Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
PHẬT GIÁO TRONG THẾ KỶ MỚI
PHẬT LỊCH 2540 – GIAO ĐIỂM
Tuyển tập 1
***
DỊCH, TỤNG, GIẢNG KINH VÀ TIẾN HÀNH NGHI LỄ PHẬT GIÁO BẰNG TIẾNG VIỆT
Huyền Cương Lê Trọng Cường

Một Cuộc Cách Mạng Lớn Lao và Bức Thiết

 Sau ngày đất nước thống nhất, một người bạn cũ của tôi, nhà trí thức ở Sài Gòn, có hỏi tôi: "Hồi cuối thập kỷ 50 anh học Đại Học Bách Khoa Hà Nội thì học bằng thứ tiếng (ngôn ngữ) gì? Hẳn là không dùng tiếng Pháp, tiếng Anh. Vậy dùng tiếng Nga hay tiếng Tàu?". Tôi trả lời: "Tiếng Việt"’. Anh bạn tròn mắt ngạc nhiên: "Không rỡn đấy chứ? Đại học Luật Khoa, Văn Khoa có từ thời Pháp, thì học bằng tiếng Việt còn có thể tin, chứ khoa học - kỹ nghệ thì tiếng Việt đâu có đủ từ để diễn đạt!”

 Ngang đây, có thể thấy rằng tầm nhìn của người lãnh đạo quả là quan trọng đối với nhịp độ phát triển ngôn ngữ dân tộc. Tôi còn nhớ những ngày đầu Việt Nam hóa giáo dục đại học, không ít người thiếu tin tưởng vào sự thành công của sự nghiệp lớn lao, đầy khó khăn này. Nhà nước đã có chủ trương đứng đắn và truyền trao được quyết tâm của mình tới đội ngũ trí thức Việt Nam hồi đó, đã khơi dậy và nuôi dưỡng phong trào viết sách, giảng dạy và học tập bằng tiếng Việt trong các trường đại học, cả khoa học xã hội lẫn khoa học tự nhiên. Bước đầu bao giờ cũng đầy chông gai, gian khổ. Nếu ngại vất vả, thiếu tự tin, không mạnh dạn bắt tay tháo gở khó khăn thì chẳng thể có được thành tựu như ngày nay. Như đã thấy, theo thời gian, ngôn ngữ Việt Nam từng bước vượt qua bao thử thách gian nan, để hôm nay đây nhìn lại không khỏi tự hào. "Ngày nay đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập… Người Việt Nam đã có một thứ chữ (ngôn ngữ) riêng, đủ sức diễn đạt tư tưởng của dân tộc ta. Chữ quốc ngữ có khả năng phiên dịch các loại sách văn hóa, khoa học, triết học, tôn giáo… của nước ngoài. Đây là một vinh hạnh lớn lao cho xứ sở mình, mà tổ tiên ta chưa từng có" (HT Thích Thanh Từ - Diễn văn khai mạc lễ khánh thành Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt – 1994).

Gợi nhớ đôi nét trong quá trình phát triển ngôn ngữ Việt Nam mấy chục năm qua theo đà vươn lên của đất nước, với lòng quyết tâm của cả dân tộc tự khẳng định mình trên trường quốc tế, là để tạo màu nền cho câu chuyển bàn về vấn đề tiếng Việt trong việc cập nhật hóa cách thái hoằng truyền đạo Phật ở nước ta hôm nay.

Cũng như bất kỳ công cuộc truyền bá tư tưởng nào, sự nghiệp xiển dương Phật pháp ở nước ta xưa và nay đều vấp phải một trở ngại lớn lao và rất cơ bản. Đó chính là hàng rào ngôn ngữ. Điều này, có thể nói, là kết quả của một quá trình lịch sử nhiều thế kỷ dân tộc ta đã trải qua. Nhưng tư tưởng ngần ngại, khi phải thay đổi một thói quen huân tập bao đời “sính dùng kinh sách chữ Hán", cũng là một nguyên nhân nổi rõ.

 Do hoàn cảnh lịch sử, hầu hết kinh sách Phật giáo truyền tới nước ta từ trước đến nay đều thuộc dòng Bắc truyền Hán tạng do người Trung Hoa phiên dịch từ chữ Phạn (Sanskrit) sang chữ Hán. Người Việt xưa chịu ảnh hưởng ngàn năm Bắc thuộc cũng quen dùng chữ Hán diễn đạt tư tưởng mình, nên các tăng ni và nho sĩ đọc kinh sách chữ Hán không gặp trở ngại đáng kể. Tuy nhiên trên giác độ hoằng pháp cũng dễ dàng thấy rằng những tư tưởng cao siêu trong kinh sách Phật giáo khó có thể thấm sâu trong quảng đại quần chúng phật tử bình dân do hàng rào ngôn ngữ này. Chính đó là kẽ hở để mê tín dị đoan có thể xen vào, làm méo mó hình ảnh phong trào Phật giáo nước ta, mà lịch sử đã hơn một lần ghi lại sự kiện Nhà Nước và những nhà hoạt động Phật giáo chân chính phải bận tâm giải quyết. 

Những chiến thắng quân sự vang dội thời Lý Trần chẳng những giữ vững nền độc lập chính trị của tổ quốc mà còn tạo điều kiện để dân tộc Việt Nam ngẩng cao đầu khẳng định nền độc lập về văn hóa và tôn giáo. Đời Trần không chấp nhận lệ thuộc nước ngoài về bất cứ phương diện nào, kể cả tôn giáo. Trong tinh thần tự chủ - tự cường lên cao đó, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử ra đời. Đó là dòng Thiền duy nhất do thiền sư Việt Nam thành lập, cô đọng những nét tinh túy nhất của Phật giáo Việt Nam thời ấy. Các nhà lãnh đạo đời Trần chủ trương học cái hay của người để biến thành cái hay của mình. Chính nhờ quá trình "biến thành" này mà lịch sử còn ghi lại những áng thơ, văn, luận, kệ Phật được sáng tác bằng chữ Nôm (tiếng Việt được viết theo kiểu chữ Hán). Tuy số lượng chưa nhiều nhưng sự có mặt của chung góp phần tạo thêm sức mạnh cho công cuộc hoằng truyền đạo pháp thấm sâu trong đại chúng, và Phật giáo đời Trần đã nổi lên như những trang rạng rỡ nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

 Từ khi giao lưu với phương Tây, dần dần người Việt Nam đã có chữ viết theo bộ chữ cái La Tinh (chữ quốc ngữ). Vào quãng giữa và cuối thế kỷ 20, các nhà hoạt động Phật giáo Việt Nam đã cố gắng nhiều trong công việc dịch thuật kinh luận ra chữ quốc ngữ và dấy lên làn gió mới chấn hưng Phật giáo. Bước phát triển này với những gương mặt tiền phong đáng kính, như BS Tâm Minh Lê Đình Thám, cụ Tuệ Nhuận Văn Quang Thùy, cụ Thiều Chửu, và nhiều vị khác nữa, đã in một dấu son trong lịch sử Phật giáo Việt Nam cận đại. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những bưới đi ban đầu trong sự nghiệp dịch thuật kinh sách ra tiếng Việt, nên không thể tránh khỏi những hạn chế của nó. Hầu hết trong các bản dịch kinh luận thời ấy tồn tại một tỷ lệ lớn các từ Hán Việt, và nhất là phong cách biểu đạt còn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của cấu trúc ngôn ngữ Hoa Hán. Vì vậy, nhìn chung chúng còn khá xa vời so với tiếng Việt phổ thông hiện đại. Có thể nói, phần lớn các bản dịch kinh luận Phật Giáo giai đoạn này vẫn gần giống như bản phiên âm Hán Việt viết bằng chữ quốc ngữ. Thực trạng đó làm giảm đáng kể sức mạnh hoằng truyền chính pháp trong đại chúng.

 Trong số các tăng ni, Phật tử đọc tụng kinh luận hằng ngày, không ít người có thể thuộc nằm lòng cả bản kinh dài dăm, bảy, có khi tới cả chục trang sách phiên âm Hán-Việt, hoặc những bản thần chú bằng tiếng Phạn, Pali, hoặc bằng phiên âm Hán- Việt, nhưng kỳ thực chẳng hiểu nội dung nói gì, nếu không muốn nói là hiểu sai. Trong lời nói đầu cuốn Bát Nhã Dư Âm, NXB Hà Nội – 1995, HT Thích Phổ Tuệ đã dũng cảm bộc bạch: "Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh chính là đoạn văn tâm điểm, thiết yếu… thường được trì tụng, nhưng tôi vẫn chưa hiểu nghĩa lý gì".

 Khi được hỏi lý do vì sao ưa đọc kinh bằng âm Hán-Việt và trì chú bằng tiếng Phạn, Pali hoặc phiên âm Hán-Việt, một số Phật tử đã thật lòng trả lời. Dưới đây tôi xin được phép tóm tắt mấy ý chính trong các lời đáp ấy:

  1. Để tăng thêm tính trang nghiêm trong lúc tu hành. Nếu dùng tiếng Việt e giảm bớt sự nghiêm cẩn, vì xưa có câu "Nôm na là cha mách qué".
  2. Tụng kinh, đọc chú bằng tiếng Việt sợ chư Phật-Tổ không hiểu, nên không gia hộ cho người tu chóng được quả Thánh.

 Ôi! Đêm dài nô lệ đã qua lâu rồi, mà tàn dư tư tưởng của nó vẫn còn hằn sâu trong tâm trí một số người, để đến bây giờ không ít người còn nghĩ rằng "Nôm na là cha mách qué", rằng tụng kinh tiếng Việt giảm đi tính nghiêm cẩn! Đúng là "vô tình chúng ta bị lệ thuộc văn hóa nước ngoài một cách đáng tiếc” (HT Thích Thanh Từ, tlđd).

 Thử hỏi trong câu chuyện thường ngày giao tiếp ở những nơi trọng thị, trong các văn bản chính thức, Nhà Nước, trong các sách được dùng trên các giảng đường đại học về triết học, khoa học - kỹ thuật… ta đang dùng thứ ngôn ngữ gì, nếu không phải là tiếng Việt? Vậy mà có gì là "mách qué", có mất đi chút nào tính nghiêm cẩn?

 Phật dạy: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”, Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma cũng từng nói: “Không có Phật ngoài tâm… Bỏ tâm, tìm Phật ở nơi ngoài là mê sảng… Không có sự giác ngộ nào ở ngoài tâm linh động". Vậy thì tụng kinh, trì chú là để ai nghe, ai hiểu, ai huân tập, ai chuyển nghiệp, ai chứng ngộ, nếu không phải là chính người tu và các bạn cùng tu? Vậy "tại sao chúng ta không mạnh dạn thay đổi nghi lễ cúng tụng thành ra tiếng Việt cho mọi người dễ hiểu, dễ cảm thông?" (HT Thích Thanh Từ, tlđd).

 Thời chuyển pháp luân Đức Phật thường nhắc các đệ tử phải tự mình thắp đuốc mà đi, không ai có thể tu thay mình được. Nếu tin và ỷ lại vào sự gia hộ của chư Phật Tổ là hoàn toàn trông cậy ở sự trợ giúp từ bên ngoài (tha lực), người Phật tử sẽ mất dần lòng tự tin. Đây chính là môi trường thuận lợi cho các loại "trái độc" mê tín dị đoan sinh sôi nảy nở, cản trở bước đường tiến tu của hành giả.

 Mới đây Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo đã chỉ đạo việc phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam, cùng một số kinh khác. Nghi thức tụng kinh hai thời: buổi trưa (Tâm Kinh Bát Nhã) và buổi tối (Nghi Thức Sám Hối – Vua Trần Thái Tông) đã được dịch hoàn toàn ra tiếng Việt và được thực hành tại Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt. Những sự kiện ấy quả là những tấm gương sống động, đầy sức thuyết phục đáng để các chùa, các viện khác và những ai còn do dự noi theo.

 Bước đầu còn nhiều khó khăn nên không thể cầu toàn. Dù chưa thực hoàn hảo, thì sự có mặt các kinh luận tiếng Việt cũng là đáng khích lệ lắm rồi. "Điều đó giúp người đọc và người nghe dễ hiểu, dễ thâm nhập… Trong sự chuyển dịch buổi đầu không tránh khỏi chói tai người nghe (vì chưa quen tai) và còn nhiều thiếu sót, song chúng tôi bạo dạn tạo một cái nhơn nhỏ, mong sau này sẽ đâm chồi, nảy tược nhiều hơn… Chúng tôi cố làm sống lại những cái hay, cái đẹp của tổ tiên mình, đồng thời Việt hóa nghi thức tu hành để tránh cái lỗi tha hóa lâu nay chúng ta vấp phải" (HT Thích Thanh Từ, tlđd).

 Đó là những dấu hiệu đáng mừng, làm thay đổi quan trọng tình trạng trì trệ bấy nay trong việc dịch thuật kinh luận và tiến hành nghi thức tu hành, góp phần tạo thêm sức mạnh trong sự nghiệp hiện đại hóa Phật giáo Việt Nam. Phải chăng đó là những dấu hiệu mở đầu một cuộc cách mạng lớn lao và bức thiết đối với cách thái truyền bá Phật pháp, dấy lên một phong trào mạnh mẽ, sâu rộng trong giới Tăng Ni, Phật tử nay mai?

 Dịch thuật kinh luận Phật Giáo quả là một công việc thầm lặng và đầy khó khăn, gian khổ. Như trên đã nói, tuy nguồn gốc kinh luận là từ Ấn Độ, viết bằng chữ Phạn, nhưng phần lớn có mặt ở nước ta lại là kinh bản Hán tạng. Đặc điểm của ngôn ngữ Hoa-Hán là rất hàm súc, nhưng ngữ pháp thiếu chặt chẽ, vắng mặt các dấu ngắt câu, do đó nhiều khi khó hiểu và dễ gây lầm lẫn đáng tiếc cho người đọc. Người xưa thường nói ba lần chép lại coi như mất gốc (tam sao thất bổn), huống chi là dịch thuật. Hơn nữa, không phải chỉ dịch một lần, mà thực tế có thể là hơn hai lần. Ví dụ, từ chữ Phạn dịch sang chữ Hán, rồi từ chữ Hán chuyển sang âm Hán-Việt, cuối cùng dịch sang tiếng Việt. Vả lại trước đây không có nguồn tài liệu nào khác để đối chiếu, tham khảo ngoài nguồn Hán tạng.

 Trong dịch thuật, nhất là dịch kinh luận, số lượng nguồn tài liệu tham khảo nhiều khi đóng vai trò đáng kể, thậm chí quyết định, đối với chất lượng bản dịch. Trước đây do nguồn tư liệu hạn hẹp trong khuôn khổ Hán tạng, cho nên gặp chỗ khó khăn dịch giả thường tìm lối thoát bằng cách dịch âm Hán-Việt trong các bản dịch còn quá nhiều.

 Ngôn ngữ nói của người Việt cổ đã có từ xa xưa. Ngàn năm Bắc thuộc đẩy tiếng Việt xuống hàng thứ yếu, chỉ phát triển chậm chạp và tiềm tàng trong dân gian một cách tự phát. Khi có chữ viết La-tinh hóa, tiếng Việt mới được chấn hưng và phát triển có tổ chức. Vai trò tiếng Việt trong đời sống văn hóa Việt Nam ngày càng được củng cố và năng cao. Tuy nhiên giai đoạn đầu và giữa thế kỷ 20, vốn từ vựng tiếng Việt còn thiếu trầm trọng, nhất là mảng khái niệm trừu tượng. Thực tế lịch sử đó cũng là một nguyên nhân khách quan dẫn tới tình trạng một số bản dịch kinh luận không khác là bao so với bản phiên âm Hán-Việt.

 Bên cạnh hoàn cảnh khách quan đã mô tả ở trên, cũng phải kể đến nguyên nhân chủ quan người dịch. Nếu như người dịch thiếu một kỹ năng thành thạo, một thói quen dùng từ gốc Việt, hoặc chưa nhuần nhuyễn sử dụng cấu trúc câu tiếng Việt trong việc diễn đạt những tư tưởng, những khái niệm trừu tượng, vi diệu như trong kinh luận Phật giáo, và nhất là chưa xây dựng cho mình một quan niệm đúng đắn đối với vai trò tiếng Việt, một ý thức tự cường dân tộc, thì dù người ấy có trình độ nho học uyên bác đến đâu cũng dễ rơi vào tình trạng bê nguyên từ vựng và cấu trúc ngôn ngữ Hán vào bản dịch. Thật đáng tiếc, giờ đây hiện tượng này vẫn còn tồn tại!

 Dịch như thế tuy giúp cho người không biết chữ Hán "phát âm" kinh luận một cách dễ dàng, nhưng chẳng giúp gì cho việc tìm hiểu kinh luận; khác nào ngay khi giúp phá bỏ bức tường dày đặc, thì lại dựng một hàng rào thép chặn đứng, làm cho người tu khó bề vượt qua, nói chi tới việc thể nhập chân lý, thoát khỏi mê lầm.

 Như vậy, dịch thuật kinh luận Phật giáo đòi hỏi ở người dịch, ngoài tri thức uyên áo về Phật học, kỹ năng nhuần nhuyễn trong biểu đạt ngôn ngữ Việt và có nhiều nguồn tài liệu (thông tin) tham khảo, còn cần một tinh thần làm việc tự giác, giác tha cao cả, theo gương bi, trí, dũng của Đức Phật trong thời chuyển pháp luân.

 Nói theo ngôn ngữ thời đại, dịch thuật kinh luận theo tinh thần này thực chất là tiến hành một cuộc cách mạng lớn lao và bức thiết đối với công cuộc hoằng pháp, nhằm cập nhật hóa ngôn ngữ Phật giáo trong kinh luận, tạo ra công cụ sắc bén để phổ biến chính pháp, tránh được những hiểu lầm cho người tu, hạn chế những mê tín dị đoan đáng tiếc. Đối với bản thân người dịch, dịch thuật theo tinh thần này cũng có thể coi là một cuộc "lột xác" thực sự, để từ bỏ một quan niệm, một thói quen cố hữu, một lề lối dịch thuật đã có từ xưa, xây dựng một phong thái, một chất lương dịch thuật mới hoàn toàn Việt Nam, đầy sức thuyết phục. Chỉ theo tinh thần đó, nay mai Phật giáo Việt Nam mới mong có cơ hội đóng góp vai trò quan trọng của mình đối với sự nghiệp bảo tồn và phát triển nền văn hóa truyền thống của dân tộc trong bối cảnh đất nước mở cửa hiện nay.

 Một khi giao lưu giữa các dân tộc được phát triển thì hiện tượng thâm nhập giữa các ngôn ngữ là điều đương nhiên, nhất là ở những quốc gia láng giềng, có mối quan hệ lịch sử lâu đời, như Việt Nam và Trung Quốc. Chính hiện tượng thâm nhập ngôn ngữ giúp cho ngôn ngữ mỗi nước thêm phong phú. Tuy nhiên không vì thế mà ỷ lại, cứ bê nguyên văn hoặc phiên âm kinh luận chữ Hán để dùng.

 So với trước đây, công việc dịch thuật kinh luận Phật giáo ngày nay thuận lơi hơn nhiều nhờ những nguồn tài liệu khác ngoài nguồn Hán tạng. Trên thế giới đã có rất nhiều kinh Phật được dịch từ chữ Phạn, chữ Pali sang tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức… lưu hành rộng rãi. Như mọi người đều biết, các ngôn ngữ Ấn-Âu có đặc điểm là ngữ pháp chặt chẽ, sáng sủa, ít gây nhầm lẫn cho người đọc. Tham khảo và đối chiếu các nguồn tài liệu khác nhau sẽ giúp người dịch nắm đúng ý kinh, giải tỏa những khó khăn gặp phải trong lúc dịch. Ngoài ra, việc tham chiếu còn giúp người dịch chọn được cách biểu đạt hay nhất, đúng nhất, xứng hợp nhất.

 Dưới đây xin gợi ra đôi điều cần lưu ý trong công tác dịch thuật kinh luận để tham khảo:

  1. Chỉ nên dùng từ gốc Hán (hoặc gốc nước ngoài khác) trong trường hợp không có từ gốc Việt tương đương.
  2. Có thể dịch thoát những đoạn văn kinh luận được viết theo văn phong quá cổ. Có thể lược dịch những đoạn quá rườm rà, miễn sao không làm sai nghĩa của nguyên bản.

 Nhiều khi dịch từng từ một (mot à mot) làm cho câu văn trở nên ngớ ngẩn, thậm chí còn là phản lại tác giả. Trong trường hợp ấy không nên bám sát từng từ của chính văn, mà tốt nhất nên lược bớt, chỉ cốt giữ phần tinh yếu của đoạn văn. Thật ra cái gọi là chính văn trong kinh bản Hán tạng cũng chỉ là bản dịch tiếng Hoa-Hán mà thôi, chứ đâu phải là chính văn chữ Phạn. Vả lại, ngay cả nguyên bản chữ Phạn thực chất cũng chỉ là bản ghi chép từ những kỳ kết tập sau khi Đức Phật nhập diệt có khi tới hàng trăm năm.

 Đức Phật đã từng dạy: “Sau khi Như Lai diệt độ, người nào có thể biên chép, giữ nhận, đọc tụng, cúng đường, giải kinh cho người khác thời người đó được Như lai lấy áo chùm lên mình…". Xem thế đủ biết Đức Phật đánh giá rất cao sự nghiệp hoằng truyền chính pháp. Đối với Phật giáo Việt Nam có lẽ công việc có ý nghĩa nhất hiện nay trong sự nghiệp hoằng pháp chính là phiên dịch kinh luận ra tiếng Việt.

 Trong niềm trăn trở về một kỷ nguyên mới của Phật giáo, như nhà vật lý nổi tiếng Albert Einstein tiên đoán: "Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi thần linh, giáo điều và thần học… Chỉ có Phật giáo mới đáp ứng đầy đủ các điều kiện ấy”, phải chăng trên đường học Phật và hoằng pháp, các nhà hoạt động Phật giáo VIệt Nam cần mạnh dạn bỏ lại phía sau mình những thói quen, sức ỳ và khuôn mẫu đã lỗi thời; với tinh thần bi, trí,dũng, quyết tâm thực hiện Việt hóa việc tụng, giảng, hiểu kinh và tiến hành nghi lễ Phật giáo; đưa Phật giáo Việt Nam tiến kịp thời đại.

 Để kết thúc bài này, xin mạn phép chép ra đây hiến quý vị một phỏng tác từ Tâm Kinh Bát Nhã, chúng tôi mới soạn nhân mùa Phật Đản Bính Tý vừa qua. Lần đầu tiên viết theo thể loại diễn ca nhằm chuyển dịch lý huyền từ một bản kinh cao siêu, vi diệu như kinh này ra tiếng Việt, quả thực là bạo gan và không tránh khỏi sai sót. Chân thành mong quí vị khoan dung, lượng thứ và chỉ dạy cho. Người viết bài này xin hết lòng biết ơn quí vị.

       Mục lục | Dẫn Nhập | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 1 8 | 19 |

 


Vào mạng: 1-12-2004

Trở về mục "Diễn đàn"

Đầu trang