được bổ xứ thành Phật ở cõi Ta-bà sau này. Nay Phật hỏi nguyên nhân viên thông, xin thưa: Con quán mười phương đều duy thức. Thức tâm tròn sáng thì xa lìa tánh biến kế, nhận thức đúng thực thể của tánh y tha khởi thì chứng nhập tánh viên thành thật, được vô sanh nhẫn. Đối với con đó là pháp quán ưu việt nhất.    O

 

24. DO KIẾN ĐẠI ĐƯỢC VIÊN THÔNG

Bồ-tát Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52 vị Bồ-tát đồng tu một pháp môn cùng đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật: Con nhớ hằng sa kiếp trước có Đức Phật ra đời hiệu Vô Lượng Quang. Thời đó có 12 đức Phật ra đời trong một kiếp. Đức Phật sau hết hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy cho con phép niệm Phật tam-muội: Rằng các đức Như Lai ở mười phương thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con cũng đồng nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì đời đời mẹ con không xa cách. Tâm chúng sanh nhớ tưởng Phật thì tâm ấy là Phật. Nhất định thấy Phật, không cần phương tiện nào khác. Ví như người ướp hương thì toàn thân thể sẽ thành thơm, ấy gọi là hương quang trang nghiêm. Chính con nhờ niệm Phật mà được vô sanh nhẫn. Nay ở cõi Ta Bà, con nguyện hướng dẫn người niệm Phật để có được tịnh độ. Phật hỏi nhân duyên nào được viên thông, xin thưa: Con thu nhiếp tất cả sáu căn không vọng niệm. Do chánh niệm tương tục mà được Tam-ma-đề đối với con đấy là pháp môn thù thắng nhất.     O

***

 

PHÁP TU NHĨ CĂN VIÊN THÔNG

CỦA BỒ-TÁT QUÁN THẾ ÂM

Lúc bấy giờ Bồ-tát Quán Thế Âm đứng dậy cung kính chắp tay thưa: Bạch Đức Thế Tôn ! Con nhớ hằng hà sa kiếp trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm và con đã phát bồ-đề tâm thời ấy. Đức Phật Quán Thế Âm dạy con phương pháp nghe, suy nghĩtu để được thể nhập chánh định.      O

Bạch Đức Thế Tôn ! Trước hết con sử dụng tánh nghe: Nghe động và nghe tĩnh, rồi con xóa đi ý niệm động tĩnh ấy; từ đó sức tịch tĩnh tăng dần, con dứt được chủ thể nghe đối tượng nghe. Sức tịch tĩnh không dừng ở đó bấy giờ giác tánh con lại hiển hiện ra. Con tiếp tục tư duy: Dù là giác tánh nhưng tánh "năng giác", "sở giác" hãy còn, con bèn xóa đi về ý niệm giác; bấy giờ tâm tánh con rỗng rang lặng lẽ như hư không. Con lại diệt đi cái giác tri "như hư không" ấy. Cuối cùng con diệt cả cái khái niệm "diệt". Khi con diệt hết khái niệm vi tế về "diệt sanh, sanh diệt" bỗng dưng con nhận thấy toàn thể pháp giới trong mười phương chỉ còn là cảnh giới "bất nhị" tịch diệt hiện tiền. Tâm tánh của con viên mãn khắp giáp mười phương vượt hẳn tầm nhận thức thường tình của thế gian, con được hai thù thắng: Một là tâm con hợp với bản giác nhiệm mầu của mười phương Thế Tôn, đồng một từ tâm hướng về cứu độ chúng sanh. Hai là hợp với tâm của lục đạo chúng sanh trong mười phương, đồng một bi tâm hướng thượng cầu vô thượng bồ-đề.    O

 

DO TỪ TÂM, HIỆN 32 ỨNG THÂN

Bạch Đức Thế Tôn ! Do cúng dường pháp đến Đức Như Lai Quán Thế Âm, con được Phật truyền thụ cho con như huyễn văn huân văn tu Kim Cang Tam-muội nên thân con thành tựu 32 ứng thân vào các cõi nước.  O

Bạch Đức Thế Tôn !

Một là, nếu các Bồ-tát vào Tam-ma-đề tiến tu pháp vô lậu, thắng giải viên mãn, con hiện thân Phật vì họ mà thuyết pháp khiến cho được giải thoát.      O

Hai là, nếu các hàng hữu học tu pháp tịch tĩnh diệu minh viên mãn, con hiện thân Độc Giác vì họ mà thuyết pháp.         O

Ba là, nếu các hàng hữu học dứt mười nhơn duyên, phát ra thắng tánh viên mãn, con hiện thân Duyên Giác vì họ mà thuyết pháp.        O

Bốn là, nếu các hàng hữu học được pháp không của tứ đế, tu đạo đế, thể nhập diệt đế, thắng tánh viên mãn, con hiện thân Thanh Văn vì họ mà thuyết pháp   O

Năm là, nếu chúng sanh muốn tâm tỏ ngộ, không vướng vào ngũ dục, muốn thân được thanh tịnh, con hiện thân Phạm Vương vì họ mà thuyết pháp.  O

Sáu là, nếu chúng sanh muốn làm thiên chủ thống lãnh chư thiên, con hiện thân Đế- thích vì họ mà thuyết pháp.  O

Bảy là, nếu chúng sanh muốn thân được tự tại dạo khắp mười phương, con hiện thân Tự Tại Thiên vì họ mà thuyết pháp.   O

Tám là, nếu chúng sanh muốn thân được tự tại, bay đi trên hư không, con hiện thân Đại Tự Tại Thiên vì họ mà thuyết pháp.   O

Chín là, nếu có chúng sanh thích thống lãnh quỷ thần cứu quốc hộ dân, con hiện thân Thiên Đại Tướng Quân, vì họ mà thuyết pháp.   O

Mười là, nếu chúng sanh muốn thống lãnh quỷ thần, cứu giúp cõi nước, con hiện thân Thiên Đại Tướng Quân vì họ mà thuyết pháp.   O

Mười một là, nếu các chúng sanh muốn sanh ở thiên cung, con hiện thân Thái tử, con Tứ Thiên Vương vì họ mà thuyết pháp.   O

Mười hai là, nếu các chúng sanh muốn làm vua cõi người, con hiện thân vua vì họ mà thuyết pháp. O

Mười ba là, nếu các chúng sanh muốn làm chủ gia đình danh tiếng, thế gian kính nhường, con hiện thân trưởng giả vì họ mà thuyết pháp.   O

Mười bốn là, nếu các chúng sanh thích luận lời hay, giữ mình trong sạch con hiện thân cư sĩ vì họ mà thuyết pháp. O

Mười lăm là, nếu các chúng sanh muốn kinh bang tế thế, con hiện thân tể quan vì họ mà thuyết pháp.      O

Mười sáu là, nếu các chúng sanh thích chú thuật toán số, thu nhiếp nhân tâm, con hiện thân Bà-la-môn vì họ mà thuyết pháp.   O

Mười bảy là, nếu các thiện nam muốn xuất gia tu học, con hiện thân tỳ khưu vì họ mà thuyết pháp.    O

Mười tám là, nếu có người tín nữ muốn xuất gia, con hiện thân tỳ khưu ni vì họ mà thuyết pháp.     O

Mười chín là, nếu có người thiện nam muốn giữ giới tu hành, con hiện thân ưu bà tắc vì họ mà thuyết pháp.   O

Hai mươi là, nếu có người tín nữ, muốn thọ năm giới tập tu, con hiện thân ưu bà di vì họ mà thuyết pháp. O

Hai mươi mốt là, nếu có người nữ thích đường chánh trị phụ quốc an bang con hiện thân mệnh phụ phu nhân, thân nữ chúa vì họ mà thuyết pháp.   O

Hai mươi hai là, nếu có chúng sanh nam căn chưa ô nhiễm, con hiện thân đồng nam vì họ mà thuyết pháp.   O

Hai mươi ba là, nếu có người nữ thích thân xử nữ, con hiện thân đồng nữ vì họ mà thuyết pháp.     O

Hai mươi bốn là, nếu có hàng chư thiên muốn ra khỏi loài trời, con hiện thân chư thiên vì họ mà thuyết pháp.     O

Hai mươi lăm là, nếu có rồng muốn ra khỏi loài rồng, con hiện thân rồng vì họ mà thuyết pháp.     O

Hai mươi sáu là, nếu có dược-xoa muốn ra khỏi loài mình, con hiện thân dược-xoa vì họ mà thuyết pháp.    O

Hai mươi bảy là, nếu có càn-thát-bà muốn thoát khỏi loài mình, con hiện thân càn-thát-bà vì họ mà thuyết pháp. O

Hai mươi tám là, nếu có a-tu-la muốn ra khỏi loài mình, con hiện thân a-tu-la vì họ mà thuyết pháp.  O

Hai mươi chín là, nếu có khẩn-na-la muốn thoát khỏi loài mình, con hiện thân khẩn-na-la vì họ mà thuyết pháp.   O

Ba mươi là, có ma-hầu-la-già muốn thoát khỏi loài mình, con hiện thân ma-hầu-la-già vì họ mà thuyết pháp.    O

Ba mươi mốt là, nếu có chúng sanh thích làm người, con hiện thân người vì họ mà thuyết pháp.    O

Ba mươi hai là, nếu có loài phi nhân hoặc có hình hoặc không hình, hoặc có tưởng hoặc không tưởng, muốn thoát khỏi loài mình, con hiện thân như họ vì họ mà thuyết pháp.     O

Đó là 32 ứng thân nhiệm mầu có thể hiện vào các cõi nước trong mười phương, do kết quả của văn huân văn tu Tam-muội mà thành tựu sức nhiệm mầu "vô tác" như vậy.

 *

DO BI TÂM THÀNH TỰU 14 ĐỨC VÔ ÚY THÍ

Bạch Đức Thế Tôn ! Do vô tác diệu lực “văn huân văn tu” Kim Cang Tam-muội cho nên con và tất cả sáu đường chúng sanh trong mười phương ba đời cùng có một bi tâm hướng thượng cho nên con và tất cả chúng sanh thành tựu được 14 thứ công đức vô úy:

Một là, con không quán âm thanh đối tượng mà con quán cái tâm năng quán của mình, khiến cho chúng sanh khổ não trong mười phương quán âm thanh như vậy thì được giải thoát.      O

Hai là, con xoay tri kiến của mình soi rọi nội tâm, khiến chúng sanh dù vào trong lửa (dâm, sân, thù hận) mà lửa không đốt cháy.      O

Ba là con quán tánh nghe xoay vào nội tâm, khiến chúng sanh dù có bị nước (tham ái) to cuốn đi mà không hề bị chìm đắm.               O

Bốn là con đoạn diệt hết vọng tưởng, không còn tâm sát hại, khiến chúng sanh dù phải vào trong cõi nước của quỷ (sát, đạo, dâm, ác), quỷ cũng không hại được.          O

Năm là con huân tập cái tánh nghe, nghe vào tự tánh. Tánh thấy, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc, biết cũng như vậy, khiến chúng sanh đang khi bị hại thì dao mác, vũ khí gãy rơi từng khúc chẳng xúc phạm được.     O

Sáu là, con huân tập tánh nghe đến độ tinh thuần, sáng suốt khắp trùm pháp giới; tất cả những gì đen tối không tồn tại được,  khiến cho chúng sanh dù ở gần bên

với ác quỷ: Dược-xoa, cưu-bàn-trà (quỷ thô bạo), tỳ-xá-xà (quỷ bất nghĩa), phú-đơn-na (quỷ vô lương) v.v… mà chúng không nhìn thấy được.    O

Bảy là, đối với tánh năng văn con quán xoay vào, thanh trần đối tượng tiêu vong, khiến chúng sanh xa tránh tất cả gông cùm xiềng xích (của pháp ác) không vướng chạm đến thân.    O

Tám là con diệt âm thanh đối tượng, tánh nghe viên mãn sanh sức từ cùng khắp, khiến chúng sanh đi qua đường hiểm mà giặc cướp phiền não không thể cướp được.        O

Chín là  do con huân tập tánh nghe được thanh tịnh, tách khỏi trần tướng. Sắc, thanh… không cám dỗ được, khiến cho những chúng sanh đa dâm xa lìa được lòng tham dục nặng nề.

Mười là con chỉ lưu lại thuần một viên âm thanh tịnh, không còn đối tượng thanh trần, căn cảnh viên dung, dứt đối đãi năng văn sở văn khiến chúng sanh xa lìa được tham, sân, si phẩn nhuế.      O

Mười một là con tiêu diệt thanh trần đối tượng, rồi con xoay cái nghe về tánh bản minh, thân tâm cảnh giới trong sáng như lưu ly, chẳng vương chút trần ai vọng chấp, khiến chúng sanh xiển-đề mê tối xa lìa câm điếc tối tăm.    O

Mười hai là, viên dung các hiện tượng, con xoay tánh nghe trở về bất động. Hài hòa thế gian mà không hủy hoại thế gian; cúng dường Như Lai mười phương như số vi trần, con ở bên mỗi mỗi Phật làm Pháp Vương tử, khiến trong pháp giới những chúng sanh không con, cầu có con trai, sanh được con trai phúc đức trí tuệ.                               O

Mười ba là sáu căn con viên thông, soi sáng không hai, khắp trùm thập phương thế giới, đứng trước đại viên kính ở trong Như Lai tàng, con vâng lãnh những pháp môn bí mật của thập phương Như Lai như vi trần không hề thiếu sót, khiến cho trong pháp giới những chúng sanh không con mà cầu có con gái, sanh được con gái tướng tốt đoan chính, phúc đức và dịu dàng được nhiều người kính quý.    O

Mười bốn là trong tam thiên đại thiên thế giới này các Pháp Vương Tử đông như số cát 62 sông Hằng. Trí tuệ và phương tiện giáo hóa chúng sanh mỗi Ngài đều khác. Vậy mà chúng sanh chấp trì một danh hiệu của con, bằng ngang với công đức chấp trì danh hiệu số lượng Pháp Vương tử nói trên.   O

Bạch Đức Thế Tôn ! Sở dĩ con được những điều ưu việt như vậy là do con tu tập pháp văn huân văn tu Kim Cang Tam-muội, cho nên con được tánh viên thông chơn thật, gọi đó là 14 đức vô úy thí đem lại phúc lành cho tất cả chúng sanh.   O

 

BỐN ĐỨC KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN

Bạch Đức Thế Tôn ! Con được viên thông vô thượng cho nên có bốn đức vô tác nhiệm mầu không thể nghĩ bàn:

Một là con xoay tánh nghe để nghe tiếng mầu nhiệm của nội tâm. Tánh nghe này không chút nhiễm ô. Con ngăn dứt tất cả âm thanh đối tượng của nhĩ căn; bấy giờ tánh thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết của sáu căn còn là một tánh giác thanh tịnh có thể dùng thay thế cho nhau mà không ngăn ngại. Con còn có thể hiện ra nhiều hình tướng và nói vô số chân ngôn bí mật; từ 1 đầu, 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu, 9 đầu, 11 đầu, 108 đầu, 1.000 đầu, 10.000 đầu cho đến 84.000 đầu. Con có thể hiện ra 2 tay, 4 tay, 6 tay, 12 tay, 14 tay, 16 tay, 18 tay, 20 tay, 24 tay, 108 tay rồi 1.000 tay, 10.000 tay cho đến 84.000 tay uyển chuyển. Con có thể hiện ra 3 mắt, 4 mắt, 9 mắt, 108 mắt, rồi 1.000 mắt, 10.000 mắt, cho đến 84.000 mắt thanh tịnh, hoặc từ, hoặc uy, hoặc định, hoặc tuệ cứu độ chúng sanh được đại tự tại.   O

Hai là tánh nghe và suy nghĩ của con thoát ngoài sáu trần, như âm thanh luồn xuyên qua vách. Do sức nhiệm mầu vô tác, con hiện nhiều hình tướng nói nhiều chơn ngôn đem lại cho chúng sanh sức vô úy. Vì vậy cõi nước trong mười phương nhiều như vi trần đều gọi con là vị Bồ-tát "thí vô úy".  O

Ba là sự tu tập của con là phát huy căn bản thanh tịnh sẵn có nên con được viên thông mầu nhiệm. Đi đến thế giới nào, chúng sanh cũng xả thân, hy sinh trân bảo cầu được con thương xót.     O

Bốn là con có được Phật tâm, chứng ngộ đến chỗ cứu cánh cho nên có thể đem các thứ trân bảo cúng dường thập phương Như Lai. Đến như lục đạo chúng sanh trong pháp giới muốn cầu trường thọ được trường thọ, cho đến cầu đại Niết-bàn cũng được đại Niết-bàn.     O

Bạch Đức Thế Tôn ! Nay Phật hỏi nguyên nhân chứng đắc viên thông xin thưa rằng: Con từ cửa ngõ nhĩ căn quán chiếu đến tột cùng viên mãn về âm văn (nghe và tiếng) mà được tam muội. Đối với con, tư duy và quán chiếu tánh nghe tiếng của nhĩ căn là ưu việt nhất.

Bạch Đức Thế Tôn ! Đức Như Lai Quán Thế Âm từ thuở xa xưa ấy đã khen con khéo được pháp môn viên thông, ở trong đại chúng, Phật thọ ký cho con danh hiệu Quán Thế Âm bởi vì tánh nghethấy tròn sáng châu biến mười phương, danh hiệu Quán Thế Âm cũng phổ cập trong lục đạo chúng sanh mười phương thế giới.   O

 

CHỌN CĂN TU ƯU VIỆT NHẤT

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử, năm căn đồng phóng ra ánh sáng báu soi sáng trên đảnh của thập phương Như Lai, các pháp vương tử, các Bồ-tát như số vi trần. Các Đức Như Lai trong mười phương cũng phóng ánh sáng như vậy soi đến đảnh Phật Thích-ca, các Bồ-tát và các chúng Thanh Văn trong đại hội. Rừng cây ao hồ đều diễn ra tiếng pháp, ánh sáng của chư Phật đan xen như lưới tơ báu. Tất cả đại chúng được cái chưa từng có. Trời mưa hoa sen báu đủ màu: Xanh, vàng, đỏ, trắng xen lộn lẫn nhau. Mười phương hư không rực màu thất bảo. Núi sông đất đai ở cõi Ta-bà bỗng nhiên ẩn mất, chỉ còn thấy vô số hành tinh trong mười phương hợp thành một cõi, tiếng ca ngâm thanh thoát tự nhiên dìu dặt nổi lên.     O

Phật bảo Bồ-tát Văn-thù: Ông hãy xét nghiệm thành quả tu chứng viên thông của 25 vị Bồ-tát và Thanh Văn vừa đã trình bày. Vẫn biết rằng sáu căn, sáu trần, sáu thức, bảy đại đều là những dữ kiện tu chứng viên thông, nhưng nay Như Lai muốn cho ông A-nan nghe và nhận xét để tự chọn một pháp môn tu thích hợp. Như Lai cũng cần một pháp môn phương tiện để dạy cho chúng sanh mạt thế cõi Ta-bà, những người Đại thừa cầu vô thượng đạo một phương pháp tu hành tu hành hiệu quả tốt, chóng thành công phổ biến mọi căn cơ sau Như Lai diệt độ.

Bồ-tát Văn-thù vâng lời Phật cung kính chắp tay, nói bài kệ kính dâng lên Phật:      O

Biển giác tánh lặng trong

Vốn nhiệm mầu trong sáng

Tánh bản minh chiếu ra như "sở"

Chấp tướng "sở" mất tánh bản minh

Do phân biệt vọng thấy hư không

Tựa hư không hình thành thế giới

Chủng tử vô tri thành cõi nước

Sắc tâm minh liễu tức nhơn sinh

Hư không sanh trong "Đại Giác"

Như bong bóng nổi giữa đại dương

Cõi nước hữu lậu như vi trần

Sanh khởi trong bầu hư không ấy

Hư không chưa ví tày nước bể !

Thì sá chi ba cõi vốn bọt bèo

Về nguồn không hai đích

Phương tiện có nhiều đường

Quả chứng chẳng ngại nhau

Thuận nghịch là phương tiện

Sơ tâm vào tam muội

Mau chậm chẳng đồng nhau.   O

 

1. Nhược điểm của sáu trần

Sắc bị vọng tưởng tác động vào thanh trần làm mất đi cái hồn nhiên như thị khách quan của sự vật, khó mà tu chứng viên thông.

Thanh âm kết hợp bởi ngữ ngôn, biểu hiện cụ thể của âm thanh là danh ngôn và cú nghĩa. Tác dụng của âm thanh còn phiến diện khó mà tu chứng viên thông.

Hương có hợp mới thành tác dụng; nếu để ly ra, dù hương có cũng như không. Hương trần không tương tục hiện hữu, khó mà tu chứng viên thông.

Vị không phải đương nhiên tự có, cần phải nếm mới biết có vị. Đối với vị giác cũng không liên tục, nên khó mà tu chứng viên thông.

Xúc có vật chạm mới biết, nếu không biết xúc không thành. Xúc trong lúc hợp, chẳng xúc được lúc ly, khó mà tu chứng viên thông.

Pháp còn gọi là nội trần. Trần là đối tượng "sở tri". Năng sở khổ là một khó mà tu chứng viên thông.       O

 

2. Nhược điểm của năm căn

Tánh thấy vốn rỗng rang bao quát nhưng chỉ thấy được phía trước chẳng thấy được phía sau; bốn hướng tám phương mất đi một nửa, khó mà tu chứng viên thông.

Mũi thở ra thở vào, chặng giữa không có thở; không dung thông, còn cách trở, khó mà tu chứng viên thông.

Lưỡi không vị, tánh nếm không thành. Vị không phải lúc nào cũng sẵn có nên khó mà tu chứng viên thông.

Thân biết xúc, nhưng phải có đối tượng. Năng sở xúc không thường liên tục thì khó mà tu chứng viên thông.

Ý căn thường xen với vọng tưởng. Loạn tưởng dừng thì chẳng thấy biết gì. Tưởng niệm không dễ gì dứt bỏ thì khó mà tu chứng viên thông.    O

*

3. Nhược điểm của sáu thức

Cái thấy của mắt phải có căn trần. Cạn xét tột cùng nó không tự thể; không tự thể thì không có gì nhất định nên khó mà tu chứng viên thông.

Sử dụng cái nghe, nghe suốt mười phương hàng sơ tâm không dễ dàng thực hiện khó mà tu chứng viên thông.

Quán điểm trắng ở tỷ căn đó chỉ là quyền phương tiện, nhằm thu nhiếp để trụ tâm. Trụ mà trở thành "sở trụ" thì khó mà tu chứng viên thông.

Thuyết pháp vận dụng âm thanh văn tự chỉ khai ngộ cho những ai đã trồng sâu giống Phật. Danh cú, văn tự không phải là vô lậu thì khó mà tu chứng viên thông.

Giữ giới chỉ câu thúc cái thân, ngoài cái thân lấy gì câu thúc ? Giới và thân vốn không cùng khắp thì khó mà tu chứng viên thông.

Thần thông do tập nhân từ trước, không dính dáng với ý thức phân biệt pháp trần. Niệm lự, không rời sự vật thì khó mà tu chứng viên thông.        O

*

4. Nhược điểm của bảy đại

Đất, tánh của nó là ngăn ngại, nếu quán cái tánh của địa đại thì không thể thông suốt. Vả lại pháp hữu vi không là giác tánh thì khó mà tu chứng viên thông.

Nước do quán mới thấy có. Nếu quán thủy đại cần vận dụng nhiều quán trí. Đã là quán thì không phải chơn, chưa đạt đến như như phi giác quán, thì khó mà tu chứng viên thông.

Lửa đem so sánh với nỗi khổ của dâm tâm, nếu quán hỏa đại để trừ lửa dâm ở nội tâm, đó chỉ là người chán cái khổ hoành hành, chưa phải là viễn ly chơn thật. Đó là phương tiện không phải phát xuất bởi tâm ban đầu nên khó mà tu chứng viên thông.

Gió lúc động lúc yên, nếu quán cái tánh của phong đại thì chỉ là pháp đối đãi. Còn đối đãi thì không là tánh giác minh vô thượng, khó mà tu chứng viên thông.

Không thì rỗng suốt chẳng có gì, nếu quán cái tánh của không đại thì đồng như vô tri vô giác. Vô tri vô giác trái với bồ-đề thì khó mà tu chứng viên thông.

Thức thì sanh diệt không thường, nếu quán cái tánh của thức đại chỉ là quán sự phân biệt diệt sanh hư vọng, khó mà tu chứng viên thông.

Kiến là tánh thấy, kiến đại biểu hiện qua tưởng niệm. Tất cả các hành đều vô thường, tưởng niệm vốn trong vòng sanh diệt. Đem nhân sanh diệt, cầu được quả chân thường bất diệt, khó mà tu chứng viên thông.       O

 

5. Sự ưu việt của nhĩ căn

Con nay kính bạch Thế Tôn:

Phật ra đời ở cõi Ta-bà

Trong cõi này giáo môn thích ứng

Hiệu quả tốt ở: nói nghe

Muốn thành tựu được Tam-ma-đề

Phải vận dụng tánh nghe mà vào

Lìa khổ được giải thoát.

Hay thay Quán Thế Âm

Kiếp số như cát sông Hằng

Vào cõi nước vi trần Phật độ

Sức tự tại không thể nghĩ lường

Vô úy bình đẳng thí chúng sanh.    O

Quán Thế Âm là Diệu Âm

Quán Thế Âm tức Phạm Âm

Quán Thế Âm, Hải Triều Âm đó

Cứu thế vững an khang

Xuất thế hằng thường trú.   O

Con kính bạch Như Lai

Như lời Quán Âm nói

Ví như ngồi chỗ tĩnh

Mười phương cùng đánh trống

Mười hướng thảy đồng nghe

Đấy là viên chơn thật

Cách vách nghe âm tưởng

Xa gần có thể nghe

Năm căn không sánh được

Thông chân thật, nhĩ căn

Tiếng chuông, tánh nghe không diệt

Tiếng có, chẳng phải mới sanh

Có không, không quan hệ

Thường chơn thật của nhĩ căn

Dù có đang say ngủ

Chẳng vì ngủ không nghe

Tánh nghe ngoài suy nghĩ

Thân ý chẳng so bằng

Hiện tại cõi Ta-bà

Thanh luận được biểu dương

Mê muội đối với tánh nghe

Bị thanh trần cuốn theo dòng lưu chuyển

Dùng tánh nghe trú trì Phật Pháp

Hãy tự mình nghe lấy tánh nghe

Xoay cái nghe thoát khỏi thanh trần

Tánh nghe ấy là tánh nghe thường trú

Một căn đã xoay về bản tánh

Thì năm căn sẽ được giải thoát theo.     O

Sắc thanh… trần như bệnh lòa huyễn hóa

Ba cõi dường hoa đốm trong không

Xoay tánh nghe là trừ hết bệnh lòa

Trần tưởng diệt, giác tâm hiển hiện

Tột thanh tịnh trí quang thông suốt

Tịch như mặt trời chiếu tợ thái dương

Quay nhìn xem hiện tượng thế gian

Như vật sắc chiêm bao chẳng khác.    O

Ma-đăng-già há không là mộng huyễn

Thì còn ai quyến rũ ! Hỡi A-nan ?

Như các huyễn sư khéo tạo hình người

Giỏi trang điểm làm ra trai hay gái

Dù các căn có cử động rung rinh

Do cái máy giật dây điều khiển

Động cơ nghỉ, tứ chi "người" tê liệt

Trò múa men đến lúc trở thành không

Tư duy kỹ, sáu căn người cũng thế

Phát xuất từ một thể tánh tịnh minh

Chia ra thành sáu thứ "hợp" "hòa"

Một đã tịch thì sáu căn đều thanh tịnh

Trần cấu còn thì gọi là học vị

Giác tột cùng thì gọi đó Như Lai.    O

Hỡi A-nan và đại chúng hiện tiền

Hãy dứt cái nghe thanh trần điên đảo

Xoay tánh nghe, nghe tự tánh của mình

Nghe tự tánh là thành Vô Thượng Giác

Xin đảnh lễ Như Lai Tạng Tánh

Gia bị cho mạt thế chúng sanh

Đủ khả năng làm chủ lấy nhĩ căn

Giàu nghị lực sống với viên thông thường ba chơn thật tánh.  O

***

 

Tôn giả A-nan và đại chúng được sự hướng dẫn rõ ràng của Bồ-tát Văn-thù, mọi người cảm thấy khinh an sảng khoái, tâm trí sáng bừng, nhận thức rõ: Rằng Bồ-đề Niết-bàn Phật là gia bảo chung của tất cả chúng sanh, mọi người đều có quyền thừa hưởng. Từ lâu mình tự bỏ cha bỏ nhà đi hoang, biến mình thành những kẻ lạc loài cùng khổ, xa quê hương rời nguyên quán, đánh mất gia tài cự phú vô tận của cha ông. Nay đại chúng nhận rõ: Rằng dù họ chưa về nhưng đã biết đường về và tin ở khả năng trở về của họ. Họ xác định rõ cái quyền thừa hưởng của họ đối với sự nghiệp vĩ đại của cha ông mình.

Hàng hữu học vô học nhị thừa, hàng sơ phát tâm Bồ-tát đông như số cát mười sông Hằng, xa lìa trần cấu được pháp luân thanh tịnh. Vô lượng chúng sanh phát tâm cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.   O

 

Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật. (3 lần, xá 3 xá) OOO

~~oOo~~
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 |  22 | 23 | 24 | 25
26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42 | 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49

 


Vào mạng: 22-3-2002

Trở về mục "Nghi thức Phật giáo"

Đầu trang