Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH
Trực Chỉ Đề Cương

 
- Phải làm gì để xây dựng một cõi Phật?
- Giáo lý phương tiện và việc làm phương tiện.
1.- Vấn đề thiền.
2.- Vấn đề thuyết pháp.
3.- Vấn đề khất thực.
4.-  Lại vấn đề khất thực.
5.- Lại vấn đề thuyết pháp.
6.- Thuyết pháp yếu.
7.- Vấn đề thiên nhãn.
8.- Giảng luật.
9.- Vấn đề xuất gia.
10.- Như Lai bệnh.
1.- Vấn đề thọ ký.
2.- Vấn đề đạo tràng.
3.- Pháp vui vô tận.
4.- Hội đại thí.
- Văn Thù Bồ tát thăm bệnh.
- Bất tư nghì.
- Quán chúng sanh.
- Con đường Phật.
- Chứng nhập pháp môn không hai.
- Phật Hương Tích.
- Việc làm của Bồ Tát.
- Thấy Vô Động Như Lai, thế giới Diệu Hỉ.
- Cúng dường pháp.
- Chúc lũy.

 

LỜI TỰA

            Kinh Duy Ma Cật là bộ kinh thuộc hệ tư tưởng Đại thừa Viên đốn, là thứ giáo lý mãn tự. Giáo lý kinh Duy Ma Cật dạy cho mọi người về pháp môn giải thoát bất tư nghì. Hành giả thực hiện được là thành Phật như đức Phật Thích Ca và thập phương chư Phật đã thành. Ai có khả năng đoạn sạch vô minh, trừ hết phiền não thì tức thân thành Phật và cõi nước Phật hiển hiện ngay cõi đời này. Giáo lý kinh Duy Ma Cật dạy rằng: Quả vô thượng Bồ Đề không phải là cái hứa hẹn để cho mọi người mõi mòn hy vọng ước mơ. Mà mọi người ai cũng có khả năng đạt đến bằng nghị lực và trí tuệ của mình.

            Trưởng giả Duy Ma Cật là người bất tư nghì. Ngài thuyết bất tư nghì pháp, trình diễn bất tư nghì cảnh, tập họp bất tư nghì chúng, khiến mọi người phát bất tư nghì tâm, chung qui tán thán bất tư nghì công đức của Phật. Quả vô thượng Bồ Đề, Phật là mục đích đến, mà Bồ tát Duy Ma Cật vận dụng vô số bất tư nghì sự để hướng dẫn cho mọi người.

            Giáo lý Tiểu thừa có đề cập, phước báo nhơn thiên có nói đến, nhưng nói nhơn thiên để phủ định phước báo nhơn thiên. Đề cập Tiểu thừa để khiển trách họ về Niết Bàn sở đắc.

            Ba lần hiện Tịnh độ nhằm phổ cáo với đại chúng về thần lực bất tư nghì:

            - Với sức thần bất tư nghì của Phật nhãn, đại chúng trông thấy cõi Tịnh độ ở ngay nơi Ta bà uế độ.
            - Với sức thần bất tư nghì của tuệ nhãn, đại chúng trông thấy, ngoài Ta bà uế độ, còn có Tịnh- độ của Phật Hương Tích rực rỡ trang nghiêm và xa thẳm.

            - Với sức thần bất tư nghì của tuệ nhãn họp cùng Phật nhãn, đại chúng trông thấy Tịnh độ của đức Vô Động Như Lai sáp nhập với uế độ Ta bà mà không có tướng rộng hẹp, khiến cho đại chúng bừng tỉnh ngộ: Uế độ và tịnh độ không rời cảnh giới này.
            Bộ kinh Duy Ma Cật, từ  Tây vức truyền sang Trung quốc, trước sau có sáu nhà dịch:

            1.- Đời Hậu Hán (25-220 TL) Ngài Nghiêm Phật Điều dịch, nhan đề: Cổ Duy Ma Kinh.

            2.- Đời nhà Ngô (221-280) cư sĩ Chí Khiêm dịch, nhan đề: Duy Ma Cật Sở Thuyết Bất Tư Nghì Pháp Môn.

            3.- Đời Tây Tấn (265-317) Ngài Trúc Pháp Hộ dịch, nhan đề: Duy Ma Cật Sở Thuyết Pháp Môn Kinh.

            4.- Ngài Trúc Pháp Lan dịch, nhan đề: Tỳ La Cật Kinh.

            5.- Đời Diêu Tần (344-413) Ngài Cưu Ma La Thập dịch, nhan đề: Phật Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh.

            6.- Nội dung tư tưởng các bản dịch đại thể không khác nhau nhiều, nhưng ý nhị uyên thâm thì có sâu có cạn. Do vậy, suốt quá trình dịch sử cho đến ngày nay, các tòng lâm Phật học đều  ái mộ bản dịch với nhan đề: “DUY MA CẬT SỞ THUYẾT KINH” của Tam Tạng Pháp sư  Cưu Ma La Thập.

            Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết, ở Trung Hoa xưa nay tiền bối sớ giải rất nhiều. Ở Việt Nam ta, người dịch và giải trước sau cũng không ít. Tuy nhiên, do tư-duy nhận thức khác nhau và góc độ nhìn ngắm không đồng. Cho nên công trình phiên dịch và sớ giải kinh  điển Phật, có lẽ là công trình sáng tạo không ngừng, mới có thể đáp ứng yêu cầu cho nhiều căn cơ đối tượng.

            Phát xuất từ quan điểm nhận thức đó, nhìn qua các bản dịch tại nước ta, tôi thấy cần tham dự đóng góp kiến giải Phật học của mình. Trước là “Ôn cố tri tân” đồng thời cung ứng cho hàng Phật tử hữu duyên cùng đi trên con đường đạo.

            Kinh “Duy Ma Cật Sở Thuyết” của Ngài Cưu Ma La Thập, sau khi dịch ra tiếng Việt, tôi viết thêm phần “TRỰC CHỈ” ở sau mỗi chương   hoặc sau mỗi đoạn, thay vì lời sớ giải mà các tiền bối cổ kim thường làm.

            TRỰC CHỈ có nghĩa là chỉ thẳng, ý tứ tiềm ẩn, phân tích rõ ràng nghĩa lý sâu xa bàng bạc ở kinh văn, nhằm hướng dẫn cho người đọc nắm được trọng tâm, biết rõ chủ đích từng bài pháp của mỗi vấn đề.

            Nhưng than ôi!

            Ý Phật nhiệm mầu trông như mây phủ ở đầu non, đến được đầu non mây xa tít.

            Cơ thiền bảng lảng tưởng chừng trăng trôi mặt nước, hớt tan mặt nước trăng sâu mù.

            Do vậy, không thể nào TRỰC CHỈ hết mọi mặt của ý kinh. Cho nên tôi chọn nhan đề của công trình nho nhỏ này là: “DUY MA CẬT SỞ THUYẾT KINH TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG”.
            Tôi hy vọng giáo án này, - tôi gọi là giáo án, vì những kinh luận của tôi biên soạn nhằm để triển khai hướng dẫn mọi người đệ tử Phật, học chánh pháp, hành chánh pháp, sống theo chánh pháp và truyền bá chánh pháp chớ không chủ trương đem tụng trước bàn thờ Phật. Giáo án này được đến tay Tăng, Ni sinh trung cao Phật học các trường, tôi xem đó là một cơ hội đóng góp phần nho nhỏ của mình trong sự nghiệp tục diệm truyền đăng.

            Đối với hàng Phật tử tại gia tín tâm đã phát khởi với chủng tánh Đại thừa vốn có của mình, đọc học được kinh này thì đường tu tập vững bước tiến lên, không một thế lực ma quân tà đạo nào dám lấy mắt mà nhìn, đừng nói chi chuyện manh tâm mê hoặc.
“Học, học nữa và học mãi”
Học cho đến khi:
- Bồ-Đề quả thục, nhất chân phi sắc phi không.
- Bát Nhã hoa khai, vạn pháp tức Tâm tức Phật.
Viết tại HUỲNH MAI TỊNH THẤT
Ngày 16 tháng 12 năm 1991

Pháp Sư : Thích Từ Thông
Kính đề.

******

PHÀM LỆ

            Bộ kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết gồm cả thảy mười bốn chương, được chia thành hai tập. Tập Một có năm chương và tập Hai có chín chương. Khi nghiên cứu bộ kinh này, kính mong quý đọc giả lưu ý:
            1.- Phần nguyên văn được in chữ đứng. Đó là phần dịch đúng nguyên bản của kinh văn.

            2.- Phần Trực chỉ in chữ nghiêng để cho đọc giả dễ phân biệt. Phần này do tôi đóng góp bằng kiến giải của riêng mình. Hy vọng phần Trực chỉ sẽ giúp cho đọc giả manh mối để tư duy, gợi trí nhận xét khi các Ngài thiền tọa.

            3.- Đoạn kinh văn dài, có nhiều ý, tôi đánh số 1, 2, 3 v.v... Đoạn có đánh số là có tiềm ẩn ý nghĩa sâu xa. Tôi phân tích diễn giải phần ý nghĩa tiềm ẩn đó trong phần Trực chỉ sau chương hoặc sau đoạn kinh văn đó.

            Mấy lời kính cáo, mong chư đọc giả lưu tâm. Việc tác phẩm hoàn bị hay chưa, giúp ích cho đời được nhiều hay ít, thiết tưởng không có gì đáng nói.

             Tôi cho rằng tất cả chúng ta ngày nào còn sống trên cõi đời, thì còn phải:

“Học, học nữa và học mãi” 

Pháp Sư : Thích Từ Thông
Cẩn chí.


LỜI TỰA (2)

            Thiền và Quán là tông chỉ của đạo Phật. Trên đường tu Phật, thiền, quán là phương tiện đặc thù không thể không có đối với một Phật tử. Bồ đề, Niết bàn là mục đích cần đạt đến mà Thiền Quán được ví như hai cổ xe chuyên chở lữ hành trên suốt lộ trình tiến về mục đích ấy.

            Muốn hiểu kinh Duy Ma Cật học giả phải vận dụng công phu trong việc "Tư duy", phải xử dụng nhiều "Quán trí". Có "Tư duy tu" trong "tĩnh lự" có quán chiếu sâu sắc mới nhận thấy, thật biết và thật chứng nhiều điều trong kinh nói. "Thập huyền duyên khởi" là những đề tài Thiền Quán vi diệu thậm thâm. Đọc, nghiên cứu kinh Bất Tư Nghì Giải Thoát Pháp Môn mà không có khả năng tư duy không thể nhập Thập huyền duyên khởi thì không thể nào hiểu đúng được tông chỉ mục đích của kinh.

            Để chuẩn bị tư tưởng, trước khi nghiên cứu tập hai của bộ kinh Duy Ma Cật, tôi trân trọng giới thiệu cùng quý đọc giả về những đề tài Thiền Quán vi diệu thậm thâm ấy:

            1.- Đồng thời cụ túc tương ứng môn.

            2.- Nhất đa tương dung bất đồng môn.

            3.- Chư pháp tương túc tự tại môn.

            4.- Nhân đà la võng cảnh giới môn.

            5.- Vi tế tương dung an lập môn.

            6.- Bí mật ẩn hiển câu thành môn.

            7.- Chư tàng thuần tạp cụ đức môn.

            8.- Thập thế cách pháp dị thành môn.

            9.- Duy tâm hồi chuyển thiện thành môn.

          10.- Thác sự hiển pháp sanh giải môn.

            Thiền giả tư duy vạn pháp, nhận thức vạn pháp qua "mười mặt" của một vấn đề. Thể nhập sâu sắc "Thập huyền duyên khởi". Thiền giả sẽ lý giải đúng ý nghĩa, quán triệt hết tông chỉ mục đích của toàn kinh. Những chuyện nghe như hoang đường, thần thoại, sau khi lý giải đúng tông chỉ mục đích của kinh, thì ra đó không phải kinh có ý nghĩ chép chuyện thần thoại hoang đường. Mà đó là nhằm mục đích hướng dẫn cho người đệ tử Phật cách nhận thức vạn pháp trong vũ trụ qua "mười mặt" của một vấn đề. Phải nhận thức như thế mới biết bằng cái biết toàn diện, thấy bằng cái thấy toàn diện của "một pháp".

            Thiền của kinh Duy Ma Cật là Đại thừa thiền. Thiền mà không cần trốn tránh trách nhiệm, không từ chối bổn phận trong việc lợi lạc chúng sanh. Thiền giả có thể làm tất cả việc, mà không luyến ái chấp thủ ở sự nghiệp, ở thành tích của mình làm. Thiền giả cũng không cần xua đuổi chối bỏ thành tích để hy vọng đổi lấy cảnh giới Niết bàn, Bồ đề nào ở một thế giới xa xăm nếu có.

            "Bất tận hữu vi, bất trụ vô vi" là tinh thần Thiền của Duy Ma Cật. Về tục đế, không một việc gì lợi ích chúng sanh mà không làm. Bên chân đế, không thủ đắc một pháp dù đó là Bồ đề, Niết bàn vô thượng.

            Tu học kinh Duy Ma Cật là tu học Bất Tư Nghì Giải Thoát Pháp Môn, cho nên thành quả của hành giả chứng đắc phải là Cảnh giới bất tư nghì giải thoát, nghĩa là giải thoát ngay trong cuộc sống hiện tại, giải thoát ở trên mặt đất này, ở trong mọi hoàn cảnh mà kinh điển thường gọi :"Bất ly ư đương xứ".

Viết tại Huỳnh Mai Tịnh Thất
Ngày 20 tháng 12 năm 1991.
Pháp sư THÍCH TỪ THÔNG
Kính đề.
~~oOo~~
Thanh Sơn đánh máy

Giới thiệu | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14

 


Vào mạng: 11-12-2001

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang