Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
GIẢNG GIẢI KINH A-DI-ĐÀ


TẠO LẬP TỊNH ĐỘ ^

K

hi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơi và hạnh phúc thì ba nẻo đường đen tối là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh không thể xuất hiện. Những nẻo đường đen tối đó có thể phát hiện trong ta bất cứ lúc nào trong ngày nếu ta đánh mất niệm, định và tuệ. Địa ngục, quỷ đói hay là súc vật đang có mặt trong ta dưới hình thức của những hạt giống đen tối. Nếu ta không có chánh niệm, không có tu tập, thì ba nẻo đường xấu ác đó có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Bất cứ lúc nào ta nổi giận lên là lửa địa ngục bừng dậy đốt cháy ta. Địa ngục mà phát hiện thì Tịnh Độ tự nhiên biến mất. Điều này rất rõ. Bóng tối mà phát hiện thì ánh sáng không còn. Tịnh Độ cũng vậy. Khi địa ngục biến đi thì Tịnh Độ biểu hiện. Ở trong ta có hạt giống của Tịnh Độ, ở trong ta cũng có hạt giống của tam ác đạo, của ba nẻo về xấu ác. Nếu muốn có Tịnh Độ thì ta có thể làm cho Tịnh Độ biểu hiện trong hiện tại. Và nếu muốn có tam ác đạo, ta cũng có thể làm cho địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh biểu hiện trong hiện tại. Địa ngục là gì, chúng ta đã biết. Tại vì chúng ta đã từng ở dưới địa ngục. "Con đã từng cất tiếng kêu gào dưới ngục A tỳ mòn mỏi hư hao."   Mình đã từng ở địa ngục nên mình biết địa ngục nóng hay lạnh như thế nào rồi. Và khi mà chất liệu địa ngục ở trong ta không còn phát hiện thì ta có Tịnh Độ.

Ngày xưa mình cũng đã từng làm ma đói (ngạ quỷ). Mình đã từng làm ma đói chạy đi chỗ này chỗ khác để mong kiếm chác một chút tình thương, một chút hiểu biết, một nơi nương tựa. Hạt giống của ma đói nằm ngay trong tâm của ta chứ ở đâu. Khi nào khuynh hướng cô hồn lạc loài phiêu lãng trong ta phát khởi thì ma đói hiện ra và ta trở thành một con ma đói. Khi bị sự thèm khát vật dục trấn ngự, ta lại trở thành súc sanh. Ta trở thành một con thú vật, một con heo, một con bò, chỉ biết ăn, chỉ biết chạy theo tình dục... Nếu cõi Tịnh Độ biến mất trong đời sống của ta, đó là vì những hạt giống của địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh đang biểu hiện trong lời nói, hành động và sự suy nghĩ của ta.

Ước muốn cao nhất của đời tôi là gì? Tôi không muốn làm chùa lớn, không muốn đúc tượng lớn, không muốn có nhiều trương mục lớn trong một nhà băng, không muốn có bằng cấp tiến sĩ. Tôi không muốn làm Hội trưởng hội Phật học. Tôi không muốn làm Tăng Thống, không muốn làm giáo chủ. Tôi chỉ muốn kiến thiết một Tịnh Độ thôi! Xây dựng Tịnh Độ để mời những người dễ thương đến sống chung và làm chỗ nương tựa cho nhau. Trong tâm ta nếu có Tịnh Độ thì ta đi đâu Tịnh Độ cũng hiển bày. Những người có Tịnh Độ trong tâm là những người có phẩm chất nhân cách rất cao. Người nào có phẩm chất như vậy thì được gọi là "thượng thiện nhân" hay là cao đức. Vì những người này có tâm trí vượt khỏi danh lợi. Có một vị thượng thiện nhân là có một người dễ thương. Cõi Cực Lạc là nơi mà các bậc thượng thiện nhân lưu trú rất đông: "Chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ". Đây không phải là một câu kinh ước mơ mà là một câu kinh chí nguyện, tại vì điều thích thú và hào hứng nhất của mình là lập được một đạo tràng để những người dễ thương trên thế gian quy tụ lại sống với nhau một cách rất hạnh phúc và để làm nơi nương tựa cho không biết bao nhiêu người khác. Vì vậy trong ước muốn của chúng ta cũng có hạt giống của Bụt A-di-đà. Hạt giống đó chính là ước muốn thành lập một trú xứ dễ thương, một hoàn cảnh thuận lợi cho sự tu học. Có nhiều vị thượng thiện nhân đến sống chung thì tự nhiên ta không cầu Tịnh Độ mà Tịnh Độ cũng vẫn hiển bày. Được ngồi gần bên một người dễ thương, mình cảm thấy sung sướng biết bao. Huống hồ là mình được bao bọc bởi biết bao nhiêu người dễ thương. Những người dễ thương ấy đến với nhau, tuy chưa làm gì hết mà cảnh trí đã là cảnh Tịnh Độ rồi, phải không?  Những người không dễ thương ngồi bên nhau khoảng mười lăm phút thì không khí đã thấy ngột ngạt. Địa ngục hiện ra ngay khi những người không dễ thương tụ tập đông đảo đến ba bốn trăm người. Mình sẽ chết ngột. Vì vậy, cảnh Tịnh Độ và cảnh Địa ngục đều có thể phát hiện từ lòng mình. Cho nên mỗi người tu đều có sự thích thú và ước muốn thành lập một Tịnh Độ. Tịnh Độ tuy thế không phải là công trình của một người, dù người đó là một bậc Toàn Giác. Tịnh Độ là công trình của rất nhiều người, và những người đó được gọi là ‘‘thượng thiện nhân’’. Chúng ta thấy cõi Cực Lạc (Sukhavati) không phải là công trình riêng của một người, dù người ấy là Bụt A-di-đà. Cho nên ta đừng nghĩ với tư cách cá nhân ta có thể tạo lập được Tịnh Độ. Ta tạo lập Tịnh Độ bằng công sức Tăng thân. Nếu ta không dễ thương, không có khả năng lắng nghe, không có khả năng nói lời ái ngữ, không biết làm việc tập thể, nếu ta độc tài, thì ai mà tới cọng tác với ta? Như thế, làm sao ta có thể tạo ra được Tịnh Độ. Chúng ta phải tự hỏi rằng chúng ta đã là một vị bồ tát nhất sanh bổ xứ hay chưa? Trong lòng ta, ai cũng muốn thiết lập một trung tâm Tịnh Độ. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng khi đứng ra làm chủ trung tâm ấy, ta sẽ không bị lệ thuộc vào sư anh này, vào sư chị kia, sư em nọ, và ta sẽ có toàn quyền quyết định. Ước muốn làm chủ Tịnh Độ là một ước muốn ngây thơ. Nếu mình không sống hạnh phúc được với sư anh, sư chị và sư em của mình, thì làm sao mình có thể thiết lập Tịnh Độ? Những người đến với mình sẽ bỏ mình và mình sẽ cô đơn. Mà một người cô đơn thì không bao giờ thiết lập được Tịnh Độ. Chúng ta chỉ cần nhìn chung quanh để thấy. Không phải người đó không có chí nguyện thiết lập Tịnh Độ. Chỉ tại người ấy chưa có đủ hạnh phúc, chưa có đủ sự bao dung, chưa có đủ khả năng lắng nghe, chưa có đủ khả năng nói lời ái ngữ, chưa có đủ khả năng làm việc chung; người ấy chỉ muốn người ta làm theo ý của mình. Những người như vậy không có khả năng thành lập Tịnh Độ, họ chưa phải là bồ tát nhất sanh bổ xứ. Ai có thể nói cho mình biết mình đã là bồ tát nhất sanh bổ xứ? Chúng ta không cần ai nói hết. Cứ nhìn vào tâm hành của chúng ta, là chúng ta biết ngay. Từ nay về sau, mỗi khi đại chúng tụng đến câu này, thì xin để tâm quán chiếu. Tịnh độ là một nơi quy tụ của các bậc thượng thiện nhân. Tịnh Độ không phải là công trình của một anh hùng cá nhân.

‘‘Xá Lợi Phất! Những kẻ thiếu phúc đức và căn lành thì ít hy vọng được sanh về cõi ấy’’. Câu kinh này có thể làm cho ta nản chí. Nhưng sẽ có những câu kinh khác làm cho chúng ta phấn khởi trở lại. Như câu chúng ta chỉ cần niệm Bụt một lần hoặc mười lần là đã đủ điều kiện để sinh về Tịnh Độ. Ta nên tin vào câu kinh này hay là tin vào câu kinh kia? Thật ra nếu ta hiểu được câu kinh này thì ta sẽ hiểu được những câu kinh kia, và nếu không hiểu được câu kinh này thì ta cũng không hiểu được những câu kinh kia. Hai câu không chống nhau mà bổ túc cho nhau. Hai câu kinh này là hai mặt cùng một thực tại.

‘‘Xá Lợi Phất, những kẻ thiếu phúc đức và căn lành thì ít hy vọng được sanh về cõi ấy.’’ Phúc đức tức là những may mắn, những thiện duyên. Căn lành là những gốc rễ tốt đẹp. Trong lòng chúng ta nếu những gốc rễ ấy hiếm hoi thì chúng ta ít hy vọng được sanh về cõi đó. Căn là gốc rễ, nhưng cũng có khi được hiểu là hạt giống. Có những lúc chúng ta trồng cây bằng rễ, có những lúc chúng ta trồng bằng hạt. Trồng bằng hạt cũng lên, trồng bằng rễ cũng lên. Như hoa sen vậy. Ta trồng sen bằng hạt hay bằng củ thì sen cũng đều lên được. Vậy muốn sanh về cõi Cực Lạc ta phải có hạt hoặc là rễ của Tịnh Độ. Nghĩa là những hạt giống tốt đẹp mà ta đã gieo vào trong tâm thức của ta, như ta đã có lần đến chùa lạy Bụt, đã có lần bố thí cho một em bé mồ côi, đã có lần cúng dường cho một vị xuất gia, đã có lần đưa tay ra cứu một con kiến đang chết đuối. Tất cả những hành động đó đều là những hành động gieo trồng căn lành. Hay ta đã từng mở miệng đọc Namo Buddhàya. Tất cả những cử chỉ nho nhỏ đó đều là những căn lành đã gieo trồng. Điều này trong kinh Pháp Hoa có dạy:

‘‘Nhược nhân tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhất xưng Nam mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo.’’

Giả dụ có một người tâm ý tán loạn mà bước vào trong chùa, hoặc bước vào trong tháp, rồi mở miệng niệm lên một câu ‘‘Nam mô Phật’’ thì cái đó đã là một nhân duyên có thể đưa đến sự kiện người đó thành Phật sau này. Tuy là một hạt giống rất nhỏ, một cái rễ rất nhỏ, nhưng hành động ấy đã được gieo trồng vào trong tâm, và thế nào ngày mai nó cũng sẽ trở thành những nhân duyên đưa mình đi đến với đạo và thành đạo. Nhất xưng Nam mô Phật. Nhất xưng là chỉ niệm một lần Namo Buddhaya thôi. Ấy vậy mà hạt giống đó sẽ đưa đẩy người kia đi đến cái nhân duyên thành Phật sau này. Đó chính là những căn lành, những phước đức. Câu kinh này nói rằng những người ít căn lành, ít phước đức thì ít có hy vọng sanh về cõi Tịnh Độ. Chúng ta biết tại Làng Mai, có những thiền sinh đến từ những nơi rất xa xôi, họ đến từ bên Nga, họ đến từ Na uy, Nam Phi, trong khi đó có những người sống ở Paris, chỉ cần một giờ đồng hồ là có thể bay tới, vậy mà suốt đời không bao giờ có cơ duyên bước đến Làng Mai. Tuy họ ở gần một bên mà họ cũng không biết sự có mặt của Làng Mai, vì vậy, họ không có được cơ duyên tham dự:

‘‘Hữu duyên thiên lý năng tao ngộ
 Vô duyên đối diện bất tương phùng’’

Có nhân, có duyên thì dù cách xa ngàn dặm cũng có thể gặp nhau, mà vô duyên thì ngồi đối diện nhau cũng chẳng gặp nhau được. Vậy sự khác biệt giữa hữu duyên và vô duyên là như thế nào? Sự khác biệt không phải do ở gần hay ở xa Tịnh Độ mà là chúng ta có nhân duyên hay không? Tôi mới nghe Thomas báo cáo là: ‘‘Cho tới hôm nay đã có ba chục ngàn người Thụy Sĩ đi xem cuốn phim The Step of Mindfulness’’. Cuốn phim này kể lại chuyến hoằng pháp của tôi tại Ấn độ năm 1997. Tại sao họ không đi rạp chiếu phim khác, mà lại mua vé đi xem cuốn phim này. Có rất nhiều người sau khi xem phim đã đi mua hết những quyển sách của tôi về đọc và đã có nhiều người viết thư về xin tham dự khóa tu tại Làng Mai. Tại sao họ làm như vậy, khi họ chưa một lần đi chùa? Họ chỉ có dịp đi xem phim, thấy được quý thầy, quý sư cô và nghe những bài pháp thoại trong phim, thế mà những hạt giống tốt trong họ được tưới tẩm và khi về nhà, họ mong muốn được tu học. Vậy sang Tịnh Độ không khó khăn gì, nếu ta có chút nhân duyên. Chỉ cần ta biết rằng Tịnh Độ đang có mặt ở đó, và ta chỉ cần cầm điện thoại lên và nói: ‘‘Allo! Tịnh Độ đó phải không? Tôi muốn được về tu học hai tuần’’. Sư chú hay sư cô sẽ trả lời: ‘‘Dạ được, khóa tu mùa đông còn chỗ.’’ Có khó khăn gì đâu? Ăn thua là có cái duyên hay không. Vô duyên thì có gần sát bên cũng không gặp, có duyên thì mấy ngàn cây số cũng gần. Chỉ cần một mảnh điện thư (e-mail), một tờ truyền chân (fax) hay một cú điện thoại là mình có thể bay sang Tịnh Độ.

 

NẮM LẤY DANH HIỆU^

 ‘‘Xá Lợi Phất, những kẻ thiếu phúc đức và căn lành thì ít hy vọng sanh về cõi ấy. Vì vậy Xá Lợi Phất! Người con trai lành, người con gái lành nào muốn sanh về cõi ấy thì khi nghe danh hiệu Bụt A-di-đà, phải nắm lấy danh hiệu ấy.’’

Nghĩa là nghe danh hiệu thì phải nắm lấy danh hiệu. Cho tôi địa chỉ đi, cho tôi số fax, số phone đi. Cho tôi đỵa chỉ điện thư. Phải nắm lấy chúng. Tại vì danh hiệu hay địa chỉ ấy rất quan trọng. Vì sao? Vì cuộc đời dữ dằn lắm. Nó lôi kéo mình đi theo như một dòng thác. Và trong những khi bị chìm đắm, trong khi bị lôi kéo như vậy mà giả sử mình nhớ được cái tên đó và cái địa chỉ đó, thì mình có thể nhờ vậy mà được cứu thoát. Còn nếu không ghi nhớ được, chỉ nhớ mờ mờ cái tên thì ta không thể được cứu thoát. Ta phải nhớ danh hiệu và địa chỉ thật rõ ràng.

Nếu ghi nhận được danh xưng ấy, tên gọi ấy, địa chỉ ấy, thì mình có cơ thoát ra khỏi cái trầm trệ khổ đau của mình. Nước Úc, xa bên này biết bao nhiêu mà kể, vậy mà nhờ có một cái tên, nhờ có một cái địa chỉ, nhờ có một số điện thoại mà chỉ trong một hai ngày, mình đã được ngồi trong Đạo tràng Mai Thôn. Trong khi đó có rất nhiều người ở chung quanh đây, đầy đủ các điều kiện để đến, vậy mà không bao giờ biết đến đạo tràng.

‘‘Phải nắm lấy danh hiệu ấy mà hết lòng thực tập quán niệm theo phương pháp nhất tâm bất loạn, hoặc trong vòng một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hay bảy ngày...’’

Đọc câu này, tôi chảy nước mắt, tại vì nhớ tới kinh Niệm Xứ. Kinh Niệm Xứ là kinh căn bản của thiền tập nguyên thỉ. Rất tiếc là ở trong các chùa viện đại thừa, có nhiều người không được biết đến và không được học kinh Niệm Xứ, tại vì, kinh Niệm Xứ là kinh gối đầu giường của các thầy và các sư cô thời Bụt còn tại thế. Đó là kinh mà các thầy và các sư cô thời nguyên thỉ học thuộc lòng. Vì sao? Vì trong kinh này Bụt dạy về quán niệm thân trong thân, quán niệm cảm thọ trong cảm thọ, quán niệm tâm trong tâm, quán niệm pháp trong pháp. Đó là thiền của Bụt. Đó là thiền mà Bụt đã thực tập, các thầy, các sư cô học trò của Bụt đã trực tiếp thực tập. Bụt đưa ra những phương pháp rất cụ thể: Làm thế nào để quán niệm thân thể trong thân thể, cảm thọ trong cảm thọ, tâm ý trong tâm ý, và đối tượng tâm ý trong đối tượng tâm ý. Sự thực tập của các thầy và các sư cô là sự thực tập chính trong hàng ngày: đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, rửa bát... Cho nên kinh phải được học thuộc lòng. Sự thuộc lòng này đích thực là một trái tim, chứ không phải như một con vẹt. Con vẹt có thể học thuộc được nhưng không phải thuộc lòng. Trong kinh Niệm Xứ, Bụt dạy rằng: Người nào thực tập được bảy năm thì sẽ thành đạo. Rồi Bụt nói không cần bảy năm, ba năm cũng thành. Rồi Bụt nói không cần ba năm, một năm cũng thành. Rồi Bụt nói không cần một năm, nửa năm cũng thành. Rồi Bụt nói không cần nửa năm, một tháng cũng thành. Rồi Bụt nói không cần một tháng, bảy ngày cũng thành. Rồi Bụt nói không cần bảy ngày, một ngày cũng thành. Chính những câu đó làm cho tôi chảy nước mắt. Khi mình nói bảy năm có người rất sung sướng: Trời ơi! chỉ có bảy năm thôi. Nhưng có người nói: Bảy năm lâu quá, sao tôi có thể làm được? Vì vậy mà Bụt nói không cần bảy năm, ba năm cũng được. Sở dĩ mình nghe mà muốn khóc, tại vì thấy lòng thương của Bụt bao la không bờ bến. Bụt ngồi đó mà mặc cả với chúng sanh: Nếu con không làm bảy năm thì ba năm cũng được, nếu không làm ba năm thì một năm cũng được, tùy ý. Tôi khóc là khóc ở chỗ đó. Rồi Kinh A-di-đà lại nói: Nếu niệm không được mười tiếng thì một tiếng cũng được. Không khóc sao được. Ở đời làm sao lại có một người có tình thương lớn đến như vậy. Nếu đọc kinh này mà không đọc bằng trái tim thì làm sao thấy được điều đó. Có người khó có định, có tuệ, nghĩ rằng mình tu không được, người khác tu chắc cũng không được. Nhưng Bụt nói: Tất cả đều tu được. Con cứ tu đi, nếu con nghĩ rằng, con niệm mười tiếng không được thì con niệm một tiếng cũng được. Đoạn kinh Tứ niệm xứ ở trên tương tự như đoạn kinh A-di-đà này. Điều cảm động nhất là ở chỗ đó. Bụt duỗi cánh tay ra để cứu vớt những người trầm luân ở trong cuộc đời, và độ những người không có khả năng giới, định và tuệ. Bụt nói: ‘‘Con hãy làm đi, con sẽ làm được’’.

Chúng ta biết rằng ở trong dược khoa, nhiều khi vì thuốc đắng nên những nhà bào chế phải đưa chất ngọt vào và làm cho thuốc đó trở thành ngọt. Những viên thuốc tể ở Đông y cũng vậy. Người ta tán thuốc ra và trộn với mật ong để cho mình cảm thấy ngọt mà uống được. Có một thứ chè gọi là sâm bổ lượng. Những thứ này mát, con nít chịu ăn vào thì cơ thể chúng mới mát mẻ, mới không còn nổi mụt, vì vậy ta làm cho nó thành chè. Cũng như mẹ bỏ viên thuốc ki-ninh đắng vào trong một miếng chuối để cho mình ngậm vào miệng, rồi bảo: ‘‘Nuốt đi con.’’ Tất cả những cái đó đều từ lòng thương mà ra. Ở đây cũng vậy, Đức Thế Tôn là một bà từ mẫu, biết rằng con mình có đứa mạnh giỏi, nhưng cũng có đứa yếu đuối, thành phải thi thiết ra những pháp môn phương tiện để các con có thể thâu thập một chút nào của chánh pháp. Nếu không thâu thập nhiều thì thâu thập ít. Tất cả đều là do lòng từ bi vô lượng của đức Thế Tôn đối với chúng sanh.

Đọc kinh ta phải đọc với tất cả trái tim của mình, đừng chỉ đọc bằng trí năng, sự tìm tòi, sự phân tích, một sợi tóc chẻ làm mười. Nếu thấy được điều đó, chúng ta cũng sẽ có tình thương giống như Đức Thế Tôn. Ta ôm lấy tất cả mọi người, không chê bai một pháp môn nào, dẫu pháp môn đó rất dễ dàng. Nó dễ nhưng chưa chắc ta đã hiểu được.

‘‘Sẽ thấy được Bụt A-di-đà và thánh chúng nước ấy hiện ra trước mặt.’’ Câu này rất trung thành với ý niệm ‘‘thiện căn, phước đức nhân duyên’’. Mỗi ngày mình niệm một câu, mà ngày nào cũng niệm. Nếu giỏi thì niệm hai câu hay mười câu, và mỗi ngày đều niệm như vậy. Đến khi lâm chung, tự nhiên mình sẽ nhớ mà niệm. Còn nếu nói: ‘‘Thôi, bây giờ chưa cần niệm, đợi đến phút gần lâm chung niệm một lần cho luôn.’’ thì mình sẽ mất cơ hội. Vào giờ phút lâm chung, mình đau nhức quá trời. Làm sao nhớ mà niệm. Quan trọng là ngày hôm nay. Chúng ta phải niệm, dù là niệm chỉ được một hoặc hai câu. Người ta nói mình mê tín, mình cũng cứ niệm, bởi vì niệm như vậy mình biết rằng mình đã gieo một hạt giống tốt đẹp vào trong tâm thức. Nếu một ngày niệm một câu hay mười câu, thì thế nào đến giờ phút lâm chung mình cũng không còn sợ hãi nữa. Mình đã có địa chỉ, đã có số điện thoại rồi, tự nhiên lúc đó mình sẽ nhớ. Sư cô Thuần Nghiêm kể là hồi còn nhỏ ở bên Đức mấy chị em trong nhà đều bắt phải học thuộc lòng địa chỉ của nhà, để lỡ đi chơi lạc đường thì nói ra được địa chỉ để người ta có thể đem mình về nhà. Học thuộc địa chỉ là lợi như vậy. Mình có một quê hương, mình không biết địa chỉ của quê hương thì làm sao mà về được. Cho nên mình phải thuộc nằm lòng cái tên quê hương của mình, cái địa chỉ quê hương của mình, để những lúc thất điên bát đảo, những lúc bị ba đào sóng gió cuốn theo, nhớ đến tên gọi quê hương, nhớ tới địa chỉ, mình có thể tìm về. Mỗi ngày chúng ta đều có công phu. Công phu ngồi, công phu kinh hành, hay công phu tụng niệm... đều là công phu. Tất cả những cái đó là những cái thực tập hàng ngày. Sự thực tập này hết sức quan trọng, nhất là khi thực tập chung với anh em, chị em. Đừng nói tôi lớn rồi tôi khỏi cần thực tập theo chúng.

Ta phải nắm lấy danh hiệu mà hết lòng thực tập quán niệm. Phương pháp này gọi là phương pháp trì danh. Trì danh không phải chỉ bằng miệng của mình, mà còn bằng tâm của mình. Nắm lấy là trì, hết lòng là nhất tâm. Nắm lấy danh hiệu, không phải bằng trí năng, hoặc bằng miệng lưỡi, mà bằng trái tim. Tâm của mình phải chuyên nhất. Mình phải để tâm vào danh hiệu đó, phải làm cho danh hiệu của Bụt có mặt trong tâm mình. Khi niệm ‘‘Nam mô Bụt A Di Đà’’ mà tâm ta nghĩ đến chuyện khác, thì đó là niệm danh hiệu suông, cũng giống như vỏ trấu không có hạt gạo ở trong. Đó là hạt lúa lép. Niệm Bụt mà không có nội dung, gọi là niệm Bụt không nhất tâm. Vỏ trấu không thể nấu thành cơm được. Vì vậy trong vỏ trấu phải có hạt gạo. Cũng vậy, niệm Bụt có nhất tâm thì gọi là niệm Bụt có nội dung. Khi mình niệm Bụt: ‘‘Namo Tassa Bhagavato Arahato Samasambu-ddhassa’’ (Con kính lạy Đức Thế Tôn, Bậc A La Hán, Bậc Ứng Cúng, Bậc Chánh Biến Tri), thì mình biết Thế Tôn (Bhagavat) là Đấng mà người đời tôn kính. Ứng Cúng (Arahato) là người xứng đáng được cúng dường. Chánh Biến Tri là bậc có sự hiểu biết chân thực và toàn vẹn. Khi niệm danh hiệu, lòng mình có sự rung động và tha thiết. Giống như mình gọi tên của người thương vậy. Nghe tên người thương mình cảm thấy rung động. Nó làm cho mình khỏe, nó làm cho mình có hy vọng. Niệm Bụt cũng phải như vậy. Niệm Bụt không phải chỉ là gọi tên một cách trống rỗng, mà phải làm cho lòng mình tràn đày sự tín kính. Có những người niệm Bụt chưa kinh nghiệm, không có nội dung. Có một bà cụ khi giận quá niệm Bụt: ‘‘Nam mô A-di-đà Phật, trời ơi là trời, tức quá, tôi muốn chết quá đi!’’ Niệm Bụt như vậy thì không có an lành, vững chãi và từ bi. Niệm Bụt là phải có an lành, vững chãi và từ bi. Chúng ta đôi lúc gặp nhau, chào: ‘‘A-di-đà Phật’’ hay ‘‘Mô Phật’’. Tiếng chào không có nội dung, tiếng chào rất buồn cười. Và đôi khi lại còn sử dụng từ ‘’Mô Phật’’ để mỉa mai nhau. Điều này không nên, vì nó đưa đến tội bất kính. Do đó trì danh là phải nhất tâm. Nếu trì danh mà không nhất tâm là trì danh không có nội dung, tức là không gieo được hạt sen giác ngộ vào trong tâm địa của mình.

Có một bà cụ niệm Bụt rất siêng năng, sáng nào bà cũng lên hương đèn rồi niệm Bụt, có mõ có chuông đàng hoàng. Nhưng bà đã niệm Bụt như vậy trải qua mười năm mà tánh xấu của bà vẫn không thay đổi gì cả. Bà dữ lắm. Và hàng xóm ai cũng ngán cái khẩu nghiệp của bà. Có một người đàn ông trong làng muốn dạy cho bà một bài học. Buổi sáng hôm ấy, đúng lúc bà lên hương đèn niệm Bụt, thì ông ta đến đứng trước ngõ gọi tên của bà ‘‘Bà Tư ơi! Bà Tư ơi!’’ Nghe gọi tên mình, bà Tư thầm trách là đã tới sao không vào, lại còn đứng ngoài cửa mà kêu, và bà bắt đầu bực bội. Bà thỉnh chuông mõ lớn hơn và niệm Bụt to hơn để gián tiếp nói rằng bà đang niệm Bụt và ông hàng xóm không lịch sự. Ông hàng xóm giả bộ không nghe. Ông ta cứ đứng ngoài cổng tiếp tục gọi tên bà. Ở trong này bà lại càng niệm lớn giọng. Hai bên đều lớn tiếng. Nhưng ông hàng xóm cứ giả bộ không nghe, vẫn tiếp tục gọi tên bà. Đến một lúc nào đó, bà chịu không nổi nữa. Bà vứt chuông mõ, ra đường chống nạnh để chửi. ‘‘Này cái anh kia, anh có biết giờ này là giờ ta đang niệm Phật không? Đồ bất lịch sự, đồ khốn nạn.’’ Bây giờ ông nọ mới cười lớn và bảo: ‘‘Trời ơi! Tôi mới gọi bà mấy chục tiếng như vậy mà bà đã giận như thế, huống gì mỗi ngày bà gọi tên Đức Thế Tôn hơn cả một tiếng đồng hồ, chắc là Đức Thế Tôn giận bà lắm.’’ Qua câu chuyện bà Tư, ta biết rõ cái vô ích của sự trì danh mà không có nội dung. Bởi vậy, trong kinh nói là phải nắm lấy danh hiệu mà hết lòng. Thực tập chánh niệm theo phương pháp nhất tâm bất loạn là làm thế nào để trong khi ta niệm Bụt thì tâm ta không nghĩ đến chuyện gì khác. Chỉ nghĩ đến Bụt mà thôi. Điều đó rất đúng với phép tùy niệm Buddha anusrmti. Niệm Bụt là một giáo lý nguyên thỉ của Phật giáo. Không phải mình chỉ niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng trước khi vãng sanh. Sau khi vãng sanh, mình vẫn tiếp tục niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng. Câu ‘’Nhất tâm bất loạn’’ hết sức quan trọng. Niệm Bụt phải đạt đến nhất tâm bất loạn. Nghĩa là lúc niệm Bụt, tâm ta ngưng tụ vào danh hiệu của Bụt mà không nghĩ đến bất cứ chuyện gì khác, không nghĩ đến chuyện nấu cơm, chuyện nấu nước, chuyện thắp đèn, chuyện quá khứ, chuyện tương lai. Niệm Bụt chỉ để niệm Bụt mà thôi. Thành tựu sự niệm Bụt nhất tâm bất loạn là một quá trình thực tập. Ban đầu tâm còn tán loạn, nhưng ta đừng mất kiên nhẫn. Nhiều khi ta niệm mười tiếng, mà chín tiếng lạc vào vọng tưởng, chỉ còn lại một tiếng có chánh niệm; cũng còn đỡ hơn không có tiếng nào. Ngày mai ta niệm mười tiếng, thì có thể có được hai tiếng trong chánh niệm. Như vậy đã là tiến bộ rồi. Niệm Bụt, nên ngồi chung nhiều người để niệm, những người bạn cùng tu với mình. Niệm Phật Đường là chỗ để niệm Phật. Ta ngồi chung với nhiều người niệm Bụt như vậy, thì ta có năng lượng nhiều hơn. Ban đầu mình chỉ thành công được một phần mười, nhưng từ từ niệm và định tăng trưởng thành hai phần mười, rồi ba phần mười, bốn phần mười, cho đến một lúc nào đó, mình niệm Bụt mười tiếng thì có chánh niệm cả mười. Đó là sự thành công lớn.

‘‘Khi nghe danh hiệu Bụt A-di-đà, thì phải nắm lấy danh hiệu ấy, mà hết lòng thực tập quán niệm theo phương pháp ‘nhất tâm bất loạn’ hoặc ở trong vòng một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày. Người ấy, đến khi lâm chung sẽ thấy được Bụt A-di-đà và các vị thánh chúng nước ấy hiện ra trước mặt.’’

Đó là phước đức tối thiểu mà khi lâm chung ta được nương nhờ, vì giây phút lâm chung là giây phút hết sức quan trọng và cực kỳ nguy hiểm của đời ta. Lúc ấy ta được dẫn dắt bởi năng lượng thiện hoặc ác do ta tạo ra trong đời sống. Nếu ta thường niệm Bụt có chánh niệm thì vào giờ phút lâm chung, tâm thức ta sẽ vững vàng để đưa ta đi về hướng thiện, và gặp được các bậc ‘‘thượng thiện nhân’’. Còn nếu không được như vậy thì ta sẽ đi về tam ác đạo. Giờ phút lâm chung ta cần có tăng thân bên cạnh để hộ niệm cho ta, và ta biết rằng, được hộ niệm như vậy thì tâm ta vững vàng để hướng về một cảnh giới tốt đẹp. Nếu thực tập giỏi thì ta không phải đợi giờ phút lâm chung mới đến được Tịnh Độ mà trong mỗi giây phút niệm Bụt ta đã có Tịnh Độ bên mình. Không phải niệm Bụt thì tới giờ phút lâm chung mới có định. Hễ có niệm là có định ngay lập tức. Và hễ có niệm và có định thì cõi uế độ đã bắt đầu chuyển hóa để trở thành cõi Tịnh Độ. Như vậy cõi Tịnh Độ bắt đầu hiện tiền. Ta không đợi đến khi lâm chung mới đi về Tịnh Độ. Ta về Tịnh Độ ngay khi ta đang niệm Bụt. Điều này ta phải thấy cho rõ vì nó hết sức quan trọng. Đức Thế Tôn nói: ‘‘Giáo pháp của Như Lai mầu nhiệm ngay từ lúc bắt đầu’’. Giờ phút mà ta nắm lấy hơi thở và thực tập trong mỗi bước chân là ta đã bắt đầu thấy có kết quả. Cho nên Tịnh Độ không những sẽ biểu hiện ra lúc lâm chung, mà còn biểu hiện ra cho ta lúc ta bắt đầu thực tập niệm Bụt. Sử dụng tâm để niệm Bụt, tâm ta lúc ấy trở thành tâm của các bậc ‘‘thượng thiện nhân’’. Khi ta bắt đầu niệm Bụt và niệm cõi Cực Lạc thì tâm ta lúc đó có Bụt và có cõi Cực Lạc. Nếu quý vị đã ở Làng Mai tu học một tháng, hai tháng hoặc sáu tháng thì quý vị đã có những hạnh phúc của Làng Mai, và khi quý vị rời Làng Mai thì quý vị mang hạnh phúc ấy của Làng Mai đi theo về nơi trú xứ của quý vị. Nhiều lúc ở nơi trú xứ của quý vị, quý vị gặp nhiều khó khăn, nhưng nghĩ đến những hình ảnh và hạnh phúc của Làng Mai, thì hình ảnh và hạnh phúc ấy sẽ hiện tiền. Như vậy lúc đó là Làng Mai đang có mặt trong tâm của quý vị. Tịnh Độ cũng vậy, không phải ta đi tới Cực Lạc mới có Tịnh Độ, mà Tịnh Độ đi tới với ta, Tịnh Độ có sẵn trong lòng ta. Dù ta đang đứng ở chỗ trầm luân nhưng nếu ta nghĩ tới Bụt và tới Tịnh Độ là ta đã thấy khỏe khoắn trong lòng. Những người không có chỗ để hướng về, để nhớ tưởng, là những người đã đánh mất mình. Ta có chỗ để về, có Bụt để tưởng nhớ, là ta đã có hạnh phúc lớn, có phước đức lớn. Ta có tăng thân cùng tu học, có pháp Bụt để hành trì, có môi trường để thực nghiệm, đó là những điều hết sức quý báu. Ta phải có bổn phận duy trì và phát triển những điều kiện ấy bất cứ nơi nào ta có mặt. Nếu một người trong giờ phút lâm chung mà an trú được trong định, nếu người ấy không hề điên đảo và tán loạn thì người ấy sẽ vãng sanh ngay vào nước Cực Lạc. Điên đảo có nghĩa là chúc đầu ngược lại. Không điên đảo gọi là chánh trực. Mình biết trời là trời, đất là đất, Bụt là Bụt, ma là ma, cái biết đó là chánh trí. Nếu tâm ý ta lộn xộn, không ổn định, cho trời là đất, đất là trời, Phật là ma, ma là Phật thì đến lúc lâm chung, trong tâm trạng điên đảo đó, ta sẽ rơi vào tam ác đạo. Lúc lâm chung mà ta có định là nhờ ta thực tập giới, niệm và định trong đời sống hàng ngày. Và vì ta có thực tập giới, niệm và định, nên ta đã bắt đầu có hạnh phúc ngay trong đời sống hàng ngày rồi, chứ không phải đợi đến lúc lâm chung ta mới có hạnh phúc. Sở dĩ chúng ta nói đến lúc lâm chung vì lúc lâm chung là lúc sự tiếc nuối thường phát hiện. Nếu có niệm Bụt là có hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Mỗi hơi thở, mỗi bước chân mà ta có niệm Bụt là ta có thể đem Tịnh Độ về cho ta trong giây phút hiện tại. Điều này là điều chúng ta thấy được trong lúc hành trì.

‘‘Xá Lợi Phất, vì thấy được điều lợi ích lớn lao này cho nên tôi muốn nói với quý vị rằng, những ai đang nghe tôi nói đây hãy nên phát nguyện sanh về cõi ấy.’’

Trong giờ phút nói lên câu này tâm lý Đức Thế Tôn cũng là tâm lý của chúng ta. Chúng ta cần có một khung cảnh an toàn và hạnh phúc để chuyển hóa khổ đau, nên khi gặp ai đau khổ là ta giới thiệu khung cảnh an toàn và hạnh phúc ấy cho họ để họ có dịp đến đó tu học. Kinh A-di-đà là kinh đức Thế Tôn giới thiệu quê hương Tịnh Độ cho chúng ta. Những đoạn kinh tiếp theo nói về sự hộ niệm của các vị Bụt trong mười phương:

‘‘Này Xá Lợi Phất! Nếu trong giây phút hiện tại, tôi đang ca ngợi sự lợi ích và công đức không thể nghĩ bàn của Bụt A-di-đà, thì tại phương Đông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Thượng và phương Hạ, các Bụt đông như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của quý vị, bao trùm cả thế giới Tam thiên đại thiên, và thốt lên lời tuyên bố thành thật của mình: Này toàn thể chúng sanh các cõi, quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm.’’

Trong câu kinh này, Bụt nói rằng không những ngài đang tán dương cõi Tịnh Độ của Bụt A-di-đà mà Ngài còn khuyến khích chúng sanh các cõi khác phát nguyện sinh về cõi ấy. Các vị Bụt khác trong thế giới mười phương, ít nhất là sáu phương, đều đang làm như Ngài cả. Kinh A-di-đà là một kinh rất mầu nhiệm, cõi A-di-đà là một nơi lý tưởng để thực tập đời sống giác ngộ, và Bụt A-di-đà là một bậc đạo sư lý tưởng. Vì vậy tất cả các vị Bụt trong mười phương, vị nào cũng nâng đỡ và yểm trợ cho nhau. Vị Bụt nào cũng có đạo tràng và có Tịnh Độ cả. Các Ngài có đạo tràng và có Tịnh Độ để yểm trợ cho chúng sanh tu học, và các ngài cũng yểm trợ cho nhau trong việc thành tựu lý tưởng giác ngộ. Chúng ta phải biến ngôi chùa của chúng ta thành đạo tràng tu học, thành một cõi Tịnh Độ nho nhỏ và đồng thời hỗ trợ cho đạo tràng của các ngôi chùa khác, nhằm mở rộng niềm tin cho hàng Phật tử tu học. Đọc đoạn kinh này, ta thấy các vị Bụt cư xử với nhau hết sức cao đẹp. Nói đến Cực Lạc là các đức Thế Tôn ở các quốc độ khác đều đồng thanh khen ngợi rằng cõi Cực Lạc là cõi rất đẹp, đức Bụt A-di-đà rất giỏi. Các Ngài ca ngợi nhau một cách hết lòng, chứ không phải khen nhau bằng những từ ngoại giao. Các ngài không bao giờ nói xấu nhau, như chùa này nói xấu chùa khác. Các Ngài đang ngồi tại quốc độ của mình, biểu lộ tướng lưỡi rộng dài của các Ngài. Người có lưỡi rộng và dài là người nói thật. Cái lưỡi của Bụt dài đến nỗi le ra một cái là bao trùm được hết tam thiên đại thiên thế giới. Đây là ngôn từ đại thi sĩ. Cái lưỡi của chúng ta rất ngắn, cái lưỡi của chúng ta rất nhỏ, cho nên ta không thể dùng lưỡi của chúng ta mà tạo ra được nhiều hạnh phúc, như cái lưỡi của các đức Thế Tôn. Tướng lưỡi rộng dài là một trong ba mươi hai tướng tốt của đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nào cũng có ba mươi hai tướng đẹp. Tướng đẹp thứ hai mươi bảy là tướng lưỡi rộng dài. Và một người có cái lưỡi như vậy thì không thể nói ngang ngược, nói châm chích, nói hai chiều, nói thêu dệt. Chỉ có cái lưỡi rộng dài mới nói ra được những điều vi diệu thôi. Hãy quán tưởng Bụt A-di-đà đang ngồi trên cõi Cực Lạc mà thấy các Bụt xung quanh đều nói tốt về mình. Điều này Bụt A-di-đà thấy cũng bình thường thôi, không tự hào tự phụ, vì đã là Bụt, thì vị nào cũng ủng hộ cho nhau hết lòng cả.

‘‘Này Xá Lợi Phất, thầy nghĩ sao? Tại sao gọi kinh này là kinh mà tất cả các vị Bụt đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm? Sở dĩ như thế là vì những người con trai hoặc con gái nhà lành nào, nghe được vị Bụt A-di-đà, hết lòng hành trì và thực tập theo phương pháp niệm Bụt, thì những người ấy được tất cả các vị Bụt hộ niệm, và tất cả đạt tới địa vị cao tột không còn bị thối chuyển. Vì vậy, quý vị hãy tin vào những lời tôi đang nói và cũng là những lời chư Bụt đang nói.’’

Trong đoạn kinh này, ta thấy ẩn dấu một hạt minh châu. Phương pháp đó gọi là ‘‘nhất hạnh tam muội’’. Tam muội này là thiền định theo phương pháp Niệm Phật Tam Muội. Khi thiền tập đạt được tam muội rồi, thì bấy giờ ta niệm Bụt nào cũng được, miễn là mình niệm Bụt mà thôi. Ta niệm Bụt A-di-đà cũng được, niệm Bụt Thích Ca cũng được, niệm Bụt Di Lặc cũng được, ta chỉ cần niệm một vị Bụt thôi, mà nếu đạt đến nhất tâm, là ta có định. Khi ta đã có định ở nơi một vị Bụt, thì thông qua vị Bụt đó, ta có thể tiếp xúc được hằng hà sa số chư Bụt, vì một vị Bụt là tất cả các vị Bụt và tất cả các vị Bụt là một vị Bụt. Cho nên, niệm Bụt A-di-đà cũng là niệm Bụt Thích Ca, niệm Bụt Thích Ca cũng là niệm Bụt Ca Diếp, niệm Bụt Ca Diếp cũng là niệm Bụt Tỳ Bà Thi, v.v... Vì vậy, niệm Bụt này cũng là niệm Bụt kia, ta đang kính lễ Bụt này cũng có nghĩa là ta đang kính lễ Bụt kia, cái thấy đó, cái định đó được gọi là nhất hạnh tam muội. Đến đây, chúng ta đọc tới một câu kinh khác rất là huyền diệu:

ĐÃ VỀ ĐÃ TỚI ^

 ‘‘Xá Lợi Phất, nếu có người đã, đang hay sẽ phát nguyện sinh về cõi Bụt A-di-đà, thì người ấy ngay trong giờ phút phát nguyện, đã đạt được quả vị giác ngộ cao tột không thối chuyển và đã có mặt ở nước ấy rồi, không kể đến sự kiện là người ấy chưa sanh, đang sanh hay sẽ sanh về đó.’’

Câu kinh này có nhiều người dịch khác nhau, nhưng theo cái hiểu của tôi thì dịch như trên mới rõ nghĩa. Nếu ta tiếp nhận được ý nghĩa của câu kinh này thì ta xúc chạm tới được bản môn.

‘‘Xá Lợi Phất, nếu có người đã, đang hay sẽ phát nguyện sanh về cõi Bụt A-di-đà.’’ Ta có muốn sanh về Cực Lạc hay không? Tất cả đều do ta. Ta có hai hoàn cảnh. Một là hoàn cảnh ta đang hệ lụy khổ đau và hai là tuy ta đang ở trong hoàn cảnh ấy nhưng ta đã có tâm muốn thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy. Vì vậy vấn đề là ta có muốn thoát hay không muốn thoát. Nếu ta muốn thoát, thì ta sẽ thoát được. Và nếu ta không muốn thoát, thì ta sẽ không bao giờ thoát. Quý vị đã từng bị lâm vào một hoàn cảnh đau thương và hệ lụy của cuộc đời chưa? Có rồi phải không? Cuộc đời sao mà nhiều khổ đau quá. Nhìn xung quanh, ta thấy người nào cũng khổ, người nào cũng trầm luân, người nào cũng hệ lụy. Ta cũng hệ lụy, ta cũng chìm đắm như người khác. Bấy giờ tự nhiên ta có ý muốn thoát ra, muốn đi tới một chỗ có an toàn, có giới luật, có chánh niệm, có Tăng thân. Ăn thua là mình đã có ý muốn đó hay không. Nếu có, thì tuy mình đang ở đó, mà mình đã bắt đầu thoát ra khỏi chỗ đó rồi. Quý vị có hiểu không? Tại sao? Tại vì tâm mình không còn vướng mắc vào chỗ khổ đau ấy nữa. Tuy thân của mình đang ở chỗ đó mà tâm của mình đã vượt ra khỏi chỗ đó và đã đi đến chỗ kia rồi. Nghĩa là ngay lúc tâm mình phát nguyện thì mình đã có mặt ở Tịnh Độ. Nếu có người đã, đang hay sẽ phát nguyện sanh về nước Bụt A-di-đà, thì người ấy ngay trong giờ phút phát nguyện, đã đạt tới quả vị cao tột, không còn thối chuyển, tức là không còn bị sa đọa. Và tại sao người đó không bị sa đọa? Là do sự quyết tâm từ bỏ cõi uế độ của người đó. Ngay lúc quyết tâm đó, tâm của họ đã sanh vào Tịnh Độ, sanh vào địa vị không thối chuyển. Một khi ta đã sanh vào địa vị không thối chuyển, thì ta không còn sa đọa nữa. Nên kinh nói nguyện sanh Tịnh độ là đã sanh rồi, không kể đến sự kiện là người ấy đã sanh, đang sanh hay sẽ sanh về nước ấy. Quý vị có thấy câu kinh này mầu nhiệm không? Trong hoàn cảnh hệ lụy đau thương, mà nếu mình có ý muốn thoát ly là mình có thể thoát ly ngay ở trong tâm của mình, và ngay trong tâm của mình đã có cõi Tịnh Độ. Như vậy là tuy còn đứng ngay tại chỗ mà mình đã sanh về Cực Lạc. Và mình có thể quay lại cứu vớt những người đang bị chìm đắm trong khổ lụy. ‘‘Khổ hải mang mang hồi đầu thị ngạn.’’ Biển khổ tuy là mênh mông, nhưng mà biết quay đầu lại, thì đã thấy đất liền. Vậy vấn đề là ta có muốn quay đầu lại hay không? Trong giáo lý Tịnh độ, tâm nguyện là quan trọng, vì nguyện luôn luôn gắn liền với đức tin. Có nguyện và có đức tin thì cho dù ta đang ở trong hoàn cảnh khổ đau cùng cực đi nữa, ta vẫn có nẻo để thoát ra, và nẻo thoát ấy là Tịnh Độ, là Tăng thân đang tu học có giới, định và tuệ. Nếu có Tín, có Nguyện và có Hạnh thì sanh về Tịnh độ không phải là chuyện khó đối với ta. Cũng vậy, nếu ta có Tín, có Nguyện và có Hạnh với Đạo tràng Làng Mai, thì việc đi về với Đạo tràng Làng Mai sẽ không khó đối với chúng ta. Chỉ một cú điện thoại cũng đủ giúp ta tới Đạo tràng Làng Mai rồi. Cô thiếu nữ tên là Thục Hiền có ý muốn xuất gia và có quyết tâm xuất gia, thì trong giờ phút quyết tâm xuất gia đó, cô đã thành tựu được hạt giống xuất gia ở trong tâm cô rồi. Còn vấn đề cạo đầu, mặc áo chỉ là vấn đề hợp thức hóa thôi. Nhìn cho sâu sắc là ta phải thấy như vậy. Tín, Nguyện và Hạnh là tinh hoa của việc tu tập Tịnh Độ. Tín là tin vào một nẻo thoát. Nguyện tức là muốn; muốn một cách tha thiết. Hạnh là sự thực tập Tịnh Độ hằng ngày. Hễ có Tín, Nguyện và Hạnh là lập tức ta sanh về Tịnh Độ, không kể đến sự kiện người ấy đã sanh, đang sanh hay sẽ sanh. Đọc kinh là phải quyết tâm để thấy được chiều sâu của kinh. Phải đọc kinh bằng trái tim, để khi tiếp xúc với tích môn, mình cũng tiếp xúc được với bản môn.

Đức Thích Ca dạy tiếp: ‘‘Quý vị hãy nên tin vào kinh này, kinh mà các Bụt trong vũ trụ đều đem hết lòng xưng tán và hộ niệm’’. ‘‘Xưng tán’’ vì kinh này có công đức vô lượng và có thể tạo ra nhiều thành tích, nhiều công đức. Và ‘‘hộ niệm’’ là yểm trợ bằng năng lượng chánh niệm của mình. Như vậy tất cả chư Bụt đều khen ngợi sự thực tập của kinh này, và hứa sẽ dùng năng lượng chánh niệm của mình để yểm trợ cho những người nào muốn thực tập. Lý luận có tính cách biện chứng của sự hành trì này là: khi mình để tâm vào bất cứ một vị Bụt nào, thì qua vị Bụt đó, mình có thể tiếp xúc với tất cả các vị Bụt khác trong vũ trụ. Và vì vậy danh hiệu riêng của từng Ngài không còn là một vấn đề nữa, vì qua một vị Bụt, mình có thể tiếp xúc với tất cả các vị Bụt trên thế giới. Cho nên ta niệm Bụt nào cũng được hết, miễn là ta niệm Bụt cho được nhất tâm. Chính nhờ các vị Bụt trong vũ trụ hộ niệm, mà hành giả sẽ không bị thối chuyển, tức là không bị sa đọa. Thực tập là được giữ gìn để đi tới, chứ không phải đi lui.

Nhìn sâu, ta thấy trong kinh có ý niệm về Tăng thân, và đây là một ý niệm hết sức căn bản và quan trọng. Tại vì Tịnh Độ là sáng tạo phẩm cộng đồng của Tăng thân. Không phải chỉ có Tịnh Độ của một vị Bụt. Tất cả các vị Bụt trong vũ trụ đều có Tịnh Độ, và đều yểm trợ cho các cõi Tịnh Độ. Ở bài kinh này ta học được rằng: chỉ cần để tâm niệm của mình hướng về một vị Bụt và niệm Bụt đến chỗ nhất tâm thì mình có cơ hội tham dự vào cõi Tịnh Độ, dù trong lòng mình vẫn đang còn có những hạt giống khổ đau. Trong ta đang còn có những hạt giống khổ đau, nhưng ta vẫn có thể tham dự vào cõi Tịnh Độ. Đây là một điều rất hay, vì ở trong giáo lý Tịnh Độ có ý niệm ‘‘đới nghiệp vãng sanh’’. ‘‘Đới’’ là mang theo, quẩy theo. ‘‘Nghiệp’’ là những hậu quả khổ đau do những động tác của cơ thể, của tư tưởng và của lời nói trong quá khứ đem lại. Mình có thể đem những nỗi khổ niềm đau của mình về tham dự vào Tịnh Độ. ‘‘Vãng sanh’’ là đến tham dự. ‘‘Đới nghiệp vãng sanh’’ nghĩa là đang quẩy nghiệp theo mà vẫn tham dự được Tịnh Độ. Khi ta cầm một hòn đá hoặc một viên sõi và liệng xuống dòng sông, thì dầu viên đá hoặc hòn sõi có nhỏ, có nhẹ đến mấy, nó vẫn chìm xuống sông như thường. Nhưng khi ta có một chiếc thuyền để chuyên chở thì dù cho ta có đặt mấy trăm ký đá vào thuyền thì thuyền cũng vẫn không chìm. Đây là một thí dụ rất hay về ‘‘đới nghiệp vãng sanh’’. Một mình thì chìm nghỉm, nhưng có sức hộ niệm của Tăng thân, của Bụt và Bồ tát, thì mình sẽ không chìm, mình vẫn nổi, và sự khác nhau là ta có Tăng thân hay không, có Tịnh Độ hay không. Có Tăng thân và có Tịnh Độ thì cho dù mình còn có đau khổ trong tâm, mình cũng không bị chìm. Cái hay là ở chỗ đó. Điều này có thể gọi là tha lực, tức là sức mạnh không phải sức mạnh của mình mà của người khác. Nhưng tha lực được làm bằng chất liệu của tự lực. Thí dụ: Tăng thân tuy là tha lực, nhưng tăng thân được làm bằng tự lực. Mỗi người đều đóng góp năng lượng hạnh phúc và năng lượng an lạc của mình vào Tăng thân, nên Tăng thân mới có năng lượng của chánh niệm, năng lượng của hạnh phúc, năng lượng của an lạc. Đem năng lượng đó ra thì tăng thân cứu vớt và chuyên chở được nỗi khổ niềm đau của người mới đến. Người mới đến cũng vậy, sự thực tập chánh niệm của mình cũng có thể đóng góp vào năng lượng chánh niệm và niềm vui của Tăng thân. Dù mình chỉ mới có chút ít niềm vui thôi, dù mình chỉ mới có chút ít năng lượng chánh niệm thôi, mình cũng có thể đóng góp được cho Tăng thân rồi. Cái đó gọi là tha lực. Tha lực được làm bằng tự lực. Tha lực có sẵn, nên khi mình tham dự và thừa hưởng những hạnh phúc và an lạc của Tăng thân thì mình phải đóng góp cái tự lực của mình vào cho Tăng thân. Chúng ta thử nghĩ cõi Tịnh Độ có rất nhiều người mới vãng sanh, trong tâm thức của họ vẫn còn những hạt giống của tham giận, buồn rầu, sợ hãi, nghi ngờ, do đó, thỉnh thoảng họ vẫn còn khổ đau. Bởi vì họ là hạng ‘‘đới nghiệp vãng sanh’’. Cho nên, ta đừng tưởng tượng rằng khi được tham dự vào Tịnh Độ là ta sẽ không có vấn đề gì nữa hết. Nếu có một cõi mà không phải Tịnh Độ, thì sự gặp gỡ của chúng ta trong cõi đó sẽ đưa tới sự chất chứa những khổ đau và sẽ tạo thành địa ngục. Nhưng trái lại, nếu chúng ta được gặp nhau ở cõi Tịnh Độ thì chúng ta có cơ hội để chuyển hóa khổ đau. Bởi vì ở đó ta có Bụt và các vị bồ tát ‘‘nhất sanh bổ xứ’’, có nhiều bậc ‘‘thượng thiện nhân’’, cho nên các ngài ôm ấp được những nỗi khổ niềm đau của người mới vãng sanh, ôm ấp trong tình thương, ôm ấp trong sự hiểu biết, ôm ấp bằng đức kiên nhẫn và sự hướng dẫn của mình. Do đó cõi Tịnh Độ có sức chịu đựng những nỗi khổ niềm đau của những người ‘‘đới nghiệp vãng sanh’’ mới tới, và nghiệp của những người đó sẽ được chuyển hóa từ từ bởi sự thực tập hàng ngày. Buổi sáng được đi hái hoa, được đi cúng Bụt, buổi trưa về ăn cơm chánh niệm, được đi thiền hành, nghe pháp thoại do chim nói, do cây nói, được gần gũi Bụt A-di-đà, được thân cận bậc thiện tri thức, đó là những điều kiện rất thuận lợi để tu tập, để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau mà mình đã mang tới từ bên kia. Và vì vậy ở Tịnh Độ là dân chúng phải tu, có phải vậy không? Ở cõi Tịnh độ tất cả dân chúng đều tu theo phép niệm Bụt, niệm Pháp và niệm Tăng, nhờ gió, nhờ chim yểm trợ, nhờ Bụt và các vị Bồ tát yểm trợ. Ta đừng nghĩ rằng qua đó, buổi sáng ta có thể dậy trưa, không đi ngồi thiền rồi cũng không ra ăn cơm sáng với đại chúng. Không có chuyện đó đâu. Qua bên kia là thế nào ta cũng sẽ làm đệ nhị thân cho một vị Bồ tát. Vị Bồ tát ấy thế nào cũng kéo ta dậy đi ngồi thiền chung, và giúp đỡ ta trong lúc khó khăn. Vậy, ‘‘đới nghiệp vãng sanh’’ là một thực tại, và vì vậy cõi Tịnh Độ có tính chất của một cõi ‘‘phàm thánh đồng cư’’. Phàm là những người trần tục, và thánh là những người đã được giải thoát, giải thoát một phần hoặc giải thoát hoàn toàn. Phần thánh ôm ấp phần phàm, giữ gìn phần phàm đừng cho phần phàm bung ra, và để cho phần phàm từ từ chuyển hóa. Cái hay của Tịnh Độ là không phải không có phần phàm, nhưng cái phần phàm được ôm ấp, nâng niu và chăm sóc bởi phần thánh. Chúng ta hãy quán tưởng đây là vòng tay của Bụt và của các vị Bồ tát đang ôm lấy tất cả chúng ta trong nguồn năng lượng thánh thiện của các ngài. Nguồn năng lượng thánh thiện này là nguồn năng lượng của chánh niệm. Và đây là những chúng sanh vừa mới vãng sanh, có rất nhiều chất phàm trong họ. Nhờ có nhiều bậc ‘‘thượng thiện nhân’’ tụ tập lại một chỗ, cho nên họ mới có đủ năng lượng thực tập chánh niệm để tự ôm ấp được những phần phàm đó của họ. Mỗi cá nhân đều có phần phàm trong tự thân, nhưng mỗi cá nhân cũng có phần thánh trong họ. Tuy mình là người phàm, nhưng vì mình đang tu tập chánh niệm, nên phần thánh đã bắt đầu có mặt. Do đó chất thánh không phải chỉ có ở nơi người khác mà cũng có nơi chính mình. Mỗi bước chân có chánh niệm, mỗi hơi thở có chánh niệm đều có thể chế tác ra được phần thánh của mình để mình có thể ôm lấy phần phàm của mình, và nếu chưa đủ, mình mượn phần thánh của chư Bụt và của các bậc Bồ tát ‘‘nhất sanh bổ xứ’’ hoặc các bậc ‘‘thượng thiện nhân’’ để ôm ấp và chuyển hóa phần phàm ở nơi mình. Lý do tồn tại của Tăng thân là sự có tu và có học. Tới với Tăng thân là để tu và để học, vì vậy, mỗi ngày mình chế tác được chất ‘‘thánh’’ thêm một chút để ôm ấp lấy chất ‘‘phàm’’ trong mình và để chuyển hóa chúng. Ta hãy nhìn vào Tăng thân của ta để thấy rằng Tăng thân của ta cũng là một cọng đồng phàm thánh đồng cư. Chất thánh trong chúng ta mặc dù đang có, nhưng không thể nào so với chất thánh của chư Bụt và Bồ tát. Và trong chúng ta có người có chất ‘‘thánh’’ nhiều hơn chất ‘‘phàm’’, nhưng cũng có người có chất phàm nhiều hơn chất thánh. Mỗi chúng ta đều có cả hai chất liệu ấy, nhưng chất lượng phàm và thánh ở trong mỗi chúng ta đều khác nhau.

 

HOA SEN CHÍN PHẨM^

N

gười ta nghĩ rằng ở cõi Tịnh Độ sen được chia thành chín bậc. Những người vãng sanh sang bên đó có nhiều trình độ và tùy theo trình độ đó mà người ta có chất thánh nhiều hay ít, và chỗ ngồi của họ được tượng trưng bằng hoa sen ‘‘chín phẩm’’. Khi còn ở trong cõi Ta bà này, trong giờ phút hiện tại, mỗi khi quý vị niệm câu ‘‘Nam mô Bụt A Di Đà’’ với tâm thành khẩn, chuyên nhất, thì chất liệu của chánh niệm được phát sinh, và tự nhiên ở bên cõi Tịnh Độ một bông sen búp được tượng hình. Đó là một hình ảnh rất đẹp, rất thi ca. Hãy khoan xem đó là một sự thật khách quan. Hãy xem đó trước hết là một hình ảnh thi ca rất đẹp. Mặc dầu nó là một búp sen nhỏ xíu nhưng mà nó đã có mặt. Tôi vẽ trên bảng, chia bảng thành hai phần. Phần này là cõi Ta bà. Phần kia là Tây phương Tịnh Độ. Mình là một chúng sanh đang ở bên này, tức là ở cõi Ta bà. Mình niệm Bụt một câu. Ở bên phần kia, một bông sen tượng hình. Đây là hình ảnh mà người ta hay sử dụng để thực tập. Tùy theo công phu thực tập mà bông sen bên kia lớn nhanh hay lớn chậm. Bông sen ấy là để dành cho mình. Mình sẽ sinh ra trong bông sen ấy. Khi bông sen lớn và già giặn rồi thì nó nở ra. Ngay lúc đó ta được sinh ra. Ta xuất hiện từ bông sen. Ta được sinh ra từ một bông sen (chứ không phải từ một bắp cải).

Ở cõi Tịnh Độ có chín phẩm sen. Theo ‘‘Quán A-di-đà Phật Kinh’’ thì chín phẩm chia làm ba trình độ, mỗi trình độ có ba phẩm và khi mình sinh sang cõi đó mà sinh vào phẩm thấp nhất là "hạ phẩm hạ sanh". Nếu là thượng căn thượng trí thì ta sanh ở phẩm ‘‘thượng phẩm thượng sanh’’.

Ba trình độ được sinh làm chín phẩm như sau:

                                   - Thượng phẩm thượng sanh

Thượng phẩm           - Thượng phẩm trung sanh

                                 - Thượng phẩm hạ sanh

                                 - Trung phẩm thượng sanh

Trung phẩm             - Trung phẩm trung sanh

                                 - Trung phẩm hạ sanh

                                 - Hạ phẩm thượng sanh

Hạ phẩm                  - Hạ phẩm trung sanh

                                      - Hạ phẩm hạ sanh

Mới nghe, ta có cảm nghĩ bên cõi Cực Lạc mà cũng có giai cấp xã hội và có sự kỳ thị giai cấp. Nhưng ta hãy coi chừng. Ta phải học với sự thông minh của ta. Khi ta sinh ra ở Tịnh Độ với tư cách hạ phẩm hạ sanh thì tuy ta đã qua được bên đó nhưng ta vẫn còn mang theo rất nhiều khổ đau. Có phải vậy không? Ta rất cần tới Tăng thân bên đó ôm ấp và nâng đỡ để chuyển hóa. Vì còn khổ đau nên mặc dầu đã ở Tịnh Độ mà ta không hưởng được hết một trăm phần trăm niềm vui của Tịnh Độ. Ta chỉ hưởng được năm phần trăm của niềm vui đó thôi, hay có khi còn ít hơn. Nhưng sự kiện ta đang ở Tịnh Độ là một điều mầu nhiệm lắm rồi, mặc dù ta còn đau khổ, còn nghi ngờ, mặc dầu thỉnh thoảng ta còn muốn bỏ đi. Đã ở Tịnh Độ rồi, nhưng ta vẫn còn trồi lên sụp xuống rất nhiều. Cho nên ta phải cần đến Tăng thân. Chúng ta cần phải bám lấy Tăng thân. Tịnh Độ là vậy. Ở bên kia, có những người hạnh phúc rất lớn, vì họ được sinh ra trên những bông sen thượng phẩm thượng sanh. Nhưng cũng có người còn khổ đau.

Đôi khi mình tự hỏi: Tại sao cùng sống trong một môi trường mà người kia nhiều hạnh phúc như vậy? Họ cười vui suốt ngày. Còn ta, ta cũng muốn cười lắm chứ. Thấy họ cười vui, ta cũng ráng cười theo, nhưng nhìn vào gương ta thấy nụ cười ta méo xẹo.

Nếu muốn hiểu về Tịnh Độ, ta phải nhìn thực tế vào Tăng thân trong đó ta đang sinh hoạt, lúc đó ta sẽ biết Tịnh Độ là gì và biết mình đang ngồi trên loại sen nào; sen thương phẩm, sen trung phẩm hay là sen hạ phẩm.

Tại sao trong cùng một Tăng thân, cùng trong một hoàn cảnh, cùng một Thầy, cùng những người bạn tu, nhưng có người thì hạnh phúc quá chừng, thảnh thơi quá chừng, còn mình thì vẫn cảm thấy đau khổ, cảm thấy cô đơn. Mình còn có cảm tưởng rằng mình là công dân hạng bét của tăng thân nữa là khác.

Hãy lấy một ví dụ. Tăng thân Làng Mai đang đi thiền hành với Thầy. Cũng Thầy đó, cũng những sư anh đó, những sư chị đó, cũng những sư em đó, cũng đi trên con đường đó, cũng thấy những hàng cây và nghe những tiếng chim đó. Nhưng tại sao có người đi thiền hành thì đạt được rất nhiều hạnh phúc, nhưng cũng có người không đạt được hạnh phúc bao nhiêu. Đó có phải là tại vì ngoại cảnh hay tại vì tâm tư riêng của mình? Câu trả lời thật dễ dàng. Cái đó không phải do ngoại cảnh, mà là do tâm, bởi vì tất cả ngoại cảnh đều do tâm biểu hiện.

Cũng bước đi từng bước như vậy, nhưng tại sao người ta thì lại thảnh thơi, vững chãi. Còn mình thì lại xụt xùi, vướng víu bên này, bên nọ. Vậy thì vấn đề đâu phải là ngoại cảnh. Chúng ta đừng tưởng rằng được vãng sanh qua cõi Tịnh Độ thì hết vấn đề và ta khỏi cần phải tu tập gì thêm. Nghĩ như vậy thì quá sai lầm. Tại vì được vãng sanh sang bên đó cũng giống như đã thi đậu vào trường đại học. Mà tại trường đại học thì ta phải học rất nhiều ‘‘cua’’. Cho nên ta không thể cúp ‘‘cua’’ được, ta phải đi học cho đều, phải đi công khóa cho đều.

Bụt A-di-đà tuy rất hiền, nhưng Ngài rất muốn chúng ta tu học và thương yêu nhau như là con một nhà. Đó là tại vì mình muốn Bụt A-di-đà là từ phụ, là đấng cha lành, nghĩa là người cha chỉ thương yêu, dạy dỗ, mà không rầy rà, không la mắng.

Chúng ta hãy nhìn vào Tăng thân của chúng ta để quán chiếu. Ban đầu chúng ta đã nhờ một cơ duyên nào đó mà đi tới được với Tăng thân này. Thật sự là ta đang ở với Tăng thân. Nhưng cái sự thật ta đang ở trong Tăng thân không có nghĩa là ta không còn có vấn đề gì nữa. Ta đã gia nhập tăng thân với những nỗi khổ và niềm đau còn lại của ta. Nhưng ta đã rứt ra được hoàn cảnh ngày xưa, và ta đã tới được với Tăng thân: đó là đã một thành tựu lớn. Và vì vậy ta phải biết thực tập, tức là phải đưa nỗi khổ niềm đau ra để cầu xin Tăng thân ôm ấp nó cho ta, và ta cũng phải thực tập để tự ôm ấp nỗi khổ niềm đau ấy để chuyển hóa chúng.

Chúng ta phải biết nương tựa Tăng thân, phải hoàn toàn phó thác thân mạng mình cho Tăng thân. Tại vì Tăng thân là cơ hội duy nhất để giúp ta ôm ấp và chuyển hóa nỗi khổ niềm đau của ta. Có thể là ta đã qua tới cõi Tịnh Độ rồi, nhưng vẫn chưa ngồi chưa yên và hoa sen trên đó mình ngồi chưa hẳn là hoa sen. Mình nói rằng Tịnh Độ này không phải của tôi. Đó là tâm trạng của chúng sanh. Có khi đến một hoặc hai năm sau thì cái suy nghĩ ấy mới không còn. Hạt giống muốn bỏ nhà ra đi, người nào trong chúng ta cũng có. Tất cả mọi đứa trẻ đều có một lần muốn bỏ nhà ra đi do giận cha, giận mẹ, giận anh hoặc giận chị. Có phải vậy không? Hạt giống ấy không phải tự mình làm ra mà đã được trao truyền từ nhiều đời. Cho nên qua tới Tịnh Độ rồi mà thỉnh thoảng ta vẫn muốn bỏ Tịnh Độ mà đi. Cái đó là chuyện rất thường thôi bởi vì hạt giống bỏ nhà ra đi ấy trong ta vẫn còn chưa được chuyển hóa.

Các thầy, các sư cô, các sư chú và các Phật tử ở đây ai cũng biết rất rõ chuyện này. Nếu có phước đức của tổ tiên, chúng ta sẽ không bỏ đi. Kiên trì ở lại được vài ba năm thì ta thấy gốc rễ ta vững mạnh và ta bắt đầu có thế di lên rất vững chãi. Điều đó đòi hỏi một niềm tin nơi Tăng thân, một niềm tin nơi cõi Tịnh Độ mới được.

Bụt A-di-đà luôn luôn có mặt đó để ôm ấp ta, các bậc thượng thiện nhân cũng luôn luôn có mặt để ôm ấp ta. Nhưng vì quá đau khổ, thành thử ta không hưởng được cái hạnh phúc mà Bụt A-di-đà hay những bậc thượng thiện nhân thương tưởng và trao truyền. Đôi khi nhìn mặt Bụt A-di-đà, có thể ta thấy ngài không dễ thương mấy. Tại vì ta không thảnh thơi và tự tại để có thể nhìn được rõ. Nhìn cái gì ta cũng thấy bị bóp méo, vì ta đang bị vô minh che lấp tâm tánh. Muốn nhìn thấy Bụt A-di-đà trong tự thân của Ngài, ta phải có sự tĩnh lặng, sự tự do. Còn nếu nhìn qua cặp mắt kính của hờn giận và của ganh tức thì chúng ta chưa thể thấy được Bụt A-di-đà.

Sự thật là như vậy. Cho nên diễn tả Tịnh Độ bằng chín phẩm hoa sen tuy là đúng sự thật, nhưng cũng rất nguy hiểm. Nguy hiểm ở chỗ ta có thể nghĩ: Ở cõi Tịnh Độ mà cũng còn giai cấp, sang bên này rồi mà mình cũng còn phải làm công dân hạng thứ chín chứ không phải hạng thứ nhì, và suy nghĩ như thế, mình sanh tâm ganh tức những người kia. Nhưng sự thật không phải như vậy. Những người kia sở dĩ họ có hạnh phúc không phải vì họ được Bụt A-di-đà thương yêu và biệt đãi hơn đâu. Bụt đâu có tâm kỳ thị chúng ta. Vì tâm của ta còn nhiều vô minh và đau khổ cho nên ta nghĩ rằng ta đang bị bạc đãi, ta đang bị kỳ thị, ta đang làm công dân hạng nhì, hạng ba hay hạng chín. Tất cả những mặc cảm đó là do mình mà ra. Đi sang cõi Tịnh độ rồi mà hạt giống của Ta bà khổ đau vẫn còn và vẫn hiện khởi, cho nên ta không hưởng được trọn vẹn cái vui của Cực Lạc. Trong khi đó những người khác lại hạnh phúc quá chừng. Điều này ta đâu phải cần đi qua bên đó nhìn tận mắt mới thấy. Ngồi đây, ở trong Tăng thân này, mình cũng có thể thấy được rồi. Ở trong Tăng thân mình cũng thấy có chín phẩm. Có những người cảm thấy rất thoải mái, rất hạnh phúc, nhưng cũng có những người vẫn còn nhảy nhỗm, vẫn còn muốn bỏ đi, vẫn còn giận hờn, vẫn còn cảm tưởng bị kỳ thị.

Điểm này trên bảng chỉ cho cõi Ta bà, còn điểm bên kia chỉ cho cõi Tịnh Độ. Điểm này là điểm bây giờ, và điểm kia là điểm lúc đó - lúc đó là lúc sau khi mình chết và được sanh sang cõi Tịnh Độ. Đây là điều chúng ta cần phải để ý. Bởi vì ta đang thực tập theo nguyên tắc ‘‘bây giờ và ở đây’’. Và ta có thể nghĩ rằng ta thực tập là để đạt được một kết quả trong tương lai, nghĩa là sẽ được sinh ra ở điểm bên kia. Trong lúc thực tập, đôi khi ta cũng sinh tâm chán bỏ, chán ghét bên này. Chán ghét bên này mà đi tìm bên kia, chán ghét bây giờ để đi tìm một cái gì trong tương lai. Đây là tâm lý của chúng sanh, rất có tính cách phổ biến.

Tâm niệm của chúng sanh thường chán ghét hiện tại và nghĩ rằng hạnh phúc chỉ có thể có mặt trong tương lai. Mình chán ghét cái ở đây và mình đi tìm một cái ở nơi khác. Vì vậy, Bụt mới xót thương và mới nói rằng có một cõi Tịnh Độ ở phương Tây. Điều này nghe như một lời hứa hẹn. Đây là một điều rất quan trọng cần phải quán chiếu. Nếu muốn thật sự hiểu được kinh, ta cần phải quán chiếu cho sâu sắc.

Đối tượng sự ước muốn và sự thờ phụng của mình ban đầu thường nằm ở ngoài mình, như Thượng đế, như Ky-tô, như Bụt, như Tịnh Độ, như nước Chúa, v.vv... Lúc đó mình có cảm tưởng ở đây và bây giờ không có gì hết, chỉ có khổ đau, chỉ có tàn hoại, chỉ có héo hắt, chỉ có sầu não thôi. Chính vì thế mình mới cần bám vào một cái gì ở nơi khác và ở trong tương lai. Đó là nước Chúa, là Tịnh Độ, là Niết Bàn, là Bụt, là Bồ tát, là Ky-tô. Tâm chúng sanh thường nghĩ như vậy. Sự suy nghĩ này bắt đầu từ một mặc cảm mình là một con số không. Mình đi tìm một cái gì bên ngoài mình. Mình không biết rằng những gì bên ngoài ấy đều là những điều do tâm mình phóng chiếu ra cả.

Khi mình tạo ra một bức tượng để thờ, dù là tượng Phật hay tượng Chúa, tượng điêu khắc hay tượng vẽ, thì bức tượng ấy cũng từ trong tâm mình mà đi ra. Cái tượng ấy nếu không phải từ trong tâm mình đi ra thì nó từ đâu tới? Tâm mình thảnh thơi, nhẹ nhàng thì nét mặt trên tượng sẽ thảnh thơi, nhẹ nhàng. Tâm mình nặng trĩu buồn đau thì mình khó mà tạo ra cho được một pho tượng có khuôn mặt thảnh thơi.

Do đó, tất cả những hình ảnh của Thượng đế, của nước Chúa, của Tịnh Độ, đều là những sáng tạo của tâm. Và đó mới là những hình ảnh chứ chưa phải là những thực tại.

Khi ta tạc ra một pho tượng Bụt để thờ, và thấy pho tượng không được đẹp cho mấy, ta không dám bỏ đi, không dám đập vỡ, cứ nghĩ rằng đập vỡ thì mang tội. Nhưng tượng đó là do tâm làm ra, chứ đâu phải ở ngoài đi tới. Tri giác sai lầm căn bản là ở chỗ chúng ta có mặc cảm rằng chúng ta không là gì hết, chúng ta chỉ là khổ đau và tiều tụy. Vì vậy chúng ta mới đi tìm kiếm một cái gì có giá trị ở bên ngoài. Những khi ta chắp tay cầu nguyện, ước mơ, hoặc quán tưởng thì tự nhiên trong tâm có sự bình yên trở lại. Có niềm tin, tâm từ từ tĩnh lặng. Có tĩnh lặng thì bắt đầu có trí tuệ, từ từ ta thấy được rằng cái mà ta tưởng rằng ở ngoài, nó thực sự đang ở trong ta.

Ban đầu ta thấy Bụt là một thực tại ở ngoài ta. Sau một thời gian tu tập và giác ngộ, ta thấy Bụt là một thực tại ở trong ta. Và nếu ta tu tập tinh tấn, thì ta thấy Bụt không phải ở trong cũng không phải ở ngoài. Tại vì ở ngoài và ở trong chỉ là hai ý niệm, trong khi sự thật vượt thoát các ý niệm ở trong và ở ngoài. Ta thử hỏi: Ở trong là ở nơi nào? Nơi lá phổi hay nơi lá lách, hay nơi trái tim? Có một chỗ nào nhất định không? Chính vì thế, các ý niệm ở trong và ở ngoài đều chỉ là những ý niệm. Nói rằng Bụt, Niết Bàn, Tịnh Độ và nước Chúa không thể được gọi là ở ngoài, ở trong hay ở chặng giữa được. Tại vì những ý niệm kia đều chỉ là những phạm trù của tư tưởng mà thôi. Điều này rất là quan trọng để cho mình hiểu được kinh. Và như vậy, đi tìm Tịnh Độ hay đi tìm Bụt có nghĩa là đi tìm tự thân của chúng ta. ‘‘Con đã tìm ra Thế Tôn, con đã tìm ra con.’’ Hai câu đó của bài thơ Tìm Nhau chỉ có nghĩa như vậy. Ban đầu thì ta đi tìm Thế Tôn như một thực tại ở ngoài, nhưng khi tìm ra được Thế Tôn rồi thì ta thấy rằng Ngài không phải là một thực tại bên ngoài. Tìm thấy Thế Tôn đồng thời cũng là tìm thấy được tự thân, và ta thấy được rằng Thế Tôn và ta không phải là hai thực tại riêng biệt.

Khi ta niệm một câu ‘‘Nam mô Bụt A Di Đà’’ thì một búp sen nhỏ được tượng hình ở trong đất Bụt. Niệm thêm một tiếng nữa thì bông sen lớn lên thêm một chút. Cùng với công phu niệm Bụt ấy mà đóa hoa sen lớn lên từ từ. Đóa sen đó là đóa sen của ta. Khi thành công rồi, thì ta sẽ được sinh ra từ đóa sen đó. Đóa sen đó có thể là hạ phẩm, trung phẩm hay là thượng phẩm, điều này tùy thuộc vào công phu tu tập của chúng ta. Đóa sen đó nằm ở bên kia, nó được để dành cho những ai có tâm tu tập, dù là thời gian này hay thời gian khác, dù thực tập nhiều hay ít. Nó bắt đầu tượng hình ở bên kia nhưng đồng thời nó cũng đang được tượng hình ngay trong lòng mình. Có phải vậy không?

Điều này là một điều rất khoa học. Khi sư chú thở vào một hơi thở có chánh niệm và biết mỉm cười, thì búp sen của sự an lạc và của hạnh phúc đã tượng hình trong người của sư chú, đã nở trong trái tim của sư chú. Một đóa hoa an lạc của tình thương và của tĩnh lặng. Ta dùng hình ảnh của một hoa sen để tượng trưng cho sự an lạc và tĩnh lặng ấy. Tại sao phải đợi đến tương lai mới được hưởng bông sen kia? Tại sao ta phải đợi qua Tây phương rồi mới được hưởng bông sen kia? Chỉ cần một câu niệm Bụt thành khẩn, chỉ cần một hơi thở có chánh niệm là chúng ta có thể hưởng được bông sen của sự an lạc và của thảnh thơi ngay bây giờ và ở đây. Và Tịnh Độ nằm ngay ở đây và bây giờ chứ không phải đâu xa. Đây là điều mà mình phải thấy. Đây là cách nhìn Tịnh Độ bằng con mắt của các nhà thiền quán. Thiền đây không hẳn là thiền Tổ sư hoặc thiền Như Lai mà là thiền nguyên thỉ, nghĩa là thiền mà chính Bụt và các thầy, các sư cô thực tập cách đây hai ngàn sáu trăm năm, như thiền Niệm Xứ, thiền Quán Niệm Hơi Thở, thiền Hiện Pháp Lạc Trú. Chúng ta thường hay quên rằng đức Thế Tôn đã từng dạy chúng ta pháp môn ‘‘Hiện Pháp Lạc Trú’’, sống an lạc ngay trong giờ phút hiện tại.


Mục lục | Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Bản dịch Kinh A-di-đà

 


Vào mạng: 1-4-2002

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang