- Ngài Huệ Năng
- CHƯƠNG II: TƯ TƯỞNG
- 1
- TƯ TƯỞNG
CĂN BẢN
Câu nói đầu
tiên của đời Ngài Huệ Năng là : “Các vị Thiện tri thức! Tự tánh bồ
đề bản lai thanh tịnh, vận dụng tâm ấy tức nhiên thành Phật”. Câu
ấy phải được xem là căn bản của đời Ngài Huệ Năng. Về phương diện
tư tưởng, câu ấy là tư tưởng căn bản.
Tư tưởng
căn bản này, bất cứ đứng về giáo nghĩa nào trong Phật giáo, cũng giải
thích được một cách minh bạch và do đó, bất cứ cương vị nào, ai cũng
thực hành được cả. Đó không phải là câu nói mơ hồ như những kẻ
mơ hồ nói úp úp mở mở để tỏ ra rằng chỉ một mình họ theo nổi một
điều sâu xa.
“Tự tánh
bồ đề bản lai thanh tịnh, vận dụng tâm ấy tất nhiên thành Phật”
chính nghĩa là “phát bồ đề tâm” chứ không chi khác. Đơn giản quá chăng?
Nếu có ý tưởng đó thì thực ra đã không hiểu gì về cái nghĩa phát bồ
đề tâm, cái nghĩa căn bản của Phật tử.
Mà thực sự
là như vậy. Từ ngữ phát bồ đề tâm cũng như danh từ bồ đề, tuy là
ngôn ngữ thông dụng của Phật tử, nhưng nghĩa lý của nó được hiểu rành
mạch thì không có mấy người. Bởi vậy, để cắt nghĩa minh bạch tư tưởng
căn bản của Ngài Huệ Năng, trước hết, hãy trình bày thật kỹ về sự
“phát bồ đề tâm”, một điều mà ai cũng sẽ thấy ở sau, nó rất
quan trọng.
“Phát bồ
đề tâm”, muốn cắt nghĩa, hãy chia ra 3 phần: Bồ đề, bồ đề tâm,
và phát bồ đề tâm.
Trước hết,
nói về “bồ đề”, thì y theo kinh
luận, ta có thể cắt nghĩa bằng 10 điều sau đây:
Danh nghĩa của
bồ đề: Bồ đề là
tiếng Phạn, xưa dịch là “đạo”. Đạo có hai nghĩa: nghĩa đen là đường
đi, nghĩa suy diễn là lý đức. Vậy nếu căn cứ cái nghĩa sở y của bồ
đề mà ta sẽ thấy ở thứ 8, rồi dùng cái nghĩa lý đức mà dịch là
“đạo” thì cũng được. Nhưng chữ đạo thường bị lầm lẫn với cái
nghĩa đen là đường đi (nghĩa này chữ Phạn có chữ mạt để, chứ không
phải là bồ đề), nhất là hay bị hiểu theo tư tưởng mơ hồ của Lão
Trang và cố nhiên không diễn tả được hết ý nghĩa của bồ đề, dầu
chỉ một nghĩa sở y cũng vậy. Vì vậy, sau này chữ bồ đề mới được
xác định đúng nghĩa là “giác”. Nhưng chữ giác này phải được quy định
là sự giác ngộ, sự không còn bị mê hoặc mới là bồ đề, chứ không
phải cái giác của sự cảm giác hay ảo giác.
Phẩm loại của bồ đề: Bồ đề
nghĩa là giác, nên khi giác hiện hành thì mê phải tiêu diệt, hệt như bóng
tối sẽ không thể còn được một khi ánh sáng đã có. Bởi vậy, phàm
các vị Thánh giả đã diệt trừ mê hoặc đều được hiểnlộ trí giác
bồ đề cả. Nên bồ đề có 3 loại: thanh văn bồ đề, duyên giác bồ đề
và vô thượng bồ đề. Tuy nhiên, chỉ có loại thứ 3 mới là trí giác
tuyệt đối viên mãn, vì ở đây mê hoặc mới được diệt sạch, như
ánh sáng của thái dương lúc đứng bóng mới thật làm tan biến hết bóng
tối.
Tự tánh của bồ đề: Đặc tánh
của bồ đề là gì? Nói chung cả ba loại thì đặc tánh của bồ đề chính
là huệ tâm sở (đã vô lậu) trong 5 tâm sở biệt cảnh. Nếu nói vô thượng
bồ đề không, thì tự tánh của bồ đề là 4 trí. Và nếu 4 trí mới là
tự tánh của bồ đề, thì 2 loại bồ đề của thanh văn và duyên giác
được một phần của diệu quán sát trí mà thôi, chỉ vô thượng bồ đề
của Phật quả mới viên mãn. Vậy nên ba loại bồ đề là bình đẳng hướng,
vô thượng bồ đề mới là thù thắng tướng. Phần vô thượng bồ đề
mà tự tánh là 4 trí này, tôn Thiên thai gọi là “thật trí bồ đề”.
Tương ưng của bồ đề: Ở đây
phải hiểu rằng tự tánh của 4 trí cũng vẫn là vô lậu huệ trong 5 tâm
sở biệt cảnh. Bốn trí là do chuyển 8 thức mà thành: chuyển đệ bát thức
thành đại viên cảnh trí, chuyển đệ nhất thức thành bình đẳng tánh
trí, chuyển đệ lục thức thành diệu quán sát trí và chuyển năm thức
thành thành sở tác trí. Bốn trí này, cố nhiên là ở giai đoạn vô lậu,
mỗi trí đều có 21 tâm vương và tâm sở tương ưng với nó: 1 là thức căn
bản tức tâm vương của nó, cộng với 11 thiện tâm sở, 5 biến hành, 4
biệt cảnh và nó, tức huệ tâm sở. Điều cần chú ý, là giai đoạn vô
lậu có nghĩa thuần thức tức trí, nên ẩn tâm vương thành một thứ tương
ưng mà đề cao trí làm chủ thể để khuyến khích phàm phu mê hoặc biết
mến trọng trí ấy.
Năng sanh của bồ đề: Bồ đề
do đâu mà có? Nói tóm tắt, bồ đề phát sanh và viên mãn được, là do 3
yếu tố: Nhân thì do chủng tử của vô lậu huệ làm nhân duyên, duyên
thì do thiện hữu (Chư Phật, Bồ Tát) và chánh pháp làm tăng thượng duyên,
do hữu lậu thiện dẫn phát vô lậu huệ làm đẳng vô gián duyên, và do cảnh
sở quán (cảnh thanh tịnh như tướng lão của chư Phật, cảnh khổ não như
khổ não của chúng sanh) làm sở nhân duyên.
Sở đoạn của bồ đề: Bồ đề
là trí giác năng đoạn, trí giác ấy đoạn trừ cái gì? Đoạn trừ nhị
chướng: đoạn được phân biệt ngã chấp (phiền não chướng) thì được
bồ đề của thanh văn và duyên giác, gọi là sanh không trí; đoạn hết chủng
tử cả câu sanh và phân biệt của ngã chấp và pháp chấp thì gọi là vô
thượng bồ đề. Luận nói: “Bồ đề, bồ đề đoạn và bồ đề xứ
đều gọi là bồ đề”. Bồ đề là nghĩa tự tánh, bồ đề đoạn là
nghĩa sở đoạn, còn bồ đề xứ là nghĩa sở duyên sau đây.
Sở duyên của bồ đề: Bồ đề là 4 trí bao gồm hết thảy tâm vương
và tâm sở tùy thuộc, nên hết thảy cảnh sở duyên của tâm vương và
tâm sở đều là cảnh của bồ đề. Thế nên bồ đề sở duyên là duyên
tất cả các pháp, không một pháp gì không biết. Nhất là lại biết cả
tự thể của nó và trong cảnh biến chiếu của bồ đề, chúng sanh cảnh
giới cũng như chư Phật cảnh giới đều do hậu đặc vô phân biệt trí sở
duyên, mà chân như pháp tánh cũng là sở duyên của căn bản vô phân biêt
trí. Ngoại trừ thành sở tác trí chỉ có hậu đắc vô phân biệt trí,
còn 3 trí kia đều đủ cả hai phần vừa nói.
Sở y của bồ đề: Bồ đề
cũng là một pháp, nhất là bồ đề lại chứng ngộ chân như, nên thể
tánh mà bồ đề nương dựa chính là chân như pháp tánh. Chính vì một khi
bồ đề đã hoàn toàn tương ưng với chân như rồi thì bởi chân như vốn
bất sanh diệt, nên bồ đề vĩnh viễn hiện hành mà không khi nào bị mê
hoặc chen vào nữa. Căn cứ vào cái nghĩa chân như là pháp tánh sở y của
bồ đề ở đây, tôn Thiên thai gọi là “chân tánh bồ đề”.
Sở khởi của bồ đề: Bồ đề
phát khởi ra những gì? Ở giai đoạn hữu lậu, hết thảy thân độ của
thức đều là sở khởi của thức, nên qua giai đoạn vô lậu, hết thảy
thân và độ (bao gồm cả tự thọ dụng thân độ, tha thọ dụng thân độ
và tùy loại hóa thân độ) đều do bồ đề hiện khởi. Nói tóm, hết thảy
y báo và chánh báo của Phật quả đều là sở khởi của bồ đề cả.
Sở tác của bồ đề: Việc làm
của bồ đề , tức diệu dụng của hết thảy thân độ nói trên, là “khai
thị trí giác Phật đà cho chúng sanh ngộ nhập”, nói cách khác là làm
cho chúng sanh phát bồ đề tâm để đoạn mê hoặc, chứng bồ đề. Vậy
nên sở tác của bồ đề chính là đại bi nguyện lực và đại bi phương
tiện của Phật quả. Gồm cả nghĩa trên và phần này, tôn Thiên thai gọi
là “phương tiện bồ đề”.
Giải thích bồ đề xong, bây giờ cắt nghĩa “bồ đề tâm”. Trong sự cắt nghĩa này
chỉ căn cứ vô thượng bồ đề mà nói về bồ đề tâm thôi. Bồ đề tâm
có 3 nghĩa: là tâm cầu bồ đề, tâm có bồ đề và bồ đề là tâm.
1) Tâm cầu bồ đề gọi là bồ đề
tâm, thì tâm ở đây là chí nguyện: Cái chí nguyện mong cầu làm sao
cho đạt được vô thượng bồ đề của Phật, mà không cầu bồ đề của
Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát, chí nguyện ấy gọi là bồ đề tâm. Phải
hiểu rằng bồ đề tâm như vậy, tức chí nguyện như vậy, cũng tức là
dục tâm sở trong 5 tâm sở biệt cảnh chứ không chi khác. Khi phát nguyện
“Phật trí vô thượng, thệ nguyện thành”, chính là dục tâm sở phát bồ
đề tâm đó.
2) Tâm có bồ đề gọi là bồ đề
tâm, tâm ở đây là chỉ cho hết thảy tâm vương và tâm sở đã tương
ưng với trí giác bồ đề mà bản thân là vô lậu huệ: Tâm vương và
tâm sở có trí giác bồ đề nên gọi là bồ đề tâm.
3) Bồ đề là tâm gọi là bồ đề
tâm, thì tâm ở đây vẫn là tâm vương và tâm sở, nhưng kể cả giai
đoạn hữu lậu và vô lậu, chứ không phải chỉ kể đến lúc đã tương
ưng với trí giác bồ đề. Còn chữ bồ đề ở đây cũng không phải chỉ
kể 4 trí hay căn nguyên 4 trí là huệ tâm sở; mà chính là cái đặc tính
tri giác chung của hết thảy tâm vương và tâm sở. Chính cái tri giác ấy
là khả năng của tri giác bồ đề và tri giác bồ đề chỉ là cái tri
giác ấy phát triển viên mãn. Như vậy, như đặc tính của tâm là tri
giác (bồ đề) nên tâm tức là bồ đề đó.
Bây giờ giải
thích từ ngữ “phát bồ đề tâm”.
Từ ngữ này có 4 nghĩa quan trọng sau đây:
1) Thệ nguyện
phát: tức lập
chí nguyện mong cầu bồ đề, gọi là phát bồ đề tâm. Như vậy chữ phát
nghĩa là lập, chữ tâm là thệ nguyện và bồ đề là vô thượng bồ đề.
Nghĩa này thông thường nhất.
2) Tự tánh phát: Tức là bản tánh bồ
đề tự phát hiện. Như vậy chữ phát ở đây là phát hiện ra, phát khởi
lên; chữ tâm là hết thảy tâm vương và tâm sở đang ở giai đoạn hữu
lậu; còn chữ bồ đề chính là đặc tính tri giác chung của hết thảy
tâm ấy. Nghĩa này chứng minh tâm như cánh tay vậy, đặc tính của cánh
tay là chỉ tỏ, nhưng chỉ xuống thì người ta bảo là ngược, rồi cũng
chính cái chỉ ấy mà chỉ lên thì người ta cho là xuôi. Tâm ta cũng vậy,
đặc tính là tri giác, là biết, nhưng biết sai thì gọi là mê hoặc, mà
quay lại vận dụng cái biết ấy cho đúng thì gọi là giác ngộ. Điều
quan trọng là do đặc tính tri giác của tâm (nói theo từ ngữ khác, là tự
tánh bồ đề) chứng minh tâm đã biết sai tức có thể biết đúng, chính
là mê rồi sẽ ngộ; vấn đề chỉ
ở chỗ biết quay cái biết ấy lại, vận dụng cho đúng thì tri giác sẽ
phát triển thành trí giác. Cho nên tri giác đến trí giác chỉ là đặc tánh
bồ đề của tâm: tự cái đặc tánh ấy phát hiện ra, làm tri giác thành
trí giác, thì gọi là tự tánh phát bồ đề tâm. Căn nguyên của sự tự
phát hiện này là bắt nguồn từ các chủng tử vô lậu, đặc biệt là chủng
tử vô lậu của huệ tâm sở. Chính do chủng tử này, vốn có như bao nhiêu
chủng tử khác, nên dầu mê hoặc luân hồi đến thế nào, một khi gặp
trợ duyện (sẽ nói sau đây) chúng cũng sẽ phát hiện làm cho tri giác
phát triển thành trí giác.
3) Trợ duyên
phát: Tức là tự
tánh bồ đề mà phát hiện được, mặc dầu bởi lẽ tự tánh vốn bồ
đề (đặc tánh vốn là tri giác) nhưng cũng phải do sự kích động, giúp
đở của các yếu tố khác, như thiện hữu dẫn dụ, chánh pháp huân tập
vân vân, mới phát hiện được.
4) Đẳng lưu
phát: Tức là tự
tánh phát như đã nói ở trên, tiếp tục phát triển. Nên đẳng lưu phát
là tự tánh bồ đề (tức là đặc tánh tri giác của tâm) mà căn nguyên
là chủng tử vô lậu huệ được liên tục phát triển cho đến hoàn
thành vô thượng bồ đề, bằng cách trải qua các bồ tát địa đoạn các
lớp vô minh mê hoặc, cho đến khi mê hoặc bị đoạn trừ rốt ráo thì bồ
đề được phát hiện rốt ráo.
Hiểu nghĩa
“phát bồ đề tâm” như vậy rồi, bây giờ ta nói đến tư tưởng căn
bản của Ngài Huệ Năng. Như đã nói, tư tưởng ấy biểu hiện trong câu:
“Tự tánh
bồ đề bản lai thanh tịnh, vận dụng tâm ấy tức nhiên thành Phật”.
Nói tự tánh bồ đề bản lai thanh tịnh là nói đến trí giác bồ đề
qua chân như tánh sở y (nghĩa thứ 8) tự tánh vô lậu huệ (nghĩa thứ 3),
nhất là căn cứ nghĩa “bồ đề tâm” mà nói. Nói vận dụng tâm ấy tức
nhiên thành Phật tức là nói tự tánh phát và đẳng lưu phát. Chính như vậy,
câu “Tự tánh bồ đề bản lai thanh tịnh, vận dụng tâm ấy tức nhiên
thành Phật” mới có nghĩa, mới thành tư tưởng căn bản, mới làm cho
Ngài Huệ Năng thành Ngài Huệ Năng đó.
Nhưng cái căn
bản này Ngài Huệ Năng được từ đâu? Ta nhớ lại rằng Ngài đã được
từ Kinh Kim Cang như lời Ngài tự thuật trong sự đắc pháp của Ngài. Mà
quả như vậy, vì chính kinh ấy Phật dạy ra là để đáp lại câu hỏi
chính sau đây, mà nói vắn tắt, cũng là phát bồ đề tâm:
“Nếu người
phát bồ đề tâm thì làm cách nào an trú (sống theo) tâm ấy? và làm cách
nào hàng phục (diệt trừ) tâm mình?”
Câu hỏi ấy
cần phải giải thích kỹ càng. Cứ như tất cả sự cắt nghĩa về “phát
bồ đề tâm” ở trên, ta có thể tóm tắt như sau. Phát bồ đề tâm có
2 giai đoạn: Trước hết, lập chí nguyện cầu vô thượng bồ đề, gọi
là phát bồ đề tâm; sau đó, làm cho trí giác bồ đề phát hiện và sự
phát hiện ấy liên tục phát triển cho đến viên mãn thành vô thượng bồ
đề, gọi là phát bồ đề tâm. Khi đã phát bồ đề tâm như vậy, tức
“Phật trí vô thượng thệ nguyện thành”, thì những việc “phiền não
vô tận thệ nguyện đoạn”, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” và
“pháp môn vô lượng thệ nguyện học” gọi là an trú bồ đề tâm, tức
là sống đúng theo bồ đề tâm ấy. Nhưng sự an trú ấy không thật hiện
nổi, gặp đủ mọi sự chướng ngại, là chính vì ngã chấp (phiền não)
và pháp chấp (mê hoặc); có đoạn trừ những thứ này mới an trú bồ đề
tâm được. Vậy câu hỏi là thế này: Phát bồ đề tâm thì làm cách nào
hàng phục tâm mình để an trú tâm ấy? Vấn đề ở chỗ làm cách nào đoạn
trừ được ngã chấp và pháp chấp để phát triển đến viên mãn vô thượng
bồ đề. Đáp lại, Phật dạy vắn tắt bằng câu “ưng vô sở trú nhi
sanh kỳ tâm”, một câu mà Ngài Huệ Năng đại ngộ khi mới nghe đến.
“Ưng vô sở
trú nhi sanh kỳ tâm”, nghĩa đơn giản là nên bằng cách vô sở trú mà vận
dụng tâm bồ đề. Vận dụng tâm bồ đề là an trú, là phát tâm bồ đề,
tức là đoạn vô tận phiền não, độ vô biên chúng sanh, học vô lượng
pháp môn để thành vô lượng trí giác. Nhưng sự vận dụng ấy sở dĩ bị
chướng ngại, nguyên nhân chính là do ngã chấp và pháp chấp, tức không
đạt được tánh chân không. Tánh chân không là bằng trí bát nhã, tức
vô lậu huệ, quán xét ngã và pháp vốn không thật. Vì không thật nên phiền
não có thể đoạn, chúng sanh có thể độ, pháp môn có thể học, trí
giác có thể thành, nói tóm, có thể an trú, nghĩa là phát triển trí giác
bồ đề thành vô thượng bồ đề.
Bởi vậy, nếu
nhất niệm bát nhã trí phát hiện, tương ưng với tánh chân như, thì hoát
nhiên đại ngộ ngã pháp đều không, không còn chấp trước (vô sở trú)
một thứ gì. Mà nhất niệm tương ưng thì niệm niệm tương ưng, làm cho
trí bát nhã (nghĩa thứ 3 của bồ đề) càng viên mã vá tánh chân như
(nghĩa thứ 8 của bồ đề) càng hiển lộ; bấy giờ bao nhiêu thân độ mới
thấy đều là các pháp vốn có, diệu dụng vốn sẵn (nghĩa thứ 9 và thứ
10 của bồ đề), nên khi nghe câu “ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm”,
Ngài Huệ Năng đại ngộ và than rằng: Đâu có dè tự tánh vốn tự thanh
tịnh, vốn bất sanh diệt, vốn tự viên mãn, vốn bất động chuyển, vốn
sanh vạn pháp!
Điều quan
trọng cần phải lặp lại, là nhất niệm trí bát nhã tương ưng với tánh
chân như, tức gọi là kiến tánh đó. Rồi khéo tự hộ trì, sao cho niệm
niệm tương ưng để trí bát nhã (thật trí bồ đề) triệt để viên mãn
và tánh chân như (chân tánh bồ đề) triệt để hiển lộ, thì công phu
ấy là sự tự tánh phát và đẳng lưu phát của bồ đề tâm mà Phật đã
dạy bằng chữ “sanh kỳ tâm” và Ngài Huệ Năng nói “vận dụng tâm
ấy” đó.
Như vậy là
tư tưởng căn bản của Ngài Huệ Năng đã được minh bạch. Vì tư tưởng
căn bản này, Ngài Huệ Năng đặc biệt trọng thị trí bát nhã. Điều ấy
phù hợp với sự “vận dụng tự tánh bồ đề bản lai thanh tịnh để
đi đến Phậy quả”. Như đã nói nhiều ở trên, Trí Bát Nhã chính là
vô lậu huệ, tức là bản thân của bồ đề. Trí ấy niệm niệm tương
ưng với Tánh Chân Như, tức là thật tánh của bồ đề, tìh sự niệm niệm
tương ưng ấy chính là sự tự tánh phát hiện và đẳng lưu phát triển của
Bồ đề đó. Cho nên đối với Trí Bát Nhã ta cần phải hiểu kỹ càng.
Trí Bát Nhã
cũng gọi là “vô phân biệt trí”, tức trí tuệ quán chiếu các pháp vốn
chân không, vốn đồng một thể tánh chân như. Trí ấy có 3 giai đoạn:
Khi đang dụng công mà chưa tương ưng với chân như thì gọi là “da hạnh
vô phân biệt trí”; đến giai đoạn đã tương ưng với chân như thì gọi
là “căn bản vô phân biệt trí”; sau đó phát khởi hằng sa trí dụng biết
rõ hằng sa các pháp thì gọi là “hậu đắc vô phân biệt trí”. Bốn
trí của vô thượng bồ đề, trừ thành sở tác trí chỉ có phần hậu đắc,
còn 3 thứ kia đủ cả những phần này. Cũng nên biết phần căn bản thường
gọi là chân trí hay nhất thế trí, phần hậu đắc thường gọi là tục
trí hay nhất thế chủng trí. Tuy nhiên, khi nói Trí Bát Nhã thì thông thường
nói đến hành tướng căn bản nhiều nhất. Ta hãy nghe nguyên văn sau đây,
những lời Ngài Huệ Năng tự thuật về Trí Bát Nhã.
“Tất cả
mọi người hãy tịnh tâm nhớ đến Ma ha bát nhã ba la mật đa!”. Ngài bảo
đại chúng như vậy rồi, một lát, lại nói: Các vị Thiện tri thức! Trí
Bát Nhã của Bồ đề là trí mà người đời ai cũng vốn tự có cả, chỉ
vì tâm mê mờ không thể tự ngộ, nên phải nhờ các vị Đại thiện tri
thức chỉ thị dẫn đạo làm cho kiến tánh. Các người phải biết người
ngu cũng như kẻ trí, Phật tánh vốn không sai biệt, chỉ vì mê và ngộ
không đồng mà có ngu có trí thôi. Nay tôi nói pháp Ma ha bát nhã ba la mật
đa cho các người, làm cho các người ai cũng được trí huệ cả. Vậy
các người hãy đế thính.
Các vị Thiện
tri thức! Người đời suốt ngày tụng bát nhã mà không biết đến tự tánh
bát nhã, thật như kẻ nói đến món ăn mà không bao giờ ăn để no bụng.
Nói suông như vậy, vạn kiếp cũng không được kiến tánh, thì có ích lợi
gì. Các vị Thiện tri thức! Ma ha bát nhã ba la mật là Phạn ngữ, dịch
là đại trí huệ đáo bĩ ngạn. Điều đó phải tâm làm, không chỉ miệng
nói. Miệng nói mà tâm không làm thì chỉ như huyễn hóa, như lộ điển mà
thôi; miệng nói tâm làm thì tâm miệng tương ưng, bản tánh là Phật chứ
không có gì khác nữa.
Ma ha là đại,
đại là tâm lượng quảng đại, in như hư không, không có giới hạn,
không hình không sắc, không thị phi, không ái ố; mười phương quốc độ
đều là hư không, diệu tánh vốn không, không có một pháp gì là thật,
chính đó: tự tánh chân không của mọi người. Các vị Thiện tri thức!
Nhưng đừng nghe tôi nói không thì liền chấp là không. Thứ nhất là đừng
chấp không. Cho dẫu không tâm tĩnh tọa thì cũng là cái không vô ký đó.
Các vị Thiện tri thức! Hư không kia mà vẫn bao hàm cả vạn tượng, hết
thảy nhật nguyệt tinh tú, sơn hà đại địa, khe suối sông ngòi, cỏ cây
rừng rú, người ác kẻ thiện, thiện pháp ác pháp, thiên đường địa ngục,
cho đến đại hải tu di cũng đều bao hàm trong hư không ấy; tự tánh
chân không cũng vậy. Các vị Thiện tri thức! Tự tánh chân không bao hàm vạn
pháp nên gọi là đại; vạn pháp ở cả nơi chân tánh mọi người; nên sự
dụng tâm là thấy điều ác cũng như thấy điều thiện của mọi người,
tâm mình không làm theo cũng không khước từ, không ghét bỏ cũng không
thiên vị, không nhiễm trước như hư không, nên gọi là đại. Các vị Thiện
trí thức! Các đại như vậy người mê chỉ miệng nói, kẻ trí thì tâm
hành. Lại có một hạng mê mờ không tâm tĩnh tọa, trăm điều không nghĩ
đến, bèn tự xưng là đại. Hạng người như vậy đừng bao giờ nói với
họ, bởi lẽ họ là tà kiến đấy. Các vị Thiện tri thức! Tâm lượng
quảng đại, châu biến pháp giới, dụng tức liễu liễu phân minh, quán
chiếu tất cả, tất cả là một, một tức tất cả, khứ lai tự tại,
tâm thể viên dung, chính đó: Trí Bát Nhã. Các vị Thiện tri thức! Toàn thể
Trí Bát Nhã đều từ tự tánh phát sanh, không phải đâu ở ngoài đem vào:
vận dụng tâm tánh như vậy mà đừng lầm đi, thì gọi là chân tánh tự
dụng, một chân thật thì tất cả đều chân thật. Tâm lượng chỉ dung
đại sự, không thể đi theo đường nhỏ. Miệng đừng suốt ngày nói
không mà trong tâm không tu hạnh đó. Làm như vậy không khác gì một kẻ tầm
thường tự xưng vua chúa mà không bao giờ làm vua chúa được.
Các vị Thiện
tri thức! Bát nhã là gì? Bát nhã dịch là trí tuệ, vậy nơi tất cả chỗ,
trong tất cả thời, phải niệm niệm không ngu, thường làm theo trí huệ,
như thế tức là hạnh bát nhã đó. Nếu một niệm ngu thì bát nhã mất,
mà một niệm trí thì bát nhã sanh. Thế nhân mê mờ, không thấy bát nhã,
miệng nói bát nhã mà trong tâm thường ngu; thường tự nói mình tu bát
nhã, niệm niệm nói không, mà không hề nhận thức được chân không. Bát
nhã không hình tướng, tâm trí tuệ là chính nó, lý giải được như vậy
gọi là Trí Bát Nhã.
Còn ba la mật
là gì? Chữ ấy dịch nghĩa là đáo bĩ ngạn, chính ý là cứu cánh ly phân
biệt. Hễ chấp cảnh thì phân biệt phát khởi, khác nào nước nổi sóng
cồn: ấy đó là thử ngạn. Hễ ly cảnh thì phân biệt không còn, như nước
vĩnh viễn lưu thông: chính đó là bĩ ngạn, nên mệnh danh là ba la mật.
Các vị Thiện tri thức! Người mê miệng nói, trong khi nói thì có vọng
có trái, nếu chứ niệm niệm thật hành thì gọi chân tánh. Ngộ pháp ấy
là pháp bát nhã, tu hạnh ấy là hạnh bát nhã. Không tu là phàm, mà nhất
niệm tu hành thì tự thân ngang Phật. Các vị Thiện tri thức! Phàm phu tức
Phật, phiền não tức bồ đề: niệm trước mê là phàm phu, niệm sau ngộ
là Phật; niệm trước vướng cảnh là phiền não, niêm sau ly cảnh tức bồ
đề.
Các vị Thiện
tri thức! Ma ha bát nhã ba la mật tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất,
không trú ở, không đến đi, tam thế chư Phật xuất sanh từ trong đó. Phải
dùng đại trí huệ đả phá ngũ uẩn phiền não trần lao, tu hành như vậy
quyết định thành Phật đạo, biến tham sân si thành giới định huệ. Các
vị Thiện tri thức! Pháp môn như vậy từ một Bát nhã sanh tám vạn bốn
ngàn trí huệ, tại sao, vì người đời có tám vạn bốn ngàn trần lao, nếu
không trần lao ấy tức là trí tuệ thường hiện, không ly tự tánh. Ngộ
pháp này tức không niệm, không nhớ, không vướng, không khởi mê vọng, vận
dụng tánh chân như của mình, dùng trí huệ quán chiếu, đối với tất cả
các pháp không lấy không bỏ, ấy đó: kiến tánh thành Phật vậy.
Các vị Thiện
tri thức! Nếu muốn nhập thậm thâm pháp giới, nhập bát nhã tam muội,
thì phải tu hạnh bát nhã, trì tụng Kinh Kim Cang, tức được kiến tánh.
Kinh ấy năng lực vô lượng vô biên, trong Kinh Phật đã tán dương rõ
ràng, ở đây không thể nói hết được. Pháp môn Kim Cang là tối thượng
thừa, Phật vì người đại trí mà nói, vì người người thượng căn mà
dạy; kẻ tiểu căn tiểu trí nghe tất tâm nghi ngờ, tại sao, ví như cơn
mưa dữ dội, thành ấp làng xóm gặp phải thì bị cuốn đi như cuốn chiếc
lá rụng vậy, nhưng gặp bể cả thì cơn mưa ấy không làm cho bể cả
thêm hay bớt. Bực đại thừa, bực tối thượng thừa hễ nghe kinh Kim Cang
thì tâm liền khai ngộ, biết bản tánh tự có trí bát nhã, nên thường tự
vận dụng trí huệ mà quán chiếu, không cần văn tự. Kinh Kim Cang mà gặp
Trí Bát Nhã của bản tánh chúng sanh cũng như cơn mưa lớn quay về bể cả
vậy, hợp lại một bản thể. Các vị Thiện tri thức! Người tiểu căn
nghe đốn giáo này thì cũng không khác chi cây cỏ mà gốc rễ không to, nếu
bị cơn mưa lớn tất phải tự ngã hết, không thể to lớn được. Người
tiểu căn, cái Trí Bát Nhã vốn có thì đâu có khác gì với kẻ đại trí,
vậy mà vì lẽ gì nghe pháp không tự khai ngộ? Ấy là bởi tà kiến nặng
nề, phiền não quá sâu, khác nào thái dương bị mây lớn che khuất, nếu
không được luồng gió mạnh thổi bạt đi thì ánh sáng thái dương ấy không
hiện ra được. Vậy nên Trí Bát Nhã không có đại căn tiểu cơ, chỉ vì
chúng sanh tự tâm hoặc mê hoặc ngộ mà không đồng nhau thôi. Hễ mê tự
tâm thì hướng ngoại tu hành tìm Phật, chưa ngộ tự tánh, như thế đó
là tiểu căn; còn nếu khai ngộ đốn giáo thì không chấp ngoài mà tu, cỉh
nơi tự tâm thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao không khi nào ô
nhiễm được, ấy đó là kiến tánh. Các vị Thiện tri thức! Trong ngoài
không mắc, khứ lai tự tại, trừ diệt tâm chấp trước, thông suốt vô
ngại: tu được hạnh như vậy là không sai khác gì với Kinh Bát Nhã hết.
Các vị Thiện tri thức! Hết thảy khế kinh và toàn thể văn tự đều vì
người mà đặt ra, đều do tánh trí huệ mà kiến lập được. Nếu không
bởi thế nhân thì hết thảy vạn pháp vốn tự không có, nên biết vạn
pháp vốn bởi người mà phát hiện, hết thảy kinh sách vì người mà nói
ra. Người có ngu có trí, ngu là tiểu căn, trí là đại cơ, người ngu học
hỏi người trí, người trí thuyết pháp cho người ngu, người ngu hoát
nhiên tâm trí khai ngộ thì không khác biệt gì với người trí hết. Các vị
Thiện tri thức! Không ngộ thì vốn là Phật mà làm chúng sanh, khi nhất niệm
ngộ được thì chúng sanh ấy là Phật. Vậy nên nếu biết vạn pháp đều
ở nơi tự tâm thì đốn kiến chân như tự tánh. Kinh Bồ tát giới có dạy
“ta vốn nguyên là tự tánh thanh tịnh, nếu biết tự tâm, thấy tự
tánh, là thành Phật đạo tất cả”. Kinh Tịnh danh cũng có dạy rằng “tức
thời hoát nhiên khai ngộ, được lại bản tâm”. Các vị Thiện tri thức!
Tôi ở nơi Ngài Hoằng Nhẫn Tổ Sư mới nghe, là ngay dưới câu nói tức
thì khai ngộ, đốn kiến chân như bản tánh, vậy nên đem giáo pháp ấy
truyền bá ra, làm cho những người học đạo đốn ngộ bồ đề, ai nấy
tự quán bản tâm, tự kiến bản tánh. Nếu tự mình không ngộ được thì
phải tìm đại thiện tri thức, tức những người đã lý giải pháp tối
thượng thừa, để họ trực thị đường chánh cho. Thiện tri thức là đại
nhân duyên, tức là hóa đạo làm cho ta được kiến tánh. Hết thảy thiện
pháp đều do Thiện tri thức mà phát khởi ra được. Tam thế chư Phật,
mười hai bộ kinh đều ở trong tâm tánh vốn tự có đủ, nhưng không tự
ngộ được thì phải cầu Thiện tri thức chỉ thị cho mới thấy, còn nếu
tự ngộ thì cần ngoại cầu. Tuy nhiên, nếu nhất định cho rằng phải có
Thiện tri thức để cậy nhờ giải thoát thì vô lý. Tại sao vậy? Vì
trong tự tâm có tri thức tự ngộ. Nếu khởi tà mê, vọng niệm điên đảo,
thì thiện tri thức ở ngoài du c chỉ dạy cũng không cứu chữa được. Nếu
khởi chân chánh bát nhã mà quán chiếu, thì ngay trong một sát na vọng niệm
diệt hết. Nếu biết tự tánh thì một khi giác ngộ tức đến Phật quả.
Các vị Thiện
tri thức! Trí huệ quán chiếu, nội ngoại minh triệt, biết tự bản tâm.
Nếu biết bản tâm tức được bản tánh giải thoát tức là Bát Nhã tam
muội. Bát Nhã tam muội là ly niệm. Ly niệm là gì? Là minh kiến tất cả
pháp, tâm không n hiễm trước. Như vậy dùng ra thì khắp tất cả mà
không trú ở vướng mắc một chỗ nào. Chỉ thanh tịnh tự tâm, xuất 6 thức
ra 6 căn mà đối với 6 trần vẫn không nhiễm không tạp, khứ lai tự tại,
thông dụng vô ngại, ấy đó là Bát nhã tam muội, tự tại giải thoát gọi
là hạnh ly niệm. Nếu trăm điều không nghĩ, tuyệt diệt tâm niệm, thì
đấy là đảo ngược pháp lại mà trói lấy mình, ấy là biên kiến. Các
vị Thiện tri thức! Ngộ pháp ly niệm thì vạn pháp đều thông đạt, ngộ
pháp ly niệm thì thấy cảnh giới chư Phật, ngộ pháp ly niệm thì đến
Phật địa.
Các vị Thiện
tri thức! Ai được thì đem pháp môn đốn giáo này chuyền cho những người
đồng thấy đồng làm, phát nguyện thọ trì như là thờ Phật vậy, chung
thân không lùi bước. Ấy vậy, muốn vào thánh vị phải truyền thọ pháp
này. Nhưng từ xưa đến nay chỉ mặc nhiên truyền thọ. Tuy không được dấu
pháp này, nhưng những người không thể đồng thấy đồng làm, thì hãy hướng
dẫn họ bằng pháp khác, không được truyền phú pháp này, vì lẽ chỉ tổn
hại cho họ mà tuyệt đối không ích lợi gì. Tôi căn dặn như vậy là
vì e người ngu không hiểu thì sẽ phỉ báng pháp môn này, khiến họ trăm
kiến ngàn đời đoạn Phật chủng tánh.
Cuối cùng,
Ngài Huệ Năng có nói một bài tụng mà Ngài mệnh danh là vô tướng, và
nói không kể tại gia hay xuất gia, đều có thể và phải tu theo bài tụng
ấy. Mà quả vậy, bài tụng vô tướng thật là quan trọng. Nội dung không
những diễn đạt tư tưởng căn bản của Ngài Huệ Năng, mà còn bao gồm
hết thảy tư tưởng đặc thù và an lạc diệu hạnh của Ngài nữa, nên
cuốn sách này để vào đoạn cuối cùng biến thành bài tổng kết về
Ngài Huệ Năng.
2
TƯ TƯỞNG ĐẶC
THÙ
1. Thuyền
Ngài Huệ Năng
là vị Tổ Sư thứ năm của Thuyền Tôn Trung Hoa, như vậy một trong những
tư tưởng đặc thù của Ngài mà ta phải nói trước hết, là Thuyền.
Thuyền là gì? Nguyên trong toàn bộ Phật giáo, Thuyền là một hệ thống
phương pháp có tính cách thực tiễn từ đầu chí cuối, nhắm mục đích
làm cho “tâm nhất cảnh tánh”, nghĩa đơn giản là chuyên nhất cho đến
đồng nhất với đối tượng mà trí mình quán sát. Trong những bước đầu
tiên, và chỉ những bước ấy mà thôi, Thuyền nhu cầu những điều kiện
cần thiết sau đây: ở một nơi thích hợp, điều hòa sự ăn uống và cơ
thể, quyết tâm và kiên nhẫn. Tổng hợp toàn bộ của Phật giáo về Thuyền,
ta có thể thấy những mục phiêu đã tạo thành những đặc chất rõ rệt
như sau: điều hòa cơ thể và tâm lý thành một trạng thái không loạn động
một cách thụ động như sổ tức quán chẳng hạn; hướng tâm lý tập
thành và phát triển trong những đức lý như từ bi quán chẳng hạn; hướng
tâm trí về sự thật để chuyển nếp sống phù hợp sự thật ấy như nhân
duyên quán chẳng hạn; cứu xét căn nguyên của các pháp mà thực chất chỉ
là các ý niệm biểu hiện, để thể nghiệm bản chất đồng nhất và
chân thật, như tứ như thật trí sắp lên–mục phiêu này đã phá vớ
lãnh vực của bản ngã; sau hết, thấu hiểu được đặc tính và sự
liên hệ của từng pháp một và hoạt dụng được nó như pháp giới quán
chẳng hạn. Điều cần chú ý hơn nữa, là Thuyền, tức định, không phải
tách biệt và có trước hay sau huệ. Định và huệ vốn là 2 tâm sở được
áp dụng với một đối tượng: sự chuyên nhất vào đối tượng ấy là
định, sự quán sát đối tượng ấy là huệ. Chỉ trong mục phiêu cơ bản
của những bước đầu tiên, mới thấy sự chuyên nhất phải đi trước mà
thôi. Thuyền, như vậy, có phải là một chương trình bắt buộc không?
Không. Bởi lẽ hoặc do một trình độ đặc biệt, hoặc do người hướng
dẫn đặc biệt, tuy trường hợp này rất hiếm, mà Thuyền bước vào được
ở đâu tốt ở đó. Duy những kẻ thậm chí 4 thánh chủng–biết vừa đủ
trong sự ăn, mặc và ở, ham thích như một nhu cầu về sự làm điều thiện–là
điều kiện cơ bản mà cũng chưa có như chúng ta, thì những mục phiêu của
Thuyền phải thành một chương trình mà không nên có cái cuồng vọng vượt
bực.
Nói đại lược về Thuyền rồi, bây giờ ta nói đến Thuyền của
Thuyền tôn. Thuyền ấy quả đã đến một cấp bực không thấy. Ta có thể
đặt vị trí mà không thấy nghi ngờ mấy, khi nói Thuyền của Thuyền tôn
là “tứ như thật trí” sắp lên. Chính bởi lẽ đó, Thuyền ấy đi hẳn
vào cương vị “thuận theo tánh không loạn động của chân như”, và những
kẻ trình độ chưa thấu hay thiếu người dẫn đạo, đều bị cái bệnh
“cuồng thuyền” cả. Một điều nên chú ý là vị tất những người
được Thuyền của Thuyền tôn đã qua hết thập-hồi- hướng và sắp hết
da-hạnh-vị để đương nổi Thuyền của tứ như thật trí sắp lên; mà
vì phước duyên thâm hậu, vì gặp được người dẫn đạo mà Ngài Huệ
Năng mệnh danh là đại thiện tri thức, thì muôn một cũng có người có
thể “nhất niệm tương ưng” hoát nhiên khai ngộ, rồi khéo tự hộ niệm
nên “niệm niệm tương ưng”, thì trường hợp này chính là đa số các
vị đắc pháp trong Thuyền tôn, kiến tánh thành tổ sư đó. Nhưng “nhất
niệm tương ưng” thì đồng, mà chính vì “niệm niệm tương ưng” bởi
công phu “khéo tự hộ niệm”, nên sâu cạn không phải không cách nhau cả
trời vực.
Bây giờ ta hãy lắng nghe Ngài Huệ Năng dạy về Thuyền của Thuyền
tôn. Trước hết, đây là danh hiệu của Thuyền, những danh hiệu phù hợp
với khế kinh: “Bát nhã tam muội là ly niệm. Ly niệm là gì? là minh kiến
tất cả pháp, tâm không nhiễm trước”. “Các vị Thiện tri thức! Nhất
hạnh tam muội là nơi tất cả chỗ, không kể đi đứng nằm ngồi, thường
thuần nhất trực tâm. Thế nên kinh Tịnh danh có dạy “Trực tâm là đạo
tràng, trực tâm là tịnh độ”. Như vậy không nên tâm hạnh quanh co, chỉ
miệng nói chất trực; không nên nhất hạnh tam muội mà không hành theo trực
tâm. Chỉ và phải thực hành trực tâm, nghĩa là đối với tất cả pháp
đừng có chấp trước. Người mê mờ chấp trước pháp tướng, chấp nhất
hạnh tam muội, bảo rằng hãy ngồi yên đừng động đậy, đè nén không
cho tâm niệm mống lên, rồi nói đấy là nhất hạnh tam muội, thì hiểu
như thế thật ra chỉ làm cho mình đồng với loài vô tri giác, và đảo
ngược lại, chính nó làm trở ngại cho Thuyền đó”.
Thuyền, tức định như vậy, liên quan với huệ như thế nào? Ngài
Huệ Năng dạy: “Định huệ là một, không phải hai. Định là thể của
huệ, huệ là dụng của định. Khi huệ thì định ở nơi huệ, khi định
thì huệ ở nơi định. Như thế đó gọi là định huệ đẳng học. Các
người học đạo đừng nói định trước huệ sau, hay định sau huệ trước.
Hiểu như vậy là tách biệt pháp thể ra là hai ý niệm đối lập. Rồi miệng
nói thì hay mà trong tâm không quý gì cả, chỉ có cái tiếng định huệ mà
định huệ không đồng nhất. Nếu tâm với miệng đều quý, trong ngoài
là một, thì định huệ đồng đẳng, điều ấy hãy tự ngộ mà tu hành,
chứ không ở nơi sự tranh luận. Tranh luận trước sau thì không khác gì
những kẻ mê mờ, không khử hết được cái niệm hơn thua, như vậy chỉ
tăng thêm ngã pháp và không thoát được bốn tướng. Các vị Thiện tri thức!
Định huệ như ánh sáng cây đèn vậy: có đèn thì sáng, không đèn thì tối,
cây đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của cây đèn, danh từ
tuy hai mà bản thể chỉ có một. Định huệ cũng y như vậy đó”.
Bản chất của Thuyền như thế nào? Ngài Huệ Năng dạy: “Các vị
Thiện tri thức! Tọa thuyền là thế nào? Trong pháp môn này, sự không chướng
ngại, tức đối với tất cả cảnh giới phân biệt không phát khởi, như
vậy gọi là “tọa”, tự tánh bất động gọi là “Thuyền”. Các vị
Thiện tri thức! Thuyền định là gì? Ngoài ly tướng là Thuyền, trong
không loạn là định. Ngoài mà trước tướng thì trong liền loạn động,
ngoài nếu ly tướng thì thì trong tâm liền không loạn động. Bản tánh tự
tịnh, tự định, chỉ vì phân biệt và vướng mắc cảnh giới nên loạn
động. Vậy nếu đối cảnh mà tâm không loạn, đó mới thật là định.
Các vị Thiện tri thức! Kinh Bồ tát giới có dạy rằng: Ta vốn nguyên tự
tánh thanh tịnh. Vậy nên trong niệm niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự
tu tự hành thì tự thành Phật quả”.
Nói tóm, Thuyền như vậy có thể nói vắn tắt là ly niệm, tức thuận
theo tự tánh bất động mà đối cảnh vô phân biệt. Thuyền như vậy quả
thật là quá khó và chính vì quá khó mà quá dễ dàng bị lạm dụng, tạo
thành những người mà Thuyền tôn gọi là “cuồng thuyền” và sở tu của
họ chỉ là “thuyền bịnh”. Hạng này xưa không ít mà nay cũng không phải
không có. Đặc chất của họ là tự hào vô tướng, là nói tánh mà thôi.
Nhưng không biết họ sẽ nghĩ thế nào khi nghe chính Ngài Huệ Năng–mà mặc
nhiên họ tự cho là đồ đệ của Ngài, đã thống trách như sau: “Thứ
nhất là đừng chấp không; cho dẫu không tâm tĩnh tọa thì cũng là cái
không vô ký đó”. “Lại có một hạng mê mờ không tâm tĩnh tọa, trăm
điều không nghĩ đến, bèn tự xưng là đại; hạng người như vậy đừng
bao giờ nói với họ, bởi lẽ họ là tà kiến đấy”. “Nếu trăm điều
không nghĩ, tuyệt diệt tâm niệm, thì đấy là đảo ngược pháp lại mà
trói lấy mình, ấy là biên kiến”.
Thuyền như vậy, tầm dụng tâm sơ đẳng khởi sự từ đâu? Bản chất
của Thuyền là “thường không nhiễm ô” nên khởi sự là thuận ngôn,
là tuyệt thị phi. Hãy nghe Ngài Huệ Năng dạy: “Thuyền vốn không chấp
tâm, không chấp sự thanh tịnh, cũng không chấp sự bất động. Chấp tâm
làm sao khi vọng tâm chỉ như huyễn hóa. Còn sự thanh tịnh thì tự tánh vốn
thanh tịnh, chỉ vì vọng niệm khuất lấp chân như, vậy chỉ ly niệm là
tánh tự thanh tịnh, chứ nếu khởi tâm chấp thanh tịnh thì đảo lại thành
một thứ thanh tịnh hư vọng; nhưng hư vọng vốn không thực thể, chính sự
chấp trước là hư vọng đó, vậy nên sự thanh tịnh vốn vô tướng, đừng
nên dựng lên tướng thanh tịnh nói đó là dụng công, làm như vậy chỉ
chướng ngại tự tánh, đảo lại, bị chính sự thanh tịnh ràng buộc đó.
Còn sự bất động mà muốn thực tập, thì chỉ thấy mọi người mà đừng
tìm thị phi thiện ác của họ, ấy đó là tự tánh bất động, chứ nếu
làm như những kẻ mê mờ thì thân tuy không động mà mở miệng là nói đến
thị phi trưng đoản của kẻ khác, như vậy thực là trái ngược đạo pháp”.
“Vạn pháp ở cả nơi chân tánh, nên sự dụng tâm là thấy điều ác cũng
như điều thiện của mọi người, tâm mình không làm theo cũng không khước
từ, không ghét bỏ cũng không thiên vị; không nhiễm trước như hư không...
Điều ấy người mê chỉ miệng nói, kẻ trí thì tâm hành”.
Sau hết, hã nghe Ngài Huệ Năng tổng kết về Thuyền: “Các vị Thiện
tri thức! Pháp môn này xưa nay vốn tôn chỉ là vô niệm, thể tánh là vô
tướng và căn bản là vô trú. Vô tướng là đối cảnh mà ly cảnh. Vô niệm
là niệm mà ly niệm. Vô trú là bản tánh đối với hết thảy thiện ác
cho chí thân thù, ngay khi bị khiêu khích, châm biếm, khinh thường và chiếm
đoạt, đều không hết, không nghĩ đến sự trả đũa, tác hại, niệm niệm
không nghĩ đến đối tượng đã thấy nghe; nếu niệm trước, niệm hiện
tại, niệm sau, niệm niệm liên tục, thì chính đó: sự ràng buộc lấy
mình, vậy nên đối cảnh không trú ở bằng niệm niệm liên tục, thì
chính đó: sự giải thoát; vì vậy, vô trú là căn bản của pháp môn này.
Các vị Thiện tri thức! Ly hết thảy các tướng gọi là vô tướng, ly tướng
là pháp thể thanh tịnh, nên lấy vô tướng làm thể tánh. Các vị Thiện
tri thức! Đối cảnh tâm không nhiễm, gọi là vô niệm; nơi tâm niệm thường
ly cảnh, không đối cảnh sanh tâm, nếu chỉ trăm điều không nghĩ, tuyệt
bỏ cái niệm đi, thì một niệm tuyệt bỏ tức là chết mất và thọ sanh
ở chỗ khác, chính đó là sự lầm lạc to lớn mà người học đạo phải
suy nghĩ; và không thấu hiểu được ý chỉ của pháp này mà tự lầm
mình thì còn khả thứ, nếu đem ra khuyến dụ người khác, thì thật mê mờ
mà không thấy lại còn phỉ báng cả kinh sách của Phật nữa, bởi vậy lập
vô niệm làm tôn chỉ. Các vị Thiện tri thức! Bởi những kẻ mê mờ miệng
nói kiến tánh mà đối cảnh thì niệm, niệm tức tà kiến nổi lên, hết
thảy trần lao vọng tưởng đều phát sanh từ đó, mà tự tánh thì vốn
không có một pháp gì nắm được, nếu có một cái gì nắm được mà
nói họa phúc–thì họa là cố định không thể sám hối trừ bỏ, phúc
là cố định không thể phát sanh và phát triển–chính đó là tà kiến,
nên pháp môn này lập vô niệm làm tôn chỉ. Các vị Thiện tri thức! Vô
là vô cái gì? Niệm là niệm cái gì? Vô là không có 2 ý niệm đối lập,
tức không có trần lao (nói tóm, không phân biệt). Niệm là niệm bản
tánh chân như. Chân như là thể của niệm, niệm là dụng của chân như;
niệm mà thuận dụng chân như tự tánh, thì 6 căn tuy thấy nghe hay biết mà
không nhiễm vạn cảnh, chân tánh thường tự tại, thế nên khế kinh dạy
rằng: khéo nơi sự phân biệt các pháp, thì đệ nhất nghĩa không loạn động”.
2. Kiến tánh
Nói đến Thuyền là nói đến “kiến tánh”, một đặc trường của
Thuyền tôn. Vì vậy, xét về Thuyền của Ngài Huệ Năng xong, ta hãy xét tư
tưởng về “kiến tánh”của Ngài. Do tư tưởng về Thuyền mà ta đã thấy
ở trên, chúng ta có thể thấy không phải kiến tánh mới có Thuyền, lại
càng không phải Thuyền đem lại sự kiến tánh. Chính Thuyền là kiến
tánh rồi đó. Tuy nhiên, trên cách trình bày cũng như cái dụng nói theo
danh từ, kiến tánh là căn bản mà Thuyền là “khéo tự hộ niệm”, là
phát tiển sự kiến tánh ấy.
Kiến tánh, nghĩa đen là thấy tánh, diễn đạt thành từ ngữ thấy
bản tánh hay thấy tự tánh, hay rõ ràng hơn, thấy tự tánh chân như. Điều
phải tìm hiểu là thấy như thế nào? tánh là gì?
Duy thức học phân tích mỗi sự Biết, bao quát hết thảy thấy nghe
hay biết, có 3 giai đoạn–mặc dầu thực sự chỉ thoáng cái là đủ cả:
Trước tiên là tự tánh, nghĩa là chỉ biết đối tượng mà thôi; kế đó
là kế đạt, tức nhận định tốt hay xấu; tiếp theo là tùy niệm, tức
ý niệm ưa hay ghét. Gia đoạn tốt hay xấu, ưa hay ghét là phiền não rồi
đó. Rồi ưa thì chiếm đoạt, ghét thì chống đối: hành động như vậy
gọi là nghiệp. Điều quan trọng trong sự phân tích ấy. là để ta thấy
rõ qu asát na tự tánh chỉ biết thuần túy rồi, đến kế đạt tốt xấu
và tùy niệm ưa ghét, là căn cứ vào đâu mà tốt xấu ưa ghét? Chính là
căn cứ vào sở thích của mình mà thôi. Thế cho nên đối tượng đến 2
giai đoạn này không còn nguyên vẹn và chính xác của chân tướng, mà thực
sự là sở thích tạo nên hình ảnh riêng biệt của sở thích: hình ảnh
ấy càng hợp với sở thích càng không có nơi chân tướng của đối tượng,
mà chỉ được kết hợp bởi tiếng gọi (danh) và ý niệm (tướng) mà
thôi. Do đó, sự Biết mất thăng bằng, rối loạn trong đời sống phiền
não. Đời sống ấy, như vậy, càng phù hợp sở thích nghĩa là càng khía
cạnh, thì càng xa chân tướng có tính cách đơn thuần và toàn diện (nói
theo chân lý) và chiếm đoạt cho mình cái hợp sở thích đồng thời trút
bỏ cho người cái trái sở thích (nói theo luân lý). Đời sống ấy là đời
sống mê mờ.
Như vậy, chính xác là sự Biết ở giai đoạn tự tánh vốn khôngtội
lỗi gì hết, nhất là cái Biết ấy rất chánh xác đối với chân tướng
của đối tượng, nên Duy thức học mệnh danh là hiện lượng. Đối tượng
của hiện lượng, như vậy, là đối tượng đơn thuần và toàn diện,
nguyên vẹn, đối tượng ấy Duy thức học mệnh danh là tánh cảnh. Hiện
lượng và tánh cảnh như vậy là toàn diện của chân như mà danh từ
chánh xác gọi là ly ngôn pháp tánh. Hễ phản bản hoàn nguyên, víu lấy hiện
lượng và tánh cảnh như vậy, tức là đời sống giải thoát đó.
Duy thức học còn nói rõ ràng đệ lục thức là công thủ tội khôi
trong 2 đời sống đó. Nó mạnh nhất trong sự kế đạt và tùy niệm, nhưng
huệ tâm sở của nó nếu nhất niệm tương ưng với hiện lượng, rồi khéo
tự hộ niệm để niệm niệm liên tục tương ưng, thì sẽ đến giai đoạn
thuần hiện lượng duyên chân như tánh cảnh, bấy giờ gọi là căn bản vô
phân biệt trí (bát nhã trí). Rồi do căn bản đó, tức thuận tánh khởi dụng,
muôn ngàn trí dụng hoạt dụng các pháp, hoàn thành hậu đắc vô phân biệt
trí.
HIểu như vậy rồi, bây giờ nói cương vị của sự kiến tánh.
Cùng một nhận định với Duy thức học, Thuyền tôn cũng phân tích sự Biết
ra đệ nhất phong đầu, nghĩa đen là ngọn núi thứ nhất và ngọn núi thứ
hai, diễn đạt sự khó bám víu của sự Biết. Đệ nhất phong đầu là tự
tánh, đệ nhị phong đầu là kế đạt và tùy niệm. Đệ nhị phong đầu
còn được gọi là tương tục tâm, một danh từ rất đúng để diễn đạt
cái tính cách thêm thắc, nối đuôi một cách vô lý. Còn kiến tánh là đệ
nhất phong đầu, chỉ hiện lượng biết tánh cảnh. Như chúng ta đã được
nghe, Ngài Huệ Năng dạy điều này rất chính xác: “Niệm niệm không nghĩ
đến đối tượng đã thấy nghe; nếu niệm trước, niệm hiện tại, niệm
sau, niệm niệm liên tục không cắt đứt (trong sự ưa ghét và chiếm đoạt
chống đối), thì chính đó: sự ràng buộc lấy mình; vậy nên đối cảnh
không trú ở bằng niệm niệm tương
tục (mà chỉ niệm niệm tương ưng với đệ nhất phong đầu một cách
khéo tự hộ niệm) thì chính đó: sự giải thoát”.
Như vậy là ta có thể tạm chấm dứt ở đây lời tiểu dẫn về kiến
tánh. Nhưng trước khi chấm dứt, câu hỏi này tự nhiên phải được đặt
ra và giải đáp: Nếu sự kiến tánh là đệ nhất phong đầu như vậy, thì
đáng lẽ ai cũng sống với nó trước khi đến đệ nhị phong đầu, nhưng
tại sao thấy có vẻ trái ngược, chúng ta chỉ sống với đệ nhị phong
đầu và chắc chắn là vì nó mà lấn át đệ nhất phong đầu, làm cho ta
không bám víu được? Đúng là như vậy. Đệ nhị phong đầu tuy là “tương
tục tâm” mà thôi, nhưng khốn nỗi, lụy kiếp thiên sanh ta càng sống
càng bồi đắp cho nó, đến nỗi tập khí nó tạo thành sức mạnh lấn
át và khuất lấp đệ nhất phong đầu đi, làm cho ta hiện lượng vẫn
thường trú, bao giờ cũng có trước và là căn bản của sự Biết, vậy mà
cơ hồ như đối cảnh ta chỉ có và chỉ sống với “tương tục tâm”.
Và như đã nói tính chất nó qua giai đoạn kế đạt và tùy niệm, “tương
tục tâm” tính chất của nó bao giờ đối cảnh cũng có 2 ý niệm đối
lập: nhìn một vật cũng như nghe một tiếng , hễ tốt thì không phải xấu,
xấu thì không phải tốt, trung tính thì không tốt xấu. Bởi vậy, nỗ lực
mà sống được với cái Biết đơn thuần thì lần lần trừ được “tương
tục tâm” biểu hiện 2 ý niệm đối lập tạo ra bao nhiêu trần lao phiền
não ấy. Ngài Huệ Năng đã dạy: “Vô là không có 2 ý niệm đối lập, tức
không các trần lao”. Thấy cái sức mạnh của đệ nhị phong đầu thì đáng
sợ thật, nhưng thấu hiểu đệ nhất phong đầu mới là căn bản thường
trú, nên thật chúng ta đã có một lòng tin kiên cố. Do đó, nếu trình độ
kém, nếu không gặp được đại thiện tri thức, nhưng y theo vị thứ của
Thuyền mà thực tập thì sự kiến tánh ta sẽ đạt được một cách chắc
chắn, mặc dầu không bằng và không may mắn như những người trong muôn một,
có một trình độ lợi căn, có túc duyên thâm hậu, hoặc gặp được đại
thiện tri thức nên nhất niệm tương ưng, hoát nhiên khai ngộ.
Bây giờ đến đây chúng ta đã có thể lắng nghe Ngài Huệ Năng dạy
về tư tưởng kiến tánh của Ngài. Trước hết, bản tánh vốn thanh tịnh
và kiến tánh mới thành Phật: “Các vị Thiện tri thức! Tự tánh bồ đề
bản lai thanh tịnh, vận dụng tâm ấy tức nhiên thành Phật”. “Bồ đề
vốn không phải cây bồ đề, gương sáng cũng không phải đài gương sáng,
tự tánh bản lai không có một vậ tgì ô nhiễm, thì lau chùi bụi bặm nơi
chỗ nào?” Nhưng chính vì bản tánh thanh tịnh, nên đối cảnh vô sở
trú là kiến tánh, thấy bản tánh đủ cả: “Đến câu ưng vô sớ trú
nhi sanh kỳ tâm, ngay nơi câu nói ấy tôi liền đại ngộ tất cả vạn pháp
không rời tự tánh, bèn bạch với Tổ Sư Hoằng Nhẫn: đâu có dè tự
tánh vốn tự thanh tịnh, vốn bất sanh diệt, vốn tự viên mãn, vốn bất
động chuyển, vốn sanh vạn pháp!”. Và Ngài dẫn lời Phật dạy: “Kinh
Bồ tát giới có dạy: Ta vốn nguyên tự tánh thanh tịnh, vậy nên trong niệm
niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành thì thành Phật quả”.
Bản tánh là như vậy, thì cần chi phải dụng công tu chứng? Câu hỏi
này thật là định lý, không những của Thuyền tôn mà còn là của toàn bộ
Phật pháp đối với bản tánh, một câu nói được Ngài Huệ Năng nhận
định là kiến tánh: “Tu chứng tức bất vô, nhiễm ô tức bất đắc”.
Cần phải tu chứng nhưng thực sự thì sự nhiễm ô vốn không thực thể,
chính vì nhiễm ô vốn không thực mà phải tu chứng bản tánh thanh tịnh
và nhất là có thể tu chứng được. Ở một giai đoạn tu chứng sâu hơn,
câu ấy lại có nghĩa tu chứng là phải niệm niệm tương ưng với đệ nhất
phong đầu (bản tánh thanh tịnh) vì lẽ đệ nhất phong đầ ubản lai vốn
không có, không bị sự ô nhiễm của đệ nhị phong đầu; đệ nhị phong
đầu thực sự chỉ là một trạng thái rối loạn như mắt bị quáng mà
thôi, không phải sự quáng ấy có thực ngoài con mắt.
Bản chất của kiến tánh là gì? Kiến tánh là thế nào? Hãy nghe
Ngài Huệ Năng dạy: “Nơi tất cả chỗ, trong tất cả thời, phải niệm
niệm không ngu, thường làm theo trí tuệ, như thế tức là hạnh bát nhã
đó”. “Không vướng không khởi mê vọng, vận dụng tánh chân như của
mình, dùng trí tuệ quán chiếu, đối với tất cả các pháp không lấy
không bỏ, ấy đó: kiến tánh tác Phật”. Kiến tánh, như vậy, là cần
phải vượt trên lãnh vực của danh từ và ý niệm, thể nghiệm chân tướng
đơn thuần và toàn diện: “Phải biết bản tánh tự có cái trí bát nhã
và tự dùng trí ấy mà thường thường quán chiếu, chứ không liên hệ đến
văn tự”. Bởi vậy, đây là lời dạy quan trọng hết sức cho sự kiến
tánh: “Chỉ ở nơi tự tâm thường phát khởi chánh kiến làm cho trần
lao phiền não không thể nhiễm ô, ấy tức là kiến tánh”. Cho nên: “Các
vị Thiện tri thức! Việc chánh của chúng ta là phải từ tự tánh mà khởi
dụng, trong tt cả thời niệm niệm tự tịnh tâm mình, tự tu tự hành để thấy đức Phật của tự tâm;
phải tự hóa độ theo tự tánh và phải tự tu theo giới pháp của tự
tánh mới được”. Nói tóm, “Ngu mê tạo tội là tự mở tri kiến chúng
sanh ra đó, mà chánh tâm quán chiếu tự tánh, bỏ ác làm lành là tự mở
tri kiến chư Phật vậy; phải niệm niệm mở tri kiến chư Phật mà đừng
khai tri kiến chúng sanh”.
Hễ kiến tánh thì tự cụ túc hết thảy công đức và diệu dụng:
“Phải dùng đại trí tuệ đả phá ngũ uẩn phiền não trần lao, tu hành
như vậy quyết định biến tham sân si thành giới định huệ, như vậy từ
một bát nhã trí sanh tám vạn bốn ngàn trí, vì người đời có bốn vạn
tám ngàn trần lao, nếu không trần lao ấy tức là trí huệ thường hiện,
không ly tự tánh”. “Thường kiến bản tánh thì chân thật diệu dụng,
đó gọi là công đức”. “Người kiến tánh thì cũng lập được–tức
lập tất cả điều thiện, phá cũng được–tức phá hết thảy điều
ác, khứ lai tự tại, không vướng mắc, không trở ngại, tùy trường hợp
mà hoạt dụng, theo ngữ khí mà đối đáp, phổ hiện diệu dụng mà không
ly tự tánh”. Nói tóm, “tự tâm thường sanh trí huệ, không rời tự
tánh tức là phước điền”, nên điều tối kỵ và tối thận trọng, là
“Các người cẩn thận, đừng quán sự yên tĩnh và làm trống không tâm
mình; tâm tánh vốn thanh tịnh, không có chi đáng giữ, cũng không có chi cần
bỏ; hãy nỗ lực và hãy tùy duyên hoằng dương đạo pháp và giáo hóa quần
sanh”.
Kiến tánh, như vậy, tuy không phải cầu ở người khác, nhưng sự dẫn
đạo của các vị Đại thiện tri thức là yếu tố quan trọng. “Trí Bát
nhã của bồ đề là trí mà người đời ai cũng vốn tự có cả, chỉ vì
tâm mê mờ không thể tự ngộ, nên phải nhờ các vị Đại thiện tri thức
chỉ thị dẫn đạo làm cho kiến tánh”. “Cái trí Bát Nhã vốn có thì
đâu có khác gì với kẻ đại trí, vậy mà vì lẽ gì nghe pháp không tự
khai ngộ? Ấy là bởi vì tà kiến nặng nề, phiền não quá sâu, khác nào
thái dương bị mây lớn che khuất, nếu không được luồng gió mạnh thổi
bạt đi thì ánh sáng thái dương ấy không thể hiện ra được”. Vậy nên
“người ngu học hỏi người trí, người trí thuyết pháp cho người ngu,
người ngu hoát nhiên khai ngộ thì cùng với người trí không khác biệt
gì hết”. Sau hết, muốn kiến tánh “thì phải tu hạnh bát nhã, trì tụng
Kinh Kim Cang, tức được kiến tánh”.
Một khi kiến tánh thì đương xứ đại dụng: “Các vị Thiện tri
thức! Toàn thể trí bát nhã đều từ tự tánh phát sanh, không phải đâu
ở ngoài đem vào: vận dụng tâm tánh như vậy mà đừng lầm đi, thì gọi
là chân tánh tự dụng, một chân thật tất cả đều chân thật. Tâm lượng
chỉ dung đại sự, không thể đi theo đường nhỏ”. “Minh kiến tâm
tánh, tâm không nhiễm trước, như vậy, dùng ra thì khắp tất cả mà
không trú ở vướng mắc một chỗ nào: Thanh tịnh tự tâm thì xuất 6 thức
ra 6 căn mà đối với 6 trần vẫn không nhiễm, không tạp, khứ lai tự
tai, thông dung vô ngại”. “Niệm mà thuận dụng chân như tự tánh thì 6
căn tuy thấy nghe hay biết mà không nhiễm vạn cảnh, chân tánh thường tự
tại, thế nên khế kinh dạy rằng: khéo nơi sự phân biệt các pháp thì đệ
nhất nghĩa không loạn động”.
Bởi vậy, “Nhược năng tỏa mộc xuất hỏa, ứ nê định sanh hồng
liên: nếu nỗ lực kéo cây ra lửa thì bùn lầy nhất định mọc lên sen hồng”
và đối với sự kiến tánh, nên “phát nguyện thọ trì như thờ phụng
chư Phật vậy, chung thân không lùi bước”, bởi lẽ “minh kiến tâm
tánh mới gọi là Bồ tát”.
3. Đàn dương
(gồm 4 kỳ án)
Bây giờ ta cứu xét đến tư tưởng của Ngài Huệ Năng về phương
diện “đàn dương”, nghĩa là hạ thấp giá trị của việc này, đề cao
giá trị của việc nọ. Điều này thực là quan trọng. Ngày xưa Phật thuyết
pháp có 4 nguyên tắc tất đàn, trong đó có cái nguyên tắc vị nhân, thí
dụ cũng đồng một hạnh bố thí mà đối với người cần đề cao thì
Phật đề cao mà đối với người cần hạ thấp thì Phật hạ thấp. Điều
quan trọng là phải biết rõ ai là người đáng đề cao, ai là người cần
hạ thấp, và đề cao, hạ thấp phù hợp với ích lợi mà ý mình định
hướng dẫn họ. Như vậy, không bao giờ ta nên cho là định lý trong sự
đề cao hay sự hạ thấp, mà phải hiểu cái giá trị qua một không gian
và thời gian nào đó, nghĩa là chỉ đối với một hay một nhóm người. Và
chính vì vậy, ngoài những nguyên tắc diễn tả những giá trị phổ thông
(1 tất đàn) và giá trị chân lý (2 tất đàn), nguyên tắc vị nhân (3 tất
đàn) này phối hợp với nguyên tắc đối trị (4 tất đàn) làm cho Phật
giáo thành những diệu dụng linh động vô cùng vô tận, không những cho một
thời và một nơi, mà cho tất cả và hết thảy.
Ngài Huệ Năng cũng đã áp dụng được nguyên tắc vị nhân tất đàn.
Rồi chúng ta sẽ thấy, qua tài liệu đã ghi lại, Ngài đàn dương những
việc gì, nhưng ta cần phải hiểu cái giá trị của những việc ấy ngay
ở đây, đúng như lời Ngài đã nói, những việc ấy chỉ “tùy phương cởi
mở” mà thôi. Và chính vì vậy mà có giá trị. Rất kỵ ở chỗ nếu ta
lầm cho đấy là những định lý rồi khuôn theo mà đề cao không nhằm người,
hạ thấp không phải lúc, thì đúng như Phật dạy, là làm cho sữa đề hồ
biến thành thuốc độc.
Những sự đàn dương trong đời Ngài Huệ Năng không ít. Nổi nhất,
như chúng ta đã thấy và sẽ còn thấy, là thống trách sự đại ngôn,
không ngôn, phải trái, và chấp không. Nhưng ở đoạn này chúng ta chỉ
nên và cần phải cứu xét đến 4 việc mà do sự làm cho nặng nề lên củ
người sau, cả 4 việc biến thành những kỳ án thực sự.
1.– LY VĂN TỰ
Việc trước hết là vấn đề ly văn tự, nói xác thực là không biết
chữ chứ không phải không lập văn tự. Tuy nhiên, vấn đề này thực
Ngài Huệ Năng đã hạ thấp nhiều hơn đề cao. Nói đề cao thì quả có
đó, bởi vì chính tự Ngài, Ngài nói đến nỗi ngôn ngữ Ngài cũng không
đúng (vì sanh trưởng ở Lãnh Nam); bởi vì chính Ngài lấy cái thân một
người quê mùa bán củi mà kiến Tánh tác Tổ; chính Ngài 3 phen nhờ người
khác đọc cho nghe mà hiểu về bài kệ của Ngài Thần Tú, về kinh Niết
Bàn và về kinh Pháp Hoa; cũng chính Ngài nói “Chư Phật diệu lý phi quan văn
tự” và “Bản tánh tự có trí bát nhã, tự dùng trí ấy thường thường
quán chiếu mà không cần văn tự”. Nhưng chỉ có bao nhiêu đó mà thôi,
không hơn cũng không kém. Ở đây cũng nên xác nhận Ngài Huệ Năng quả không
biết chữ thật, bởi vì ai đã đọc nguyên văn kinh Pháp bảo đàn mới thấy
thuần những ngữ khí “thuyết thông bởi tôn thông” (nói năng thu suốt
vì đã thấu suốt tôn chỉ). Ngày nay có người đoán định Ngài biết chữ
vì thấy Ngài có dẫn kinh, nhưng cứu xét kỹ, cũng chính vì sự dẫn kinh
ấy mà chứng minh Ngài không biết chữ. Trước sau, toàn kinh Pháp bảo đàn–mà
ta đã thấy và sẽ còn thấy phù hợp với đa số kinh luận chánh yếu của
Đại thừa–chỉ là “thuyết thông” mà dẫn kinh vẻn vẹn có 5 lần: 2
lần dẫn câu “ta vốn nguyên tự tánh thanh tịnh” của Bồ tát giới
kinh, tức kinh Phạm võng, và “hoát nhiên khai ngộ, được lại tịnh tâm”,
“trực tâm là đạo tràng” và “khéo nơi sự phân biệt các pháp thì đệ
nhất nghĩa không loạn động” của kinh Tịnh danh tức kinh Duy Ma.
Đề cao chỉ có thế mà thôi, nhưng sự ly văn tự quả thật đã
được Ngài Huệ Năng hạ thấp giá trị không ít. Sự thật hiển nhiên
là ngữ khí suốt đời Ngài tuy không hạ thấp nhưng tuyệt nhiên không đề
cao gì hơn sự ly văn tự cả. Ngược lại, toàn diện ngữ khí ấy chỉ bộc
lộ tính cách thuyết thông của tôn thông, là “tùy phương cởi mở: tùy
trường hợp mà hoạt dụng, tùy ngữ khí mà đối đáp”. Rồi chính Ngài
nói: “Tôi truyền tâm ấn của Phật, đâu dám nói trái với khế kinh của
Ngài”. Và thống trách: “Những kẻ chấp không–đúng là những kẻ tự
bảo chỉ Tánh mà không Tướng đó–phỉ
báng kinh Phật, động miệng là nói không dùng văn tự. Nhưng nếu không
dùng văn tự thì cũng không dùng ngôn ngữ mới phải, nhưng chính ngôn ngữ
ấy là tướng của văn tự rồi đó. Họ lại còn bảo đạo không lập văn
tự, thì chính 2 chữ không lập cũng là văn tự mà là văn tự nặng nề.
Họ thấy ai nói thì chê ngay là vướng mắc văn tự. Nhưng các người phải
biết mình tự làm cho mình mê mờ thì điều ấy miễn nói, chứ lại còn
phỉ báng kinh Phật dạy nữa. Các người không được phỉ báng kinh Phật
dạy, vì như thế thì tội lỗi và những sự chướng ngại bởi tội lỗi
ấy gây ra, sẽ vô số”. Đặc biệt là những lời mà kinh Pháp bảo đàn
đã nêu lên cái tiêu đề phú chúc; hãy chiêm nghiệm học tập cho kỹ những
lời ấy, được dịch ngay sau đây, để thấy thái độ của Ngài Huệ Năng
với pháp tánh và pháp tướng, với văn tự và ly văn tự, với thuyết pháp
và không thuyết pháp: “Một ngày nọ, Ngài Huệ Năng gọi tất cả các vị
đệ tử đã đắc pháp lại, dạy rằng: Các ông không giống với những
người khác; sau khi ta mất, hãy mỗi người đi giáo hóa một nơi. Đây, ta
chỉ cho các ông cách thuyết pháp để khỏi mất tôn chỉ. Hãy cử lên 3
khoa pháp môn và hoạt dụng 36 thứ đối lập, rồi hoặc đề cao hoặc hạ
thấp, đều thoát ly hai ý niệm cực đoan, thuyết nhất thế pháp mà đừng
ly tự tánh. Gặp ai hỏi pháp, thì họ nói gì ta cũng biết là bao hàm những
pháp đối lập, và rốt cuộc tổng quát trong 3 khao pháp môn cả. Ba khoa
pháp môn là 5 ấm, 12 nhập và 18 giới. Riêng 18 giới gồm 6 căn, 6 cảnh và
6 thức: tự tánh bao hàm vạn pháp mệnh danh là tạng thức, khởi tư lượng
thành chuyển thức phát hiện 6 thức, xuất 6 căn, duyên 6 cảnh. Mười tám
giới như vậy đều là tự tánh khởi dụng đó: tự tánh nếu tà thành 18
tà, tự tánh nếu chánh thì thành 18 chánh, và tà dụng là chúng sanh mà
chánh dụng tức Phật dụng. Nhưng dụng ấy biểu hiện ở đâu? Biểu hiện
nơi những pháp đối lập vốn cũng do tự tánh mà có. Những pháp đối lập
nhau ấy, ngoại cảnh có 5, là trời với đất, mặt trăng với mặt trời,
sáng và tối, âm với dương, nước với lửa; pháp tướng do ngôn ngữ diễn
đạt có 12; ngôn ngữ với các pháp, có với không, có sắc với không sắc,
có tướng với không tướng, hữu lậu với vô lậu, sắc với không, động
với tĩnh, thanh với trọc, phàm với thánh, tăng với tục, già với trẻ,
lớn với nhỏ; dụng trực tiếp của tự tánh có 19:sở trường với sở
đoản, tà với chánh, ngu độn với khôn ngoan, mê mờ với giác ngộ, loạn
với định, hiền từ với độc ác, giới hạnh với tội lỗi, ngay thẳng
với cong queo, thật với dối, hiểm hóc với ngay thẳng, phiền não với bồ
đề, thường với vô thường, thương xót với tàn hại, mừng với giận,
phóng xả với keo lẫn, tiến với thoái, sanh với diệt, pháp thân với sắc
thân, hóa thân với báo thân. Tổng cộng tất cả 36 thứ đối lập, nếu
lý giải mà hoạt dụng, tức là đạo pháp đó; bao gồm hết thảy kinh
pháp, hoặc hạ thấp hoặc đề cao, thoát ly 2 ý niệm đối lập, xứng tánh
hoạt dụng, nói năng với người; ngoài đối cảnh mà ly cảnh, trong biết
không mà rời không, nếu vướng cảnh thì tà kiến được nuôi dưỡng, nếu
nắm không thì vô minh được tăng thêm. Người chấp không có cái tội phỉ
báng kinh sách, mở miệng là nói không dùng văn tự. Đã nói không dùng văn
tự thì đáng lẽ cũng đừng nói năng. Chính nói năng là tướng của văn
tự rồi đó. Nói đạo không lập văn tự thì chính 2 chữ không lập cũng
là văn tự vậy. Rồi thấy người nói thì phỉ báng, bảo rằng thế là vướng
mắc văn tự. Nhưng các ông phải ý thức rằng tự mê thì miễn nói, đằng
này lại phỉ báng kinh Phật nữa. Nhưng không được phỉ báng kinh Phật dạy,
vì như thế tội chướng vô số. Còn ngoài đối cảnh trước tướng, bày
ra các phương thức để cầu sự chân thật, hoặc mở ra đủ các đạo tràng
để bình nghị nhược điểm của lý lẽ có không, những người như vậy
mấy kiếp cũng không thể kiến tánh, bảo tu thì làm cho người bị cái nạn
“trăm điều không nghĩ”, bít lấp cả tự tánh, bảo đừng tu thì làm
người cho bùng dậy tà niệm. Vậy các ông phải “như pháp tu hành” và
thật hành “vô trú tướng pháp thí”. Nếu các ông thể ngộ được những
lời tôi dạy đây, y theo đó mà giảng nói, y theo đó mà hoạt dụng, y
theo đó mà thực hành, y theo đó mà làm việc, thì tức là không đánh mất
tôn chỉ. Ai hỏi các ông, hỏi có thì đem không ra, các thức khác cũng vậy,
làm cho họ nhận thấy được 2 ý niệm đối lập, thật sự, chỉ là đối
đãi với nhau, nghĩa là nhờ không mà
có, nhân đó phát minh pháp tánh trung đạo”.
2.– TÂY PHƯƠNG
TỊNH ĐỘ
Bây giờ tới vấn đề “Tây phương tịnh độ”. Tây phương tịnh
độ là một pháp môn căn cứ kinh Di Đà mà thiết lập. Pháp môn ấy chứng
minh đức Phật Di Đà và thế giới Cực Lạc là biểu tướng thanh tịnh của
tâm tánh (cũng như hết thảy mười phương quốc độ đều là biểu tướng
của tâm tánh ấy); nếu cái dụng tư duy của tâm tánh được đồng nhất
(bất loạn) với danh hiệu đức Phật Di Đà, một danh hiệu biểu hiện tất
cả đức lý của tâm tánh, thì sẽ vãng sanh, nói cho đúng, là sẽ hiện
bày quả báo của thế giới Cực Lạc; mà chúng ta rất cần phải cầu
nguyện vãng sanh Cực Lạc, vì lẽ ở đấy là một hoàn cảnh làm cho ta
“không còn thoái chuyển” nữa đối với trí giác Vô thượng của Phật,
do vậy, sẽ tùy ý hiện thân trở lại hóa độ vô lượng chúng sanh, hoàn
thành trí giác ấy.–Phương pháp vãng sanh Cực Lạc, như vừa nói, trước
tiên và đơn giản nhất là “chấp trì danh hiệu của đức Phật Di Đà”
để thanh tịnh tự tâm làm cho tâm được “nhất tâm bấn loạn”, đồng
thời phải thật hành 3 loại phước đức phụ thuộc, bao gồm mọi việc
làm có tính cách phát triển trí huệ hiểu biết Phật pháp và nỗ lực
ích lợi thiết thực cho mọi người theo khả năng. Tiểu dẫn như vậy
cũng đã thừa đủ để thấy “Tây phương Cực Lạc” đơn giản còn hơn
Thuyền là một, hết thảy mọi trình độ đều thật hành được nghĩa là
không có tính chất lộng hiểm là hai.
Nhưng cái ưu điểm thứ hai này lại sanh ra một cái tệ, là ai cũng
thật hành được nên sự phổ biến tạo thành tình trạng hời hợt. Cũng
hệt như tính chất quá cao của Thuyền bị lạm dụng thành bọn “cuồng
Thuyền” vậy. Tình trạng hời hợt về sự tu tịnh độ thật là chán
ngán. Nhất là nếu tình trạng ấy đi song song với “cuồng Thuyền” nữa,
thì thật đã thành vấn đề. Tình trạng ấy như thế nào? Ai cũng là “Lâm
Tế chánh tông” và “Nam Mô A Di Đà Phật” từ lâu đã là tiếng chào
nhau. Vậy mà Thuyền thì không biết tâm tánh là gì, Tịnh thì chẳng nghĩ
đến sự tịnh tâm, khiến cho hiện trạng Phật giáo phổ biến đến mức
chót nhưng sự hoạt dụng trong đời sống thiếu vẫn cứ thiếu.
Chính vì lẽ đó, ta đã thấy Ngài Huệ Năng thống trách rất nhiều
“cuồng Thuyền” và đối với sự niệm Phật hời hợt, không biết đến
sự tịnh tâm (nhất tâm bấn loạn), Ngài muốn chấm dứt. Thái độ của
Ngài là chưa nên nói đến việc vãng sanh tịnh độ, vì đó chỉ là cái
quả; điều quan trọng là phải chú ý cái nhân: phải tịnh tâm. Mà tâm tịnh
thì độ tịnh. Nên thái độ và phương pháp của Ngài là hạ thấp cái quả
mà đề cao cái nhân, để cảnh giác mọi người niệm Phật chú ý cái
nhân ấy, nghĩa là phải niệm Phật một cách nhất tâm bất loạn, chứ
không thể hời hợt mà mong vãng sanh Cực Lạc được. Thái độ này lại
còn có cái ý niệm kiến thiết “nhân gian tịnh độ”, lưu ý những người
niệm Phật phải chấp trì hồng danh của Phật để thanh tịnh tự tâm và
phải thực hành 3 loại phước đức phụ thuộc như đã nói để thanh khiết
hóa xã hội mình đang sống, chính đó là “thực chứng tịnh độ”, cái
nhân để “vãng sanh tịnh độ”. Ta hãy nghe lời Ngài nói sau đây: “Người
ngộ giáo lý tịnh độ thì tự tịnh tâm mình, nên Phật có dạy rằng
tùy tâm mình thanh tịnh thì quốc độ thanh tịnh”. “Người ngộ giáo
lý tịnh độ thì ở đâu cũng là một, nên Phật dạy tùy sở trú xứ hằng
an lạc; cho nên tâm địa chỉ không có các điều bất thiện thì Tây phương
Cực Lạc cách đây không xa. Nếu lòng ấp ủ những điều bất thiện thì
niệm Phật vãng sanh sao được, vậy nên nay tôi khuyên các vị Thiện tri
thức hãy trước hết trừ khử 10 điều ác, niệm niệm kiến tánh, thường
hành sự ngay thẳng, thì trong khoảnh khắc thấy được Di Đà Từ Tôn”.
“Không đoạn thập ác thì Phật nào đến rước, không ngộ niệm Phật
mà cầu sanh Tây phương thì Tây phương đường xa biết ngần nào”. “Tự
tánh mê là chúng sanh, tự tánh ngộ là Phật đà. Tánh từ bị là Quán
Âm, tánh hỷ xả là Thế Chí, tánh năng tịnh là Thích Ca, tánh bình trực
là Di Đà, tánh nhân ngã là tu di, tánh tà vạy là bể cả, tánh phiền não
là sóng gió, tánh độc hại là cá dữ, tánh dối trá là quỷ thần, tánh
trần lao là ếch nhái, tánh tham sân là địa ngục, tánh ngu si là súc sanh,
vậy nếu trừ nhân ngã thì khuynh đảo núi tu di, bỏ tà vạy thì vơi cạn
nước bể cả, phiền não không thì sóng gió tắt, độc hại hết thì thú
dữ tan, bấy giờ giác tánh của tâm địa phóng đại quang minh, chiếu phá
tâm độc, làm cho hết thảy các tội địa ngục nhất thời tiêu diệt,
“như vậy là trong ngoài trong suốt như cảnh giới tây phương” (tức tạo
thành nhân gian tịnh độ). Nếu không tu như vậy, làm sao đến đó” (tức
nếu không tạo thành nhân gian tịnh độ thì làm sao vãng sanh tây phương
thế giới). “Các vị Thiện tri thức! Nếu muốn tu hành như vậy thì tại
gia cũng được, không cần ở chùa: chỉ tâm thanh tịnh là tự tánh tây phương
đó! Hãy nghe bài kệ của tôi sau đây:
- Tâm mà bình
là giữ giới đó,
- Hạnh mà thẳng
là tu thuyền vậy,
- Ân thì hiếu
dưỡng cha mẹ,
- Nghĩa thì thương
mến anh em,
- Nhượng thì
hòa mục tất cả,
- Nhẫn thì việc
ác không thể náo động,
- Nếu kéo cây
ra lửa được,
- Thì bùn lầy
quyết định mọc sen hồng!
- Coi lời cay đắng
là thuốc hay,
- Biết tiếng
trái tai là lời trung thật.
- Hễ cải quá
thì trí huệ phát hiện,
- Chứ ấp ủ sự
xấu xa thì trong tâm nhất định không hiền.
- Phải làm sự
ích lợi như là nhật dụng thường lệ vậy,
- Chứ thành đạo
không phải chỉ do sự bỏ tiền ra!
- Hãy hướng vào
trong tâm mà tìm trí giác bồ đề,
- Chứ hướng
ngoại cầu sự huyễn hoặc một cách lao nhọc mà chi!
- Thực hành y
như thế này,
- Tịnh độ ở
ngay trước mắt.
3.–NGÀI THẦN
TÚ
Bây giờ đến câu chuyện Ngài Thần Tú, một câu chuyện khá quan trọng
về phương diện nhân cách, nhất là tâm lượng gương mẫu của người xuất
gia.
Câu chuyện như thế này, tổng kết theo những điều mà ta đã thấy
rải rác ở trước. Nguyên Ngài Thần Tú là thủ chúng của Ngài Ngũ Tổ
Hoàng Mai, còn Ngài Huệ Năng là người đắc pháp. Cả hai Ngài không có
điều gì gọi là xấu đối với nhau. Chỉ đứng trên phương diện những
điều giảng dạy, Ngài Huệ Năng nhận định pháp của Ngài Thần Tú là
tiếp độ những người tiệm ngộ. Nhưng từ đó cho đến ngày nay hễ
nói đến một trong hai Ngài, ai cũng có cảm giác Ngài Thần Tú không xứng
đáng.
Sự thật, như ta đã thấy, thì điều ấy cần phải xét lại. Cố
nhiên, nếu đối với những người đốn ngộ thì pháp của Ngài Thần Tú
(ta được thấy qua bài kệ Ngài đã làm và giới định huệ mà Chí Thành
thuật lại) không thể tiếp độ họ được. Lại cũng cố nhiên, nếu
xét trình độ giác ngộ thì Ngài Thần Tú đang ở da-hạnh-vị là cùng. Nhưng
đứng về phương diện nhân cách thường tình mà xét, thì quả thật hai
Ngài đã xứng đáng với nhau, và quan trọng nhất, là tuy chưa kiến tánh
mà phong độ và tâm lượng của Ngài Thần Tú–mà ta thấy được qua chính
lời Ngài Huệ Năng tự thuật và những điều chính Pháp Hải, người chép
lời Ngài Huệ Năng thành kinh Pháp bảo đàn, ghi lại–thật đáng làm gương
mẫu cho ta, những kẻ chưa giác ngộ và thói thường là “kiến tha thắng
sự, tâm sanh tật đố” (thấy ưu điểm của người, lòng nổi đố kỵ).
“Từ khi Nam Bắc phân hóa, thì các Ngài (Thần Tú và Huệ Năng) chủ trì
2 bên bỏ hết bĩ ngã”. “Năm Thần Long nguyên niên, hoàng đế nhà Đường
hạ chiếu như sau: Trẫm thỉnh An đại sư và Tú đại sư cúng dường
trong cung và mỗi khi vạn việc hơi rảnh thì Trẫm hỏi đạo lý nhất thừa
cũng hai Ngài. Hai Ngài thôi nhượng rằng: Nam phương có Ngài Huệ Năng là
người mật thọ y pháp của Tổ Sư Hoằng Nhẫn, truyền tâm ấn của Phật,
hoàng thượng nênthỉnh Ngài mà hỏi”. Cách nay trên một ngàn hai trăm
năm, trước mặt vua chúa như vua chúa Tàu, mà thôi nhượng người khác như
vậy, cái lượng đó mới hy hữu làm sao! Nhưng chưa hết đâu; ta còn được
biết: “Đồ chúng của Ngài Thần Tú thỉnh thoảng chê Nam tôn rằng Tổ
Sư không biết một chữ thì có sở trường gì. Ngài Thần Tú nghe vậy, bảo
rằng: Ngài Huệ Năng được vô sư trí, thâm ngộ thượng thừa, ta thiệt
không bằng. Huống chi Thầy ta là Tổ Sư thứ năm đã đích thân, truyền
phú y pháp cho Ngài thì há phải Ngài không có gì. Ta hận không thể đi xa
thân cận Ngài Huệ Năng, ngồi đây mà nhận sự trọng đãi của quốc gia
một cách vô ích. Vậy các người đừng lưu luyến ở đây, hãy qua Tào
Khê bái yết Ngài để giải quyết đời mình. Bảo đồ chúng như vậy rồi,
một ngày nọ Ngài Thần Tú sai một người môn đồ tên là Chí Thành ra
đi, với những lời căn dặn như sau: Ông thông minh nhiều trí, hãy vì ta
đến Tào Khê nghe pháp, nghe được điều gì thì hết lòng ghi nhớ để về
nói lại cho ta”. Một người chưa giác ngộ mà tâm lượng và phong độ
đến như vậy, thực hết lời tán dương. Cho nên ta không lấy làm lạ khi
thấy Ngài Thần Tú không được đắc pháp mà đạo tràng của Ngài vẫn
thạnh hành như Ngài Huệ Năng, đến nỗi đương thời ai cũng bảo “Nam
thì Năng, Bắc thì Tú” và Pháp Hải ghi rằng “Hai tôn đều thạnh”.
Bây giờ ta thảo luận về pháp của Ngài Thần Tú. Trước hết, chính
Ngài Huệ Năng thuật cho ta biết Ngài Thần Tú không hề có tâm lý vọng cầu
tổ vị: “Ngài Thần Tú suy nghĩ: nếu ta mong được ngôi vị tổ sư thì
thế là tâm lý bất thiện, có khác chi đem tâm niệm phàm phu chiếm đoạt
địa vị bực thánh”. “Ngài Thần Tú bạch với Tổ Sư Hoàng Mai rằng:
bài kệ con làm ra, con không dám cầu tổ vị, con chỉ xin Ngài từ bi xét
cho con coi có chút trí huệ nào không mà thôi”. Nhưng bài kệ của Ngài Thần
Tú làm ra không phải không có giá trị, nhất là đối với chúng ta. Nếu
nói đốn ngộ, kiến tánh, thì bài kệ của Ngài Thần Tú chưa có trình độ
ấy thật. Nhưng muốn được sẽ đốn ngộ, sẽ kiến tánh, thì bài kệ
ấy thật là hợp cơ. Những lời của Ngài Hoàng Mai nói sau đây, thật sự
không phải là đánh lạc đồ chúng: “Quan Cung phụng, thôi, đừng vẽ lên
vách này những bức vẽ để lưu truyền cúng dường nữa. Thật là phiềnông
từ xa đến đây. Nhưng trong kinh có dạy: phàm các hình tướng đều là hư
vọng. Vậy chỉ nên giữ bài kệ này lại trên vách cho mọi người thọ
trì. Y theo bài kệ này mà tu thì khỏi sa vào ác đạo. Y theo bài kệ này
mà làm thì được đại lợi ích. Nói rồi, Ngài lại dạy đồ chúng hãy
thắp hương mà kính lễ và trì tụng bài kệ ấy thì sẽ được kiến tánh”.
Nội dung bài kệ ấy xin nhắc lại với sự phiên dịch như sau: “Thân như
cây bồ đề, tâm giống đài gương sáng, Thường thường siêng lau chùi,
đừng để dính bụi nhơ”. “Thường thường siêng lau chùi”, đó là
cái công phu mà nếu ta xao lãng, nhất là cho không đáng chú ý bằng bài kệ
của Ngài Huệ Năng, thì hỡi ơi, cái căn bản đã mất rồi vậy!
4.–LƯƠNG VŨ
ĐẾ
Bây giờ đến cái kỳ án cuối cùng, và thực sự là một kỳ án,
ấy là việc Lương vũ đế. Nếu một trường hợp nào đó cần lắm,
chúng ta nên nghiên cứu rất kỹ về nhà vua này. Hiện giờ chỉ nói vắn
tắt rằng Lương vũ đế đã được sư đồ Ngài Thái Hư phát giác là A dục
vương của Trung Hoa mà có hơn chứ không kém. Với cái tín niệm “Thắng
lợi chân chính là ở Phật Giáo chứ không phải vũ khí”, Lương vũ đế
là con người mà “duy kẻ nào làm được những điều không ai làm nổi mới
biết được”. Mà quả như vậy. Căn cứ những tài liệu xác thiệt như
là hồ sơ lưu chiếu của Quảng hoằng minh tập, mà tác giả là Ngài Đạo
Tuyên, đã thu thập rất nhiều, thì nhà vua này đã làm được những việc
hộ pháp không ai làm nổi thật. Điều quan trọng, là không phải Lương
vũ đế chỉ tạo tự độ tăng mà thôi đâu. Con người ấy, tất cả pháp
hạnh đều tinh tấn đều đặn. Nhất là phương diện lý giải và thể ngộ
Phật Pháp mà văn bút nhà vua còn rõ ràng, thì thực quá cái mức mà ta có
thể nghĩ đến. Và, kỳ thay, Lương vũ đế rất phù hợp với Ngài Huệ Năng
về phương diện này. Ngài Huệ Năng kiến tánh từ Kinh Kim Cang, thì với
Kinh ấy, Lương vũ đế viết:
“Đức Như
Lai nói pháp bát nhã thật là pháp vô tướng nhiệm mầu, kinh trí tuệ sâu
xa, hiểu với ý niệm có đã sai, mà tìm bằng ý thức không càng trái.
Kinh Kim Cang Bát nhã diễn đạt pháp tánh ly sanh diệt, tuyệt trong ngoài;
phá rồi phá nữa, cũng không được cái chân của kinh ấy, không rồi
không nữa, cũng chưa tỏ chỗ diệu của kinh ấy. Chân đế tục đế qua hết,
pháp tánh pháp tướng siêu việt, tự tâm thể chứng mới là pháp Kim Cang.
Thế nên Vô ngôn đồng tử được lẽ nhiệm mầu của sự vô ngôn, Bất
thuyết bồ tát thấy chỗ sâu xa của sự bất thuyết. Đệ tử học tập
chân không, tu hành trí huệ, sớm ngộ đạo vô thượng, khắc kỷ mà phụng
hành, nên hằng sa chúng sanh đều là pháp lữ, vi trần thế giới đều là
đạo tràng”. Đấy là trích dịch lời Lương vũ đế bạch Phật khi lễ
tụng kinh Kim Cang. Hành và giải kinh Kim Cang đến cái độ xem ai cũng là bạn
tu hành, đâu cũng là nơi hành đạo, thì không phải là chỗ mà tư nghị
đạt thấu. Rồi đây là kiến địa của Lương vũ đế mà ta có thể nói
là kiến tánh được, qua bài Tịch nghiệp phú, trong đó có đoạn:
... (phần này
sách gốc là chữ Hán)
Kiến địa
và văn bút thế này, thực đáng mang lời nói đầu trong đó có câu: “Duy
người nào làm được những việc không ai làm nỗi mới biết được tâm
tôi. Tôi lánh phòng thất, không ăn cá thịt, bịnh thường tự chữa, trên
bốn mươi năm như vậy. Không ăn sinh vật, cũng không sát hại, ngoại chướng
không nạp, nội dục không còn, trừ được 2 thứ này nên tâm ý khai
thông, mới tự giác ngộ phiền lụy phát sinh từ đâu”.
Chỉ bấy
nhiêu thôi, cũng đủ để thấy Lương vũ đế không phải chỉ tạo tự độ
tăng, nhất là không thể nào có cái phong độ quái gỡ là đem việc ấy hỏi
công với người. Vậy nhưng câu chuyện thông thường được nghe thì như
sau: “Lương vũ đế hội kiến Đức Bồ Đề Đạt Ma, hỏi rằng trẫm một
đời tạo tự độ tăng, có công đức gì không? Đức Đạt Ma trả lời
không có công đức gì cả”.
Câu chuyện
này nếu không phải dụng ý đề cao việc kiến tánh mà giả thiết ra, nếu
không vì một bối cảnh nào khác, thì cũng chỉ là phong độ của Lương
vũ đế khi mới hành đạo là cùng. Nhưng đến Ngài Huệ Năng, Ngài vẫn mượn
câu chuyện ấy để đề cao việc kiến tánh mới là công đức: “Làm những
việc như trên (tạo tự độ tăng) là cầu phước, không phải công đức.
Tự tánh kiến lập vạn pháp mới là công, tâm thể ly niệm mới là đức”.
Đúng như vậy, nhất là sự đề cao này đối với những kẻ bôn ba vì
hình thức mà quên mất nội dụng. Tuy nhiên, điều ấy có những chỗ cần
xét lại, nhất là trường hợp Phật giáo ngày nay.
Trước hết,
quần chúng ngày nay phước đức còn chưa làm nổi, có đâu nói đến công
đức. Vậy đề cao công đức chỉ làm cho họ có cớ đánh lãng phước đức
mà thôi. Trên mặt giáo lý, phước đức ấy chính là da hạnh mà cũng là
diệu dụng của sự kiến tánh đó. Vậy cái tính cách sẽ được kiến tánh
của phước đức, đối với quần chúng, bao giờ cũng phải được đề
cao.
Thứ đến,
chúng ta phải ý thức rằng, xưa và nay, nhất là ngày nay, hình thức, nhất
là hình thức có nội dung, như tự viện có quy cũ, tăng sĩ có phong độ,
chính là nơi quy tụ tín tâm và nuôi dưỡng tín tâm ấy. Vậy hạ thấp
giá trị của hình thức phải rất có ý thức, tức là chỉ nên và rất
phải hạ thấp giá trị đối với những hình thức thiếu nội dung cần
thiết và tệ hơn nữa, lại chứa đựng một nội dung phi chánh pháp. Nếu
không có ý thức đó thì vô tình trúng mưu của ngoại đạo vậy.
Sau hết,
trong hoàn cảnh của Phật giáo bây giờ, rõ ràng bao nhiêu tính chất thời
đại đang lăm le khuynh loát tinh thần bất biến của Phật giáo đó. Vậy
hình ảnh hộ trì chánh pháp như Lương vũ đế, một sự hộ trì cả hình
thức, giới luật lẫn giáo lý, thật đáng làm cho tỏ rạng lên.
4. Phật tánh
Đáng lẽ tư
tưởng đặc thù của Ngài Huệ Năng đối với Phật tánh, phải được sắp
lên hàng đầu, hoặc là ngay sau tư tưởng kiến tánh đã phải thảo luận
đến. Nhưng chính vì muốn chứng tỏ Phật tánh là tư tưởng huyết mạch
của tất cả cuộc đời và tư tưởng của Ngài Huệ Năng, kể cả tư tưởng
căn bản và tư tưởng đặc thù, nên chúng tôi để sau hết, với dụng ý
lấy tư tưởng Phật tánh làm tư tưởng tổng kết. Cũng phải nói thêm rằng,
khi chúng tôi nói tư tưởng Phật tánh là huyết mạch, là bao trùm cả cuộc
đời Ngài Huệ Năng, điều ấy thật là đương nhiên và kỳ diệu.–Đương
nhiên, vì lẽ đến như Đức Phật đi nữa, từ khi phát tâm tới khi giác
ngộ cũng chỉ là Phật tánh biểu hiện. Kỳ diệu, vì lẽ cuộc đời Đức
Phật là cuộc đời “khai thị Phật tri kiến (Phật tánh) cho chúng sanh ngộ
nhập” và kết thúc bằng kinh Pháp Hoa và kinh Niết Bàn cũng đề cao lên
tột bực cái Phật tánh ấy; thì Ngài Huệ Năng cũng đã làm được như vậy
trong phạm vi của Ngài, khi đáp lại câu hỏi “để lời chỉ giáo gì lại
cho những người mê mờ sau này được thấy Phật tánh”, Ngài nói: “Nếu
biết rõ về chúng sanh tức là thấy được Phật tánh”. Như vậy cũng
chưa đủ đâu. Đặc trường của Thuyềntôn mà Ngài Huệ Năng là kỳ
nhân trong đó, là nói và chỉ nói sự kiến tánh. Mà kiến tánh, đến Ngài
Huệ Năng, thật sự là kiến Phật tánh chứ không chi khác.
Vậy Phật
tánh là thế nào? Phật là giác, tánh có 2 nghĩa, hoặc là thể tánh, hoặc
là khả năng giác ngộ, gọi là Phật tánh. Cắt nghĩa như vậy chưa đủ.
Hãy đi sâu thêm nữa.
Như trước,
trong khi cắt nghĩa bồ đề tâm, đoạn thứ 3 đã nói bồ đề chính là
cái “đặc tánh tri giác” chung của hết thảy tâm vương và tâm sở, và
cái căn bản làm cho đặc tánh tri giác ấy phát triển chính là huệ tâm sở.
Chính cái đặc tánh tri giác trong đó có huệ tâm sở, là khả năng giác
ngộ, là Phật tánh đó. Đặc tánh tri giác là khả năng giác ngộ, là vì
tri giác ấy chỉ có biết, cái biết ấy nghịch dụng thì biết sai (mê)
mà thuận dụng thì biết đúng (ngộ), y như sự chỉ tỏ là đặc tính của
cánh tay, nhưng chỉ xuống thì gọi là ngược mà chỉ lên gọi là xuôi. Vậy
chính khi cái tay chỉ xuống biết rằng nó có cái khả năng chỉ lên,
chính do sự biết sai của đặc tánh tri giác mà biết nó có thể biết đúng,
có thể giác ngộ, có thể trở thành trí giác vô thượng của Phật.
Nhưng đặc
tánh tri giác là năng y, bản thể sở y của đặc tánh tri giác chính là
chân như, nghĩa thứ 8 của bồ đề. Chân như là bản thể nên tức tất cả
mà ly hết thảy. Nghịch với chân như mà sống (nghịch dụng) là mê, thuận
với chân như mà sống (thuận dụng) là ngộ.
Như vậy, nói
Phật tánh ám chỉ khả năng giác ngộ là nói tri giác, nói Phật tánh ám
chỉ bản tánh thanh tịnh là nói chân như. Mà chân như là sở y, tri giác
là năng y, nên thật ra chỉ là một mà thôi. Người học giáo lý, phải nắm
cái lý do này để mà hiểu về Phật tánh, nếu không, khi thấy nói như là
tri giác, khi thấy nói như là chân như, rồi mang nhiên không hiểu đích Phật
tánh là gì.
Bây giờ ta
hãy lắng nghe Ngài Huệ Năng phát biểu tư tưởng đặc thù của Ngài về
Phật tánh. Tư tưởng đặc thù ấy nhấn mạnh chính khả năng mê là khả
năng ngộ, kỳ dị hơn nữa, chính những sự dụng của mê cũng là yếu tố
để ngộ, thí dụ thân tâm ta đây vốn là tội lỗi đó, nhưng thuận dụng
thì chúng lại là công cụ thực hiện pháp thân công đức. Xác nhận này
thật phù hợp lời Phật đã dạy trong kinh Pháp Hoa: “Phật chủng tùng
duyên khởi, thị cố thuyết nhất thừa”. Những lời Ngài Huệ Năng phát
biểu sau đây có một ý nghĩa đặc biệt nữa, khi nó là những lời cuối
cùng của đời Ngài mà kinh Pháp bảo đàn đã ghi:
“Qua ngày mồng
3 tháng 8, tại chùa Quốc Ân, sau khi dự trai tăng xong, Ngài Huệ Năng bảo
đồ chúng: Các ông ngồi lại đây để tôi từ biệt. Pháp Hải bèn bạch
rằng: Tổ Sư lưu giáo pháp gì để cho những người mê mờ thấy được
Phật tánh? Ngài Huệ Năng dạy rằng: Các người hãy nghe cho kỹ những lời
ta nói đây! Những người mê muội nếu biết rõ chúng sanh tức là thấy
được Phật tánh; nếu không biết chúng sanh thì vạn kiếp tìm Phật cũng
không gặp. Nay tôi dạy các người: “Hễ biết được chúng sanh của tự
tâm thì thấy được Phật tánh của tự tâm: muốn tìm thấy Phật phải
biết rõ chúng sanh”. Chúng asnh mê Phật tánh, không phải Phật tánh làm
mê chúng sanh. Tự tánh mà ngộ được thì chúng sanh là Phật, tự tánh hiểm
tà thì Phật là chúng sanh. Các người nếu tâm hiểm hóc thì Phật khuất
trong chúng sanh, mà nhất niệm chánh trực thì chúng sanh thành Phật. Tâm ta
tự có Phật tánh, Phật tánh ấy mới làm một đức Phật; nếu tâm tự
nó không có Phật tánh thì tìm cách nào làm một đức Phật được? Nên tự
tâm là Phật, điều đó các người đừng hồ nghi. Tôi để lại cho các
người một bài kệ (mà nguyên văn đã trích ra ở chương 1). Về sau, ai thể
nhận được ý tứ của bài kệ, thì người ấy tự thấy được tâm
tánh, tự thành một đức Phật:
- Chân như của
tự tánh là đức Phật chân thật,
- Còn tà kiến
tam độc thật ma vương;
- Khi tà kiến
thì ma vương chiếm nhà cửa,
- Mà chánh kiến
thì lúc ấy Phật ngự trong nhà.
- Trong tự
tánh mà tà kiến thì tam độc phát sanh,
- Ấy là ma vương
qua lại trong nhà cửa;
- Nếu chánh
kiến, thì tam độc tự trừ khử,
- Thế là ma
biến thành Phật mà không ngờ gì nữa.
- Pháp thân,
báo thân và cả hóa thân nữa,
- Bản lai chỉ
là một thân này mà thôi,
- Vậy nên nếu
ai hướng về trong tự tánh mà thấy được,
- Thì đấy là
cái nhân thành tựu trí giác bồ đề của Phật.
- Vốn bởi thân
này mà phát giác ra tánh thanh tịnh,
- Vậy nên
tánh thanh tịnh vốn ở trong thân này đây,
- Và tánh ấy
điều khiển thân này hành theo chánh đạo,
- Thì đương
lai thật viên mãn vô cùng tận.
- Tánh tội lỗi
vốn là tánh thanh tịnh,
- Cho nên phải
biết tự tánh ấy vốn ly ngũ dục,
- Thoáng thấy
tánh ấy tức là chân đó.
- Thân này nếu
gặp được đốn giáo như vậy,
- Thì liền ngộ
tự tánh thấy đấng Thế Tôn,
- Nếu muốn
tìm cách khác đi để được làm Phật,
- Thì không biết
đức Phật thật ấy tìm ở đâu.
- Vậy nên nếu
nơi tự tâm thấy được tánh chân thật,
- Thì tánh
chân thật ấy là nhân làm Phật đó,
- Chứ không
thấy tự tánh mà hướng ngoại tìm Phật,
- Thì dụng
tâm như vậy là đại si nhân cả.
- Đốn giáo
mà tôi lưu lại là như vậy,
- Thế nhân cần
phải tự tu tập theo;
- Xin nói để
những người học đạo tương lai biết rằng
- Không thể
nhận được như vậy thì đại mù mờ!
Tra cứu kinh
Pháp bảo đàn ở bản được ghi là nguyên bản, thì những lời cuối
cùng của Ngài về Phật tánh đây còn có một bài kệ nữa. Bài ấy xét
ra rất đúng, vì lẽ hoàn toàn phù hợp với những lời nói đầu mà ta đã
thấy:
- Mê thì Phật
là chúng sanh;
- Ngộ thì
chúng sanh là Phật.
- Ngu si, Phật
là chúng sanh;
- Trí tuệ,
chúng sanh là Phật.
- Hiểm hóc,
Phật là chúng sanh;
- Bình đẳng,
chúng sanh là Phật.
- Một niệm
hiểm hóc phát sanh
- Thì Phật
khuất trong chúng sanh;
- Một niệm
bình được ngô ngã
- Thì chúng
sanh tức là Phật.
- Tâm ta tự
có đức Phật,
- Phật ấy là
đức Phật thật,
- Thì tìm Phật
ở chỗ nào?
3
AN LẠC HẠNH
Kinh Pháp Hoa có dạy rằng: “Thọ trì và truyền bá kinh Pháp Hoa thì
phải vào nhà của đức Như Lai, mặc áo của đức Như Lai và ngồi chỗ của
đức Như Lai. Nhà của đức Như Lai là tâm đại từ bi, áo của đức Như
Lai là nhu hòa nhẫn nhục, chỗ của đức Như Lai là các pháp đều không”.
Kinh Pháp Hoa còn dạy cả một phẩm về an lạc hạnh, nhưng căn bản chính
là 3 điều này đây. Ba điều này thật là đơn giản và quan trọng, làm căn
bản cho hết thảy an lạc hạnh mà ta có thể nói rằng kinh Pháp Hoa chính
cương là đấy rồi. Ba điều này lại có một sự liên hệ tuyệt đối:
từ bi và nhẫn nhục được là do thấu suốt tánh chân không. Và có như vậy
mới khai thị ngộ nhập “Phật tri kiến” cho mình và cho người. Thống
quán hành trạng và tư tưởng của Ngài Huệ Năng quả thật không quá đáng
khi dùng từ ngữ an lạc hạnh để nói sở hành của Ngài.
Nói đến sự thấu suốt chân không, thì ta đã được thấy, ngay khi
chưa đắc pháp, Ngài đã ngộ “Tự tâm thường sanh trí tuệ, không rời
tự tánh là phước điền” nên giã gạo bửa củi đều là công đức cả.
Rồi “Nơi tất cả chỗ, trong tất cả thời, niệm niệm không ngu, thường
làm theo trí tuệ, ấy là hạnh bát nhã”, như thế đã quá đủ.
Nói đến nhu hòa nhẫn nhục thì 15 năm trời trốn tránh pháp nạn,
đáng tiếc là nỗi gian nan ấy ta chỉ được nghe mỗi một câu tánh mạng
như sợi tơ mà thôi. Nhưng quý nhất chính ở chỗ Ngài Huệ Năng đã xem
như không có đến nỗi không nói ra ấy. Rồi ta còn thấy bị đồ chúng của
Ngài Thần Tú khinh là không biết một chữ, Ngài cũng không có một phản
ứng gì.
Bây giờ nói đến từ bi, thì nổi nhất, như ta đã thấy, ấy là
câu chuyện của Chí Triệt đang đêm đến ám sát Ngài, vậy mà người ấy
vẫn được hóa độ.
Ngoài 3 an lạc hạnh căn bản này, mà tiếc rằng tài liệu quá ít so
với sự phỏng đoán để đề cao thêm nữa, ta còn được thấy những điều
nổi bật nhất, như sau đây, mà xét kỹ, rất phù hợp với an lạc hạnh
trong kinh Pháp Hoa đã dạy.
Trước hết không thân cận quyền quý. Ta còn nhớ vua chúa triệu mà
Ngài từ chối. Kế đó, Ngài đặc biệt thống trách sự không ngôn tức
nói suông, nói càng. Sau hết, Ngài nhiệt liệt đề cao hạnh bình trực mà
chỉ trích nhất là tâm lý quanh co, hiểm hóc.
Thử ngoại, đức khiêm tốn mà Ngài đã nói “trong điều phục tâm
tánh, ngoài kính nhường mọi người”, thật đã nổi bật lên trong đời
Ngài, thậm chí cả ở nơi sự xưng hô với bất cứ ai. Rồi đến đức tính
không thị phi: “Tôi thấy là thường thấy lỗi lầm của tâm m ình mà
không dòm ngó phải trái tốt xấu của người khác”. Thậm chí đức tính
này, với Ngài Huệ Năng, được xem như là dụng xứ của Thuyền đó: “Nếu
thấy tất cả điều thiện cũng như điều ác của mọi người, tâm như
hư không, ấy gọi là đại”, “Chỉ thấy mọi người mà không tìm thấy
thị phi thiện ác của họ, ấy đó là tự tánh bất động; chớ như những
kẻ mê mờ thân tuy bất động mà mở miệng ra là nói đến thị phi hão
ác của kẻ khác, trái ngược với đạo pháp”. Ngài Huệ Năng quả thật
là con người được thể hiện trong câu sau đây “Tâm lượng đại sự,
bất hành tiểu đạo”.
Sau cùng, gương mẫu bực nhất và cần phải đề cao nhất, nhân tiện
cũng để thấy vô sư trí của Ngài, ấy là lời nói rất phù hợp với
Kinh Luận. Ta còn nhớ chính Ngài đã nói “Tôi truyền tâm ấn của Phật,
há dám nói trái với kinh Ngài dạy”. Chính điều này đã làm cho chúng ta
kinh ngạc, là những lời Ngài dạy rất phù hợp luận Khởi tín, một bộ
luận không hề thấy Ngài có sự liên hệ nào. Nhưng, những lời Ngài dạy
về tâm tánh, về chân như, về Phật tánh, về Thiện tri thức, về sự
thuận tánh khởi dụng, đặc biệt hơn hết là về sự ly niệm và thuyền
định, thì không những phù hợp triệt để với Luận Khởi tín về ý nghĩa
mà thậm chí văn từ cũng chỉ xê xích chút ít thôi. Kẻ viết bài này thật
kinh ngạc ngay từ đầu, và thâm tâm muốn rằng có dịp sẽ làm một cuộc
bình nghị tư tưởng của luận Khởi tín và Ngài Huệ Năng, mà ngay bây giờ,
đã có thể kết luận một cách chắc chắn rằng hoàn toàn giống nhau. Phải
nói thêm rằng, cho dẫu thấy đích lời Huệ Năng kể đến tên Mã Minh Đại
Sĩ là vị Tổ Sư thứ 12 ở Ấn Độ, sự kinh ngạc vẫn chưa giảm được
phần nào. Dẫu vậy, không lẽ ở đây làm một bảng đối chiếu tư tưởng
và như đã nói, cả văn từ nữa, của 2 Ngài. Nên chỉ nêu lên một nhận
xét có kết luận mà thôi. Dụng ý chính, là để cho ai nấy không phải chỉ
phục Ngài Huệ Năng mà hãy noi gương Ngài ở chỗ “xuất ngôn tu thiệp
ư điển chương” mà Ngài Quy Sơn đã tha thiết dạy trong văn Cảnh sách.
Bây giờ, cuối cùng, đã đến lúc có thể trích dịch bài tụng sau
đây, mà nguyên văn đã có ở chương 1, để thấy toàn diện an lạc hạnh
của Ngài Huệ Năng:
-
“Khéo phân biệt các pháp tướng,
-
Thì đệ nhất nghĩa không loạn động”
-
Chỉ thấu triệt như vậy,
-
Tức là cái dụng của chân như đó.
-
Xin nói cho hết thảy những người học đạo,
-
Phải nỗ lực và chú ý:
-
Đừng nơi pháp môn Đại thừa,
-
Mà sanh ra cái trí trong sanh tử.
-
Nếu nói ra mà thể nhận được,
-
Thì hãy chung nhau thảo luận nghĩa lý Phật dạy;
-
Còn thật không thể nhận được,
-
Thì hãy chấp tay cho họ hoan hỷ.
-
Thuyền tôn vốn không tranh luận,
- Tranh luận
thì mất ý đạo;
- Mà nắm lấy
sự nghịch ý tranh luận,
- Thì
tự tánh nhập sanh tử rồi đó.
Lời nói đầu
| Hành trạng | Tư tưởng | Tổng kết