Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
Những cánh hoa trí tuệ: Tư tưởng tháng 11-2001

 

1

“Và này các Tỳ-kheo, như thế nào là người bất chánh đầy đủ pháp bất chánh?

Ở đây, này các Tỳ-kheo, người bất chánh bất tín, vô tàm, vô quý, nghe ít, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là người bất chánh đầy đủ pháp bất chánh.”

(Kinh Trung Bộ III, trang 146)

“And how, monks, is a bad man possessed of bad states of mind?  As to this, monks, is a bad man is lacking in faith, he has no shame, no fear of blame, he has heard little, he is lazy, he is of muddled mindfulness, he is weak in wisdom – it is thus, monks, that a bad man is possessed of bad states of mind.”

(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 71)

 

2

“Và này các Tỳ-kheo, như thế nào là người bất chánh giao du với người bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-kheo, những vị Bà-la-môn nào bất tín, vô tàm, vô quý, ít nghe, biếng nhác, thất niệm, liệt tuệ, những vị ấy là bạn, là thân hữu với người bất chánh ấy. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là người bất chánh giao du với người bất chánh”

(Kinh Trung Bộ III, trang 146-7)

“And how, monks, does  a bad man consort with bad men?  As to this, monks, those recluses and brahmans who are lacking in faith, have no shame, no fear of blame, who have heard little, who are lazy, of muddled mindfulness, weak in wisdom – these are the friends and companions of that bad man. It is thus, monks, that a bad man consorts with bad men.”

(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 71)

 

3

“Này các Tỳ-kheo, có người phi Chân nhân là người nghe nhiều. Người ấy suy nghĩ như sau: “Ta là người nghe nhiều, còn các Tỳ-kheo này không nghe nhiều.” Người ấy do được nghe nhiều nên khen mình chê người. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là phi Chân nhân pháp.”

(Kinh Trung Bộ III, trang 179)

“Monks, a bad man is one who has heard much. He reflects thus: “I am one who has heard much, but these other monks have not heard much.” Because of his having heard much he exalts himself and disparages the others. This too monks, is dhamma of a bad man.”

(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 91)

 

4

“Và này các Tỳ-kheo, người Chân nhân suy nghĩ như sau: “Không phải vì nghe nhiều mà các tham pháp đi đến đoạn trừ, hay các sân pháp đi đến đoạn trừ, hay các si pháp đi đến đoạn trừ. Nếu có người không nghe nhiều và người ấy hành trì đúng pháp và thuận pháp, hành trì chơn chánh, hành trì thuận pháp, thời ở đây, người ấy được kính trọng, ở đây, người ấy được tán thán.” Người ấy sau khi lấy đạo lộ làm chánh yếu, không khen mình chê người, vì tự mình được nghe nhiều. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là Chân nhân pháp.”

(Kinh Trung Bộ III, trang 179)

“And again, monks, a good man reflects thus: “It is not through one’s hearing much that things of greed, things of aversion, things of confusion go to destruction. For even if one has not heard much, one may still fare along in complete accordance with dhamma, may fare along correctly, may be a farer according to dhamma, and therefore be one to be honoured and commended.” He, having made the course itself the main thing, neither exalts himself for his having heard much nor disparages others. This too, monks, is dhamma of a good man.”

(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 91)

 

5
“Nó đánh tôi, cướp tôi!
Nó hại tôi, cướp tôi!”
Ai ôm oán niệm ấy,
Hận thù không thể nguôi.”
(Kinh Trung Bộ III, trang 381-2)
 
“They who (in thought) belabour this: That man
has me abused, has hurt, has worsted me,
has me despoiled: in these wrath’s not allayed.”
(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 198)
 
 
6
“Nó mắng tôi, đánh tôi!
Nó hại tôi, cướp tôi!”
Không ôm oán niệm ấy,
Hận thù sẽ tự nguôi.”
(Kinh Trung Bộ III, trang 382)
“They who do not belabour this: That man
has me abused, has hurt, has worsted me,
has me despoiled: in them is wrath allayed.”
(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 198)
 
 
7
“Hận thù diệt hận thù,
Không đời nào diệt được,
Từ bi diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu.”
(Kinh Trung Bộ III, trang 382)

 

“Nay, not by wrath are wrathful moods allayed here (and) at any time, but by not-wrath are they allayed: this is a (ageless) endless rule.”

(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 199)

 

8
“Nếu được bạn hiền trí,
Đồng hành, khéo an trú,
Đả thắng mọi hiểm nạn,
Sống hoan hỷ chánh niệm.
Nếu không bạn hiền trí,
Như vua bỏ quốc độ,
Cô độc như voi rừng.
Tốt hơn, sống một mình,
Không bè bạn kẻ ngu,
Cô độc không làm ác,
Nhàn hạ, như voi rừng.”
(Kinh Trung Bộ III, trang 382-3)
 
“If one find friend with whom to fare
Rapt in the will-abiding, apt,
surmounting dangers one and all,
with joy fare with his mindfully.
Finding none apt with whom to fare,
none in the will-abiding rapt,
as rajah quits the conquered realm,
fare lonely as bull-elephant in elephant-jungle.
Better the faring of one alone
than companionship with the foolish;
fare lonely, unconcerned, working no evil,
as bull-elephant in elephant-jungle.”
(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 199)

 

9
Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây.
Không động, không rung chuyển,
Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết,
Trú như vậy nhiệt tâm,
Đêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.”
(Kinh Trung Bộ III, trang 442)
 
“The past should not be followed after, the future not desired.
What is past is got rid of and the future has not come.
But whoever has vision now here, now there, of a present thing,
Knowing that it is immovable, unshakable, let him cultivate it.
Swelter at the task this everyday. Who knows whether he will die tomorrow?
There is no bargaining with the great hosts of Death.
Thus abiding ardently, unwearied day and night,
He indeed is “Auspicious” called, described as a sage at peace.”
(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 233)

 

10

“Này thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.”

(Kinh Trung Bộ III, trang 474)

“Deeds are one’s own, Brahman youth, beings are heirs to deeds, deeds are matrix, deeds are kin, deeds are arbiters. Deed divides beings, that  is to say by lowness and excellence.”

(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 249)

 

11
“Ai đầy đủ giới luật,
Bố thí cho thiện giới;
Vật thí được đúng pháp,
Với tâm khéo hoan hỷ,
Với lòng tin vững vàng,
Vào quả lớn của nghiệp,
Ta nói bố thí ấy
Chắc chắn có quả lớn.”
(Kinh Trung Bộ  III, trang 578-9)
 
“Whoever, moral in habit, gives to those of moral habit
A  gift rightfully acquired, the mind well pleased,
Firmly believing in the rich fruit of kamma –
I assert this gift to be of abundant fruit.”
(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 305)

 

12
“Ai xuất ly tham ái
Bố thí không tham ái,
Vật thí được đúng pháp.
Với tâm khéo hoan hỷ,
Với lòng tin vững vàng,
Vào quả lớn của nghiệp,
Ta nói bố thí ấy
Là quảng đại tài thí.”
(Kinh Trung Bộ  III, trang 579)
 
“Whoever, without attachment, gives to those without attachment
A  gift rightfully acquired, the mind well pleased,
Firmly believing in the rich fruit of kamma –
I assert this gift to be of abundant fruit.”
(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 305)

 

13

“Ai có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước, không có dao động. Không có dao động, thời có khinh an; có khinh an thời không có hỷ cầu; không có hỷ cầu thời không có khứ lai; không có tử sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có giữa hai đời. Như vậy là sự đoạn tận đau khổ.”

(Kinh Trung Bộ  III, trang 598)

“For him who clings there is wavering; for him who clings not there is no wavering; if there is no wavering, there is impassibility; if there is impassibility there is no yearning; if there is no yearning, there is no coming and going; if there is no coming and going, there is no deceasing and uprising, if there is no deceasing and uprising; there is no ‘here’ itself nor ‘yonder’ nor ‘in between the two.’ This is itself the end of anguish.”

(The Collection of the Middle Length Sayings III, p. 318)

 

14

“Và này các Tỳ-kheo, thế nào là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người?  Ở đây, các Tỳ-kheo, có người giết trâu bò, người giết heo, là người giết vịt, săn thú, là thợ săn, thợ đánh cá, ăn trộm, người xử tử các người ăn trộm, cai ngục và những người làm các nghề độc ác khác. Như vậy, này các Tỳ-kheo, được gọi là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.”

(Kinh Trung Bộ  II, trang 18)

“And which, monks, is the person who is a tormentor of others, intent on the practice of tormenting others? In this case, monks, some person is a cattle-butcher, or pig-killer, fowler, deer-stalker, hunter, fisherman, thief, executioner, jailer, or (one of) those others who follow a bloody calling. This is the person, monks, who is called a tormentor of others, intent on the practice of tormenting others.”

(The Collection of the Middle Length Sayings II, p. 8)

 

 

15
“Không bệnh lợi tối thắng,
Niết-bàn, lạc tối thắng,
Bát chánh là độc đạo,
An ổn và bất tử.”
(Kinh Trung Bộ II, p. 367)
 
“Health is the highest gain, nibbāna the highest bliss;
And of Ways, the Eightfold leads to deathlessness, to security.”
(The Collection of the Middle Length Sayings II, p. 188)

http://www.buddhismtoday.com/viet/trich/thang11-2001.htm

 


Vào mạng: 1-11-2001

Trở về thư mục "Pháp trích lục hằng tháng"

Đầu trang