Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

DUY LỰC NGỮ LỤC
QUYỂN THƯỢNG (TỪ NĂM 1983 - 1989)
Ban Văn Hóa Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ chí Minh Thực Hiện
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội P.L.2545 - D.L. 2001


PHẦN 1 (CUỐN 1 - 10)

01-5

Hỏi : Thế nào là "Nhập lưu vong sở"?

Đáp : Kinh Lăng Nghiêm quyển sáu :" Từ văn tư tu, nhập Tam Ma Địa". Lúc đầu ở trong cái nghe nhập lưu vong sở, hễ có cái năng nghe thì có sở nghe. Thế nào là nhập lưu ? Không có sở nhập mới là nhập lưu. Nhĩ căn trong lục căn là nghe, nếu nghe ở bên ngoài là xuất lưu, chẳng nghe bên ngoài, trở vào bên trong gọi là nhập lưu. Nhập lưu thì sở nghe hết, gọi là vong sở, sở đã diệt thì tịch tịnh. , chẳng còn tướng động tịnh.

Hỏi : Thế nào là "Hàn lu trục khối, sư tử gião nhơn "?

Đáp : Tổ Sư Thiền có một thí dụ về con chó và con sư tử : Một người liệng ra cục xương, con chó thông minh của nước Hàn đuổi theo cục xương mà cắn, còn con sư tử chẳng thèm để ý cục xương mà cắn ngay người ấy. Người ấy là gì? Là Tự tánh; cục xương là gì ? Là lời nói của Phật, của Tổ. Hễ đuổi theo lời nói của Phật, Tổ để hiểu là con chó, hướng vào Tự tánh để ngộ là con sư tử. Đức Phật muốn chúng ta làm con sư tử chứ chẳng muốn chúng ta làm con chó, nên Kinh Lăng Nghiêm nói "Phàm hữu ngôn thuyết giai phi thật nghĩa", lời nói của Phật cũng là ngôn thuyết vậy, làm sao căn cứ chỗ đó, chấp vào chỗ đó, nói là thật nghĩa !

Nên biết tất cả lời của Phật, của Tổ chỉ là phương tiện tạm thời để ngộ nhập Tự tánh của mình, như Kinh Pháp Hoa nói "Khai thị ngộ nhập", chẳng phải ngộ nhập cái khai thị đó của Phật, mà là nhờ khai thị ngộ nhập Tự tánh. Nay hễ chấp lời thì nghịch ý, như tôi thường giảng về "lìa tứ cú": Chúng sanh chấp có thì Phật nói là không; chúng sanh chấp không thì Phật nói là có. Lúc Phật nói "có", ý của Phật chẳng phải có, lúc Phật nói "không", ý của Phật chẳng phải không , đã rõ ràng rồi. Nếu Phật nói "Có", mình chấp cái có là chơn lý, lúc Phật nói "Không", mình chấp cái không là chơn lý , là nghịch với ý của Phật. Phải hiểu ý của Phật, theo ý của Phật mà ngộ nhập tự tánh, hễ đuổi theo lời nói của Phật để hiểu là con chó, chẳng phải con sư tử.

Hỏi : Có người giảng về câu "Phản văn văn tự tánh", là khi lỗ tai mình chạy theo âm thanh thì liền cắt đứt dòng chạy theo mà trở về Tự tánh, vậy có đúng không? Không những là nhĩ căn, cho đến nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý, lục căn chạy theo lục trần mà ngay đó trở về Tự tánh, ứng dụng như thế để trở về tự tánh, như Kinh Viên Giác dạy " Tri huyển tức lìa, chẳng cần phương tiện. Lìa huyễn tức giác, không có thứ lớp", vậy có đúng không ?

Đáp : Như thế làm sao trở về ? Làm sao không chạy theo ? TRI HUYỂN TỨC LY, BẤT TÁC PHƯƠNG TIỆN : Bất tác phương tiện chẳng phải là không cần phương tiện, nhưng không tác ý; cũng như Tôi thường dạy tham Thiền là dùng phương tiện để đi, chẳng được tác ý buông bỏ vọng tưởng, chẳng được trừ vọng tưởng, chẳng được đè nén vọng tưởng. Chẳng những không được tác ý phá trừ vọng tưởng, cho đến hễ tác ý "không phá trừ vọng tưởng’ cũng không được. Hễ có tác ý là sai, chứ chẳng phải không cần phương tiện. Cần phương tiện mà không cho tác ý, nên nói là "bất tác phương tiện". Nếu có tác ý phương tiện thì tác ý ấy cũng là vọng, làm sao lìa được !

LY HUYỂN TỨC GIÁC, DIỆC VÔ TIỆM THỨ : Nay biết đó là huyển, dùng phương tiện để lìa. Như chúng ta tham thiền dùng câu thoại làm phương tiện để lìa, nhưng không được khởi niệm là lìa, ấy mới được đến với cái Giác. Lìa huyển tức giác, nhưng không có tiệm thứ mới lìa được cái huyển. Từ biết được cái huyển là bắt đầu khởi lên nghi tình là không có tiệm thứ, chẳng còn lìa hay không lìa, giác hay không giác, ấy mới được giác. Bởi vì nếu còn có năng sở, năng lìa sở lìa (huyển), năng giác sở giác là có tương đối, có tiệm thứ, ấy là sai. Pháp vốn chẳng có đốn tiệm, chẳng tiệm thứ, do chấp tâm của người nên sanh ra tiệm thứ. Kinh là nói về pháp chứ không nói về người, nhưng cũng có người một hơi thấu tam quan, chẳng có tiệm thứ, vì người ấy chấp tâm ít . Chấp nhiều chừng nào thì tiệm thứ nhiều chừng nấy.

Hỏi : Có một vị dạy người "Chú tâm vào một việc", ví như khi mặc áo thì biết là áo, ăn cơm biết là cơm, trì chú biết là chú v.v. Theo phương pháp này có thể ứng dụng để tu hành và đi đến giác ngộ không ?

Đáp : Ấy cũng là một phương pháp của Giáo môn, nhưng không vào cửa Thiền được, chỉ có thể gieo cái nhân đến muôn ngàn kiếp sau, hoặc may có thể thành Phật, chứ chẳng thể tức thân thành Phật.

Thiền Giáo môn tiếng Ấn Độ là Thiền Na, dịch là tịnh lự. Theo người thường hễ tịnh thì chẳng lự, lự thì chẳng tịnh, còn Thiền thì tịnh lự đồng thời, lúc đang tịnh cũng đang lự. Phương pháp của ông nói là cứ đuổi theo vật chất hoài, hễ uống nước thì đuổi theo cái ly, cái nước, nằm thì đuổi theo cái mình và cái giường, mặc áo thì đuổi theo cái áo, cứ đuổi theo ngoại cảnh hoài , tâm làm sao tịnh được? Làm sao nhập Thiền Na được? Hôm qua tôi có giảng đến bốn câu kệ của ngài Lục Tổ :

- Thường ứng chư căn dụng, mà chẳng khởi dụng tưởng.

Phân biệt tất cả pháp, chẳng khởi phân biệt tưởng.

Nếu biết ta mặc áo là dụng tưởng, biết ta uống nước cũng là dụng tưởng rồi, làm sao nhập Thiền na được ?

Hỏi : Vậy có thể nhập Như Lai Thiền không?

Đáp : Cũng không được, ấy là nằm trong câu thứ nhất của nghĩa ba câu, còn chấp thật hiện hữu, chưa biết ấy là vọng, là huyển, chưa thể cho là tu hành. Nhưng vì hễ niệm được một câu chú hoặc một tiếng Phật cũng gieo trồng được thiện căn, muôn ngàn kiếp sau cũng được thành Phật. Tu hành là phải phá chấp: Trước phá nhân ngã chấp, sau phá pháp ngã chấp. Nay chẳng kể căn cơ nào, chẳng kể thích hợp hay không mà dạy người tu như thế rất có hại, khiến nhiều người uổng tu một đời.

Phật với Tổ đều dạy người phải chuyên tu một pháp môn, nhất môn thâm nhập. Bất cứ trong cuốn kinh nào Đức Phật cũng nói "Kinh này đệ nhất", ý là muốn chúng ta nhất môn thâm nhập, chứ chẳng phải có kinh nào hơn kinh nào. Hể tham Thiền thì cứ ngày đêm đề câu thoại đầu hỏi tới hoài, ở trong câu thoại đầu đầy đủ tất cả pháp: Trì chú cũng ở trong đó, lễ Phật cũng ở trong đó, tụng kinh cũng ở trong đó. Vì nghi tình đã là thực hành theo ý Phật, Phật là muốn chúng ta giải thoát, giải thoát cần phải giác ngộ, nên nói "phát Bồ đề tâm" là cầu giác ngộ.

Trì chú là cách tu của Mật tông, muốn tu phải theo đúng tông chỉ của Mật tông, nếu không theo đúng tông chỉ của pháp môn mà đem áp dụng qua áp dụng lại là lòng tin chưa đủ, chẳng thể thành tựu được. Nếu suốt ngày mặc áo cũng trì chú, uống nước cũng trì chú, và cho rằng "phải trì chú để làm trợ duyên cho sự tu hành" ấy là sai lầm, bày đặt. Như người hay nói "Thiền Tịnh song tu", cuối cùng Thiền cũng chẳng tin, Tịnh cũng chẳng tin, chẳng được thành tựu.

Hỏi : Đời nhà Minh có ngài Liên Trì Đại sư sưu tập những Luận tiểu : Luật Tỳ Nì, Sa Di, Oai Nghi, Sa Di Cảnh Sách, sau đó ngài Hoằng Tán có sớ giải bộ luật trên, vậy có lợi ích không? Có sai lầm không ?

Đáp : Các Luật sư bên Trung Quốc có phê bình rằng ngài Liên Trì không phải Luật sư, không có nghiên cứu sâu vào Luật, nên khi ngài nói về Luật, có chỗ còn trái với ý Phật. Phật chế luật là hoạt bát, khai giá trì phạm rất linh động; vì sự phá giới là tùy theo phong tục địa phương, tùy theo thời đại mà biến đổi. Như theo giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni ở Ấn Độ, hễ làm ruộng là phạm giới, nhưng ở Trung Quốc làm ruộng là trì giới; vì theo phong tục ở Ấn Độ, tu sĩ không được làm ruộng, làm ruộng thì người đời chê bai, chướng ngại sự hoằng pháp nơi thế gian, nên Phật chế giới để che ngăn không cho người đời phê bình Tăng đoàn, ảnh hưởng đến sự hoằng hóa.

và Luật có khác : Giới là để bảo vệ cá nhân, Luật là để bảo vệ Tăng đoàn, tức có Luật mới bảo vệ được Giới. Nay chúng ta không có Tăng đoàn nên giới chẳng được Luật bảo vệ: Người tu sĩ phạm giới Ba La Di chẳng ai can thiệp, vẫn giữ chức vị Trụ trì trong chùa, vẫn được Phật tử lễ bái cúng dường, ấy là do không có Luật ! Nếu có Tăng đoàn thì khác, hễ thọ giới rồi phải sống ở trong Tăng đoàn, giới được Luật Tăng đoàn bảo vệ, không ai dám phạm phải. Ví như ở Campuchia, hễ ai phạm giới Ba La Di , bị tước áo Cà sa và giao cho Chính phủ trị tội, nên chẳng ai dám phạm.

Hiện nay, ở Việt nam cũng như ở Trung Quốc, ai cũng tự có ngôi chùa, tự là Trụ trì, phá giới Ba La Di cũng chẳng ai can thiệp, vẫn là Trụ trì, vẫn thọ nhận sự lễ bái cúng dường của Phật tử, chỉ là sau này đọa địa ngục thôi ! Nên chẳng có ai sợ. Do đó giới luật thời nay không có tác dụng.

Người ta thường nói" Thiền sư không chú trọng hình thức bề ngoài, trông bề ngoài thì dường như chẳng giữ gìn giới luật". Kỳ thật Thiền sư rất Chú trọng giới luật, Theo tiểu sử ngài Bác Sơn : Ngài là vị Tổ sư về Thiền,Luật song song, làm Tổ của Tông Tào Động, đồng thời làm Tổ cho Luật tông. Thời gần đây có ngài Lai Quả và ngài Hư Vân cũng vậy. Vì người đã ngộ Phật pháp rồi hễ thuyết ra là kinh, hành vi là giới luật, tâm là Thiền, Tổ sư nào cũng thế. Ví như ngài Lục Tổ vốn là người dốt nát không biết chữ, nhưng nói ra cũng thành kinh, hành vi cũng đúng theo giới luật.

Hỏi : Đắc quả A La Hán có phải kiến tánh không? Có phải đại tử đại hoạt không?

Đáp : Đắc quả A La Hán chưa phải kiến tánh, có thể nói là phá được Sơ quan. Theo Nguyệt Khê Pháp sư thì A La hán và ngoại đạo chưa phá căn bản vô minh, tức vô thỉ vô minh. Tồ Sư Thiền thì phá được vô thỉ vô minh mới là kiến tánh, tức là phá thức ấm. Vì phá được thức ấm tức đã lìa tâm, ý, thức , chẳng còn chấp pháp. A la Hán còn chấp pháp của mình tu là thật, chấp quả của mình chứng là thật, nên bị Phật quở. Vì A La Hán đã phá được nhơn ngã chấp, nên được ra khỏi phần đoạn sanh tử, nhưng còn biến dịch sanh tử chưa hết.

Hỏi : Tham Thiền đến đầu sào trăm thước đã lìa ý thức chưa ?

Đáp : Chưa, còn phải tiến thêm một bước nữa mới rời khỏi ý thức. Ở trên đã nói, ngoại đạo và Tiểu thừa chỉ đến được đầu sào trăm thước, còn thiếu một bước là đến được nguồn gốc của ý thức, lúc đó thanh thanh tịnh tịnh, không có vọng tưởng, như Cõi Trời Vô Tưởng , đến chỗ đó đã hết đường đi, tưởng là cứu cánh, tưởng là chứng ngộ, cứ ngồi mãi chỗ đó. Nhưng đó mới chỉ là nguồn gốc của ý thức, chưa lìa ý thức, còn dính líu với ý thức thì căn bản vô minh chưa hết, nên Thiền tông nói là "phải từ đầu sào trăm thước tiến thêm một bước mới lìa khỏi ý thức. Giây phút lìa ý thức ấy là kiến tánh. Nếu người không có tham thiền thì chẳng thể nào lìa ý thức được, nếu muốn biết đó là huyển mà lìa thì chẳng bao giờ lìa được.

Hỏi : Có người dẫn lời của Tổ Sư nói "Một niệm mê là chúng sanh, một niệm giác tức Phật", lại, " Chẳng sợ niệm khởi, chỉ e giác chậm", cho rằng hễ vọng niệm khởi lên liền giác là Phật, giác liên tục là Phật, còn giác được một lúc thì làm Phật được một lúc, phải không ?

Đáp : Ấy cũng như Thiền Sư Minh Bổn ở Tịnh Xá Quan Âm, sau đổi tên thành Quang Tông Thiền sư. Trong tác phẩm " Giải thoát Học", cho rằng không có vọng tưởng, cảm thấy thanh thanh tịnh tịnh, lọt vào vô ký không; hễ lọt vào năm phút là phá sơ quan, lọt vào một tiếng đồng hồ là kiến tánh triệt để ! Lấy Thiền bệnh cho là kiến tánh, tự xưng là Thiền sư, tự nêu ra mười mấy chức danh, tự cho là kiến tánh. Nếu là người đã kiến tánh thì đâu phải như thế !

"Chẳng sợ niệm klhởi, chỉ e giác chậm" : Thông thường thì Giác là biết, nếu khởi niệm ác mà giác chậm sẽ đi làm, tạo tội nặng. Theo giới Tiểu thừa ( Thanh Văn ) thì niệm khởi chưa phạm, thân đi làm mới phạm, hễ phạm là bị đọa, nếu kịp thời khởi giác thì ngăn chặn được không phạm, nên nói "Chẳng sợ niệm khởi, chỉ e giác chậm". Bên Giáo môn không được nghĩ ác, chứ không cấm nghĩ thiện, nhưng về Tổ Sư Thiền, chẳng những không cho suy nghĩ cái ác, thiện cũng chẳng cho. Lai Quả Thiền sư nói "Giáo môn thì sanh tử là vọng phải bỏ, Niết Bàn là chơn phải lấy, Thiền môn thì sanh tử Niết bàn đều phải quét". Lời của Phật của Tổ chỉ là phương tiện tạm thời để tuỳ cơ thuyết pháp, nên có kinh liễu nghĩa và bất liễu nghĩa.

Hỏi ; Thế thì chẳng thể dùng cái Giác để tu đến kiến tánh ?

Đáp : Không phải . Như ở trên nói, Quang Tông Thiền sư cũng là Thiền sư. Thiền sư Đời xưa có người kiến tánh có người chưa kiến tánh, cũng có khi tùy trường hợp tùy căn cơ mà nói. Như Kinh Duy Ma Cật nói :"Kinh có liễu nghĩa có bất liễu nghĩa", kinh bất liễu nghĩa cũng do Phật thuyết. Nếu y theo đó mà căn cứ thì chẳng được, nên phải y kinh liễu nghĩa chứ đừng y kinh bất liễu nghĩa.

Dù có y kinh liễu nghĩa cũng chẳng thể chấp thật, phải y cái ý của Phật chứ chẳng được y theo lời Phật, vì chấp lời là nghịch ý. Cho nên, trong Kinh Kim Cang, Phật nhắc đi nhắc lại nhiều lần câu " Chẳng có Phật pháp gọi là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề"," Chẳng có thật pháp Như Lai chứng được". " Nếu ta chứng được thật pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thì Phật Nhiên Đăng không thọ ký ta thành Phật , hiệu Thích Ca Mâu Ni", là vì sợ chúng sanh chấp lời của Phật, hễ chấp lời là nghịch ý, vì lời nói là phải theo ngôn ngữ của thế gian ( Thế lưu bố tưởng ), nếu ở nơi thế lưu bố tưởng sanh ra trước tưởng, ấy là oan cho Phật, nên gọi "Y văn giải nghĩa, tam thế Phật oan".

Kinh Kim Cang rõ ràng là do Phật sở thuyết, nhưng trong kinh Phật lại nói " Nếu có người nói Ta có thuyết pháp ấy là phỉ báng Phật", Lời của Phật còn chấp không được, huống là lời của Kinh Kim Cang !

Nay những sách Thiền lưu hành ở ngoài đều là tự lấy ý mình để giải thích thoại đầu và công án, nghịch với ý của Tổ sư. Ý của Tổ là muốn chúng ta nghi, muốn chúng ta ngộ, vì khi nghe được lời của Tổ sư, hễ ngộ thì ngộ ngay lúc đó, nếu không thì phải phát nghi, nghi rồi sau đó mới được ngộ. Nên Tổ sư không cho chúng ta hiểu, hễ hiểu rồi là hết nghi. Hiện nay những vị tự xưng Thiền sư cứ giải thích công án khiến người hết nghi, lấp bít cửa ngộ của người tham Thiền. Theo kinh Phật nói là người ấy có tội.

Hỏi: Kính bạch Sư Phụ, ở trong nhà lửa thì làm sao lấy kiến giải phá kiến giải ?

Đáp : Trong Kinh Pháp Hoa có thí dụ nhà lửa, trẻ con ham chơi dụ cho chúng sanh; nhà đang bốc cháy nhưng trẻ con chẳng hay biết, chỉ một mực ham chơi, chẳng tin lời Phật bảo :" Nhà đang cháy, rất nguy hiểm, hãy mau chạy ra, có thể bị thiêu đốt!" Nên Phật phải dùng phương tiện để dụ dỗ rằng :" Ngoài cửa có đủ thứ xe, xe dê, xe nai, xe trâu, hãy ra đây cho mỗi người một chiếc. " Trẻ con nghe nói được đồ chơi đều mừng rỡ chạy ra, khi chạy ra rồi Phật cho mỗi người một chiếc xe lớn, ấy là Đại thừa. Lời Phật nói gạt ấy là phương tiện chứ chẳng phải vọng ngữ, nên chẳng có tam thừa nói thành tam thừa, chỉ để gạt chúng sanh ra khỏi nhà lửa thôi.

- Còn Kinh Pháp Bảo Đàn là kinh của Tổ Sư Thiền , về bài kệ do Pháp Đạt làm, nhiều người hiểu sai nên dịch sai, đây là bài kệ phá cái nhà lửa đó. Pháp Đạt tụng kinh Pháp Hoa trong chín-mười năm, được ba ngàn bộ, tưởng là công đức lớn lao, thật ra bị Pháp Hoa chuyển mà chẳng chuyển được Pháp Hoa, sau khi được ngài Lục Tổ khiến khai ngộ rồi, hoan hỉ tán thán rằng :

Tụng kinh ba ngàn bộ, bị Tổ một lời tiêu

Chưa thấu đạo xuất thế, sao dứt lụy kiếp mê

Dê, nai, trâu giả thiết, Ba đoạn thiện quét sạch.

Ai ngờ trong nhà lửa, vốn là Tự tánh Phật.

Dịch : Kinh tụng ba ngàn bộ, bị Tào Khê một tiếng nói liền tiêu. Hễ chưa rõ được tông chỉ xuất thế gian thì làm sao ngưng được cuồng vọng từ ngàn kiếp ! Kỳ thật, xe dê, xe nai, xe trâu đều là phương tiện tạm thời , bất đắc dĩ đặt ra,

Sơ, trung hậu thiện dương : nhiều người dịch sai cho là "Sơ, trung hậu khéo hoằng dương", kỳ thật đây là nghĩa ba câu : Sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đều quét sạch. Ai ngờ trong nhà lửa chẳng phải nhà lửa, vốn là pháp trung vương. Khỏi cần ra nhà lửa, trong nhà lửa là Phật, Tự tánh Phật ở trong đó !

Hỏi : Xin Sư giảng lại câu " Sơ, trung, hậu thiện dương".

Đáp : Nguyên văn hai câu ấy là :" Dương, lộc, ngưu quyền thiết, sơ , trung, hậu thiện dương", tức sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đều quét sạch. Theo ngài Bá Trượng nói " Lúc đầu thì khuyên người ta làm thiện

( chấp có cái thiện thật), câu thứ hai là "thiện tức phi thiện", đừng chấp cái thiện nữa, câu thứ ba là "Thị danh thiện". Quét câu thứ nhất, câu thứ nhì và quét luôn cả câu thứ ba, tâm không chấp thật cũng quét luôn mới là hậu thiện; luôn cả hậu thiện cũng quét sạch, đến chỗ này mới lìa được tâm ý thức, mới được kiến tánh. Hễ còn "hậu thiện " tức còn nằm trong ý thức, chưa lìa ý thức. Lìa được ý thức mới là ngộ, ngộ rồi mới biết ở trong nhà lửa vốn là Pháp vương, Tự tánh Phật vốn saün đủ, chẳng cần tìm kiếm bên ngoài.

Hỏi : Trong Pháp Bảo Đàn Kinh có câu " Tâm bình hà lao trì giới, hạnh trực hà dụng tham Thiền" như thế nào ?

Đáp : Hai câu này nhiều người cũng lấy làm cớ để khỏi cần tu, ấy là sai. TÂM BÌNH, HẠNH TRỰC đâu phải người nào cũng làm được ! Như ngài Hư Vân hỏi " Tâm ông đã bình chưa ? Gặp cô gái đẹp tâm ông có bị động không? Nếu Tâm ông còn động, chưa được bình thì không được nói câu này!"

Tâm bình khỏi cần trì giới: câu này là nói sau khi kiến tánh , tập khí đã dứt sạch rồi mới được. Chứ chẳng phải là "Tâm bình thường là đạo" mà người ta cho rằng cái tâm thế gian bình thường, chẳng làm ác là đạo, ấy là hiểu sai. "Bình thường tâm" là cái dụng automatic của Tự tánh Bát nhã, không được lọt vào tương đối, hễ có dính mắc chút xíu cũng chẳng phải là bình thường tâm. Chúng ta đâu dễ đạt đến cảnh giới đó !

Theo hai câu này, chẳng những đã kiến tánh mà đã qua sự bảo nhiệm, là tập khí đã hết nên tâm mới được bình thường. Còn tâm bình thường chẳng làm ác ấy là tâm bình thường của thế gian, cũng như trí huệ của thế gian, nhà Phật cho là ngu si, còn tâm bình thường của thế gian đối với nhà Phật thì có thể là thô bạo.

- Đối với hai chữ HẠNH TRỰC, tâm được bình thì hạnh trực, bây giờ có gặp được một người nào là hạnh trực không? Chưa có. Chính tôi cũng hạnh chưa trực.

Hỏi : Thế nào là tông chỉ của Tịnh Độ ?

Đáp : Tông chỉ của Tịnh Độ là : TÍN, NGUYỆN, HÀNH

* TÍN : Có ba thứ tin :

  1. Tin lời Phật Thích Ca chẳng dối gạt người.
  2. Tin Cõi Cực lạc không già không bệnh, không chết, muốn gì được nấy.
  3. Tin mình kiếp này sẽ được vãng sanh, chẳng cần đợi kiếp sau.

 

* NGUYỆN : Có hai thứ nguyện :

  1. Tiểu nguyện : Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng,nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
  2. Đại nguyện : Ví như mình hiện nay không có tiền mặt để trả nợ, ký phiếu hẹn đến kỳ sau. Sau này được sanh Cõi Cực lạc rồi, thành Phật trở về độ hết tất cả chúng sanh. Ngoài Phát nguyện như thế , còn phải thực hành.

 

* HÀNH : Cần nhất là phải hành theo đại nguyện của mình, nếu không thực hành là nguyện giả, cũng như người tu Tịnh Độ mà không ăn chay là nguyện giả. Tại sao ? Vì đã phát nguyện độ chúng sanh , còn ăn thịt chúng sanh,chẳng phải nguyện giả ư ? Như câu hồi hướng trong Kinh Di Đà :" Thập phương tam thế Phật, A Di Đà đệ nhất, phàm hữu chư phước thiện,chí tâm cùng hồi hướng", tức làm bất cứ việc phước thiện gì đều hồi hướng cho tất cả chúng sanh, trong đó có chủ nợ của mình. Bất cứ con người hay súc sinh; gặp con chó cũng phải phát tâm độ, mặc dù con chó không biết nghe mình nhưng cũng nói, gặp con mèo thì độ con mèo. thử hỏi hiện nay có ai làm như vậy không ? Có người phát tâm tu Tịnh Độ đã hơn ba mươi năm, cũng có phát đại nguyện, nhưng hỏi về phần thực hành thì không có.

Hỏi : Ban ngày nghe giảng pháp, tối nằm chiêm bao cũng nghe giảng pháp, vậy là đồng thời ý thức biến hiện hay độc đầu ý thức biến hiện ?

Đáp : Tối ngủ nghe giảng là cái bóng, trong Phật học gọi là "Độc ảnh cảnh" và " Đới chất cảnh". Ví như chúng ta ngồi cạnh người ngủ đang chiêm bao mà không nghe được tiếng nói của người trong chiêm bao, vì ấy chỉ là cái bóng của tiếng chứ chẳng phải thật sự có tiếng, nên gọi là độc ảnh cảnh. Như nay tôi nói, mọi người đều nghe được, ấy là có cái chất của tiếng, nên gọi đới-chất-cảnh. Kỳ thật, đới chất cảnh hay độc ảnh cảnh đều là duy tâm tạo, ban ngày hay ban đêm tham thiền, lúc thức lúc ngủ tham Thiền đều là một. Lại, nếu ở trong chiêm bao tham Thiền được ấy là tiến bộ . Nhắm mắt cũng là chiêm bao, mở mắt cũng là chiêm bao, ở trong Tự tánh vốn chẳng có hai, do phương tiện diển đạt mới nói thành có hai.

Hỏi : Tại sao mặc chiếu lại là tà thiền ?

Đáp : Vì mặc chiếu là trụ tâm ở một nơi. Kinh Kim Cang nói " Vô sở trụ", Kinh Pháp Bảo Đàn nói " lấy vô trụ làm gốc", Thiền tông đâu cho trụ tâm ở một nơi ? Ấy là nghịch với ý của Tổ, hễ trụ tâm ở một nơi thì chẳng phải tà thiền là cái gì ? Tại sao Phật với Tổ dạy chúng ta vô sở trụ ? Ví như bàn tay của mình vốn hoạt bát vạn năng, làm gì cũng được, hễ có trụ ở nơi nào thì tánh hoạt bát của tay bị đánh mất, nên Phật và Tổ dạy mình phải quét, khôi phục lại tánh hoạt bát của tay. Vật chất là sự có, nay không chấp có mà lại trụ ở nơi không ( nắm tay ), cũng đánh mất sự hoạt bát vạn năng, nên cái KHÔNG cũng phải qué. Do đó phải lấy vô trụ làm gốc vậy.

Hỏi : Chỗ ngộ của Như Lai Thiền và Tổ Sư Thiền cao thấp ra sao ?

Đáp : Chỗ ngộ của Như lai Thiền có giai cấp, tất cả Giáo môn đều thuộc Như Lai Thiền, phải qua giai cấp. Giáo môn ở Trung Quốc có bốn tông : Thiên Thai, Hiền Thủ, Duy Thức, Tam Luận. Thiền quán của Tông thiên thai là Chỉ Quán Thiền, Tông Hiền Thủ là Pháp Giới Quán Thiền, Tông Duy Thức là Tứ Tầm Tư Quán Thiền, Tông Tam Luận là Tách Không Quán Thiền. Thiền quán tưởng thì có giai cấp, như trong Kinh Lăng Nghiêm kể là có năm mươi bảy cấp là : Thập tín, Thập trụ, thập hạnh, Thập hồi hướng , Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác, Càn huệ địa và Tứ gia hạnh. Còn Tổ Sư Thiền thì chẳng có giai cấp; từ địa vị phàm phu trực chứng quả Phật, không cần trải qua giai cấp.

Hỏi : Ý nghĩa của Qui y Tam Bảo như thế nào ?

Đáp : Khi qui y Tam Bảo, Phật bảo chúng ta phải phát Tứ hoằng thệ nguyện :" Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,

Phật Đạo vô thượng thệ nguyện thành".
Thông thường, người thế gian chẳng biết, cứ theo thói quen gọi "Phật", tưởng là một vị thần linh, nói Phật sẽ gia hộ cho mình, bảo vệ mình, ấy là sai lầm. Phải biết tất cả chúng sanh đều có tư cách thành Phật, chữ PHẬT là giác ngộ,người nào giác ngộ thì người ấy có tư cách thành Phật. Phật là tánh của mình, là tâm của mình, nên nói "Ngoài tâm chẳng có Phật, ngoài tâm chẳng có pháp". Thời nay nhiều người qui y Tam Bảo mấy mươi năm, còn chưa biết Tam Bảo là gì, chỉ biết rằng nhờ Phật sẽ phù hộ cho mình, mà chẳng biết Phật chỉ dạy mình cách tu, chính mình phải tự mình đạt đến, tự mình phù hộ cho mình. Nếu như Phật đại từ đại bi phù hộ cho chúng ta thì chúng ta khỏi cần tu hành rồi, Phật còn dạy chi cách tu hành!
Xưa kia có người hỏi Phật : "Ngài có phải Thượng đế chăng?" Đáp :"Không phải". " Ngài có phải một vị thần chăng ?" "Không phải". Ngài có phải là một đấng có oai quyền chăng ?" "Không phải." "Thế Ngài là ai?" " Ta là người giác ngộ (Phật Đà)".
Phật là tiếng Aán Độ, dịch là "Người giác ngộ".

Tại sao phải giác ngộ ? Nếu không giác ngộ thì chẳng thể giải thoát. Tại sao ? Nói "Giải thoát" là phải đạt đến tự do tự tại, muốn tự tại thì phải làm chủ cho mình, muốn làm chủ cho mình phải biết mình là cái gì ? Nay tất cả chúng sanh đều chẳng biết mình là cái gì, ở trong mịt mù đen tối, do mắt thấy tai nghe nên chỉ biết ở ngoài, còn mình là cái gì thì chẳng biết; chẳng biết sanh từ đâu đến, chết đi về đâu ? Hễ không được tự do thì không muốn già vẫn phải già, không muốn chết vẫn phải chết, không muốn bệnh vẫn phải bệnh, sanh tử không được tự do. Nếu ngộ được chính mình tức là Phật, tự do tự tại, vĩnh viễn dứt hết tất cả khổ. Nếu còn một chút khổ chưa dứt cũng chẳng tự tại vậy.

Cho nên, Phật pháp rất tích cực, hễ giác ngộ đến cùng tột là vĩnh viễn đạt đến tự do tự tại, khổ chẳng bao giờ trở lại, chẳng phải kiếp này chẳng phải kiếp sau, chẳng phải mười kiếp, trăm kiếp, cho dù muôn triệu ngàn kiếp cũng không màng. Tại sao? Nói tự do tự tại là không bị thời gian, không gian, số lượng hạn chế, nếu muôn triệu ngàn kiếp sau khổ còn trở lại tức chẳng tự do tự tại.

Hỏi : Có phải sau khi ngài Vĩnh Gia Huyền Giác ngộ đạo rồi, phải nhờ ngài Lục Tổ ấn chứng mới ra hoằng pháp ?

Đáp : Đúng. Thời nay có nhiều người tự làm tài khôn, tưởng mình đã chứng ngộ triệt để, hoặc cho sự giải ngộ là chứng ngộ, thấy cảnh giới này cảnh giới kia cũng cho là ngộ, thấy thanh thanh tịnh tịnh cũng cho là ngộ, nên phải nhờ thiện tri thức ấn chứng. Nhưng trong Kinh Pháp Bảo Đàn nói :" Hễ nói nhất định phải nhờ thiện tri thức ấn chứng cũng không đúng, là những người tăng thượng mạn mới cần thiện tri thức ấn chứng, còn những người không phải là tăng thượng mạn, nếu thực hành đúng pháp vô sở đắc thì không cần ai ấn chứng cũng được".

Như tôi thường thí dụ : Từ Chợ Lớn đến Sai Gòn là một trăm bước, chúng ta tham Thiền khởi nghi tình là đi, nếu đi được một bước còn chín mươi chín, đi được hai bước còn chín mươi tám, ba bước còn chín mươi bảy. có đi thì phải đến. Nên Lai Quả Thiền Sư trong Thiền Thất Khai Thị Lục nói " Nếu công phu thành khối rồi không cần ngộ cũng được." Vì khi công phu thành khối, chẳng giây phút gián đoạn thì chẳng có tướng, vô tướng thì Diêm La Vương chẳng thấy, không thể sai quỷ sứ đến bắt. Nhưng đã đến Sài gòn rồi, nói mình chưa đến cũng không được, và cũng không cần khoe với người khác rằng "Tôi đã đến Sài gòn rồi.", ấy là những người tăng thượng mạn vậy.

Hỏi : Tại sao nói "Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả"?

Đáp : Bất cứ pháp thế gian hay xuất thế gian đều có nhân quả, nhưng nhân quả là do tâm tạo; tâm khởi một niệm thiện thì có thiện quả, tâm khởi một niệm ác chiêu cảm ác quả, khởi niệm chẳng thûiện chẳng ác thì tạo cái nhân vô ký, có nhân ắt có quả.

Người đời thường nói "Bồ Tát sợ nhân, phàm phu sợ quả", Vì Bồ Tát không tạo nhân nên chẳng có quả, phàm phu tạo nhân rồi lại sợ quả nhưng cũng không tránh khỏi. Bồ Tát chẳng những không tạo ác nhân, thiện nhân cũng chẳng tạo __Chẳng phải là không làm thiện, nhưng làm thiện mà chẳng khởi tâm cho đó là thiện. Bởi tâm không tạo nên chẳng có thiện nhân; hễ có thiện nhân thì được thọ hưởng phước báo, nhưng Bồ tát thì không màng. Nên Lục Tổ nói " Chẳng nghỉ thiện chẳng nghỉ ác" là vậy.

Thế thì chúng ta muốn làm như thế có được không? Không được. Vậy phải làm sao ? Nên Phật dạy chúng ta tám mươi bốn ngàn pháp môn để tu, tu theo pháp môn thì lúc đầu làm không được, nhưng làm mãi cũng sẽ được. Tám mươi bốn ngàn pháp môn qui nạp lại thành bốn đại loại : Tham Thiền, niệm Phật, trì chú, quán tưởng. Tham Thiền là chỉ Tổ Sư Thiền, niệm Phật là theo pháp môn Tịnh Độ, trì chú là Mật tông, quán tưởng thuộc Giáo môn, như Tông Thiên thai, Hiền thủ v.v. mỗi tông đều có pháp quán tưởng riêng biệt, hễ thích hợp với tông phái nào thì tu đúng theo tông chỉ tông phái đó.

Tôi là chuyên hoằng Tổ Sư Thiền, chỉ biết dạy người tham Tổ Sư Thiền. Nếu biết ôm chặt câu thoại đầu mà tham, chẳng nghỉ đến việc khác, chỉ có nghi tình thì không tạo nhân, vì nghi tình chẳng biết gì cả, chẳng những niệm ác không khởi lên được, kể cả niệm thiện cũng chẳng khởi, đã không tạo nhân thì quả từ đâu đến ? Cách tu hành trên chẳng phải do tôi đặt ra mà là do Tổ sư Thiền tông đặt ra, cũng có người hỏi tôi về vấn đề truyền thừa, xưa kia là Tổ Tổ tương truyền, tức trò đã kiến tánh thì thầy chứng minh cho, gọi là truyền tâm ấn. Sau này sự kiến tánh bị gián đoạn, nói chữ "Truyền" chỉ là truyền cách tham Thoại đầu, công án đúng theo Tổ sư dạy. Hễ người nào siêng năng thì được kiến tánh, người nào lôi thôi, làm biếng thì chẳng được kiến tánh; như đi mau thì mau đến, đi chậm thì chậm đến. Nếu đề khởi nghi tình ngày đêm không dứt thì nhân chẳng thể khởi lên, tất nhiên cũng chẳng có quả, chứ khỏi cần khởi niệm muốn quét nhân quả, tự nhiên nhân quả chẳng có. Do đó, có ba cách trì giới :

  • Cách thứ nhất : Bình thường cứ mỗi nửa tháng Bố tát tụng giới một lần.
  • Cách thứ nhì : Thiền Giới, tức nghi tình hai mươi bốn giờ không gián đoạn, không kẽ hở, niệm thiện niệm ác chẳng thể khởi lên, mặc dù không để ý trì giới cũng đã trì giới rồi, nên gọi là Thiền giới.
  • Cách thứ ba : Cao hơn, đã chứng quả rồi dĩ nhiên không trì không phạm.

 

Nay muốn không lọt vào nhân quả, hãy thực hành theo cách dạy của Tổ Sư.

Hỏi : Nếu chẳng có một nhân lành nào thì làm sao Phật thọ ký ?

Đáp : Ý ông muốn nói là thọ ký rồi mới tu hành, phải không ? Nếu chúng sanh đòi hỏi phải thọ ký rồi mới tu hành thì làm sao còn ai tu hành ? Vả lại, nói "thọ ký" chỉ là phương tiện của Phật, như ở trong Kinh Pháp Hoa, Đề Bà Đạt Đa là người luôn có ý đồ giết hại Phật mà Phật vẫn thọ ký ! Thông thường thì con người sau khi chết mới xuống địa ngục, còn Đề Bà Đạt Đa là đang còn sống mà đọa địa ngục, ấy là tội nặng biết bao ! Nhưng Đức Phật vẫn thọ ký sau này sẽ thành Phật.

Thử hỏi ông có tạo tội gì nặng hơn Đề Bà Đạt Đa không ? Đề Bà Đạt Đa còn được thọ ký thì sao ông lại không được chứ ? Tất nhiên là được rồi ! Nhưng thời nay thì không còn Phật Thích Ca để thọ ký, vậy chẳng biết tìm Phật nào thọ ký đây ?!

Hỏi : Ý của con là Sự thọ ký do hành trì các pháp Ba La Mật của chư Phật từ vô lượng kiếp đến nay, công hành đầy đủ thành tựu mới được thọ ký ?

Đáp : Sáu pháp Ba La Mật là hạnh Bồ Tát, bậc Thanh Văn không hành theo pháp đó mà Phật vẫn thọ ký , như trong Kinh Pháp Hoa nói "Những bậc Thanh văn đều được thọ ký", chứ chẳng phải hành theo sáu Ba La Mật mới được thọ ký như ông vừa nói. Sự hiểu biết của ông còn cạn cợt, nhưng lại chấp vào sự hiểu biết đó.

Hỏi : Ấy là bởi căn lành của mỗi người mỗi khác, nếu không thì làm sao tất cả căn lành đều đi đến chỗ Phật đã dạy ? Nếu chẳng phải do căn lành vô lượng vô biên thì làm sao chỉ nhờ một công án mà thành Phật được ?

Đáp : Nay chỉ nói về kiếp trước : Kiếp trước ông có căn lành gì nay ông có biết không ? Tự mình còn chưa biết ! Đừng nói kiếp trước, hãy nói đến kiếp này : Khi ông lên năm tuổi, ông có nhớ những gì từ một đến bốn tuổi không ? Hãy nghe tôi kể qua một câu chuyện :

- Vào thời Phật, có một ông tên Tô Đạt rất nghèo, đi xin ăn cũng có bữa được bữa không, nghe nói Đức Phật đến thành phố thuyết pháp, tự nghĩ :" Chắc là kiếp trước không có tu hành nên kiếp này mới phải chịu khổ như thế", bèn đến nơi Phật cầu xin xuất gia. Khi đến Tịnh xá thì Phật đã đi khỏi, hàng đệ tử của Phật là bậc A La Hán, thần thông của A la Hán có thể biết được tám muôn kiếp trước và tám muôn kiếp sau, thấy ông Tô Đạt này từ tám muôn kiếp đến nay chưa hề gieo trồng thiện căn, Phật chẳng thể độ người không duyên, nên đuổi ông ấy ra về.

Dọc đường, Tô Đạt cảm thấy rất buồn, tự nghĩ " Hẳn là mình trong quá khứ kiếp không gieo trồng thiện căn, nên xin xuất gia cũng không được", đi đến bức tường bèn nảy ý đâm đầu vào tường tự tử. Trong lúc sắp đập đầu vào tường, gặp Phật Thích Ca đi qua cản lại, hỏi rõ nguyên do rồi dẫn về tịnh xá cho xuống tóc xuất gia, tu chẳng bao lâu chứng quả A la Hán. Những đệ tử của Phật như ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên rất thắc mắc "Sao ông ấy tám muôn kiếp chưa hề gieo trồng thiện căn vẫn được chứng quả ? Thế thì Phật thường dạy rằng "không thể độ người chẳng có nhân duyên" ấy là vọng ngữ ư ?"

Một hôm hỏi Phật, Phật bảo :" Các ngươi chỉ biết được nhân duyên của tám muôn kiếp mà chẳng biết được những gì ngoài tám muôn kiếp. Người này đã gieo trồng thiện căn từ vô lượng kiếp trước; khi ấy gia đình cũng rất nghèo, làm nghề đốn củi. Một hôm lên núi đốn củi gặp cọp, hoảng sợ trèo lên cây, con cọp bèn dùng răng cạp cắn gốc cây, trong lúc kinh sợ, sực nhớ rằng người ta thường bảo hễ gặp nguy thì niệm câu " Nam Mô Phật", có thể tránh được tai nạn. Y bèn niệm theo , được một hồi lâu, ngó xuống đất con cọp biến mất lúc nào chẳng hay, mừng rỡ trèo xuống về nhà. Mặc dù trong lúc đó chỉ niệm Phật được một vài tiếng, thiện căn ít ỏi, nhưng trải qua ïnhiều kiếp, nay nhân duyên chín mùi rồi mới có thể gặp Phật xuất gia chứng quả.

Bậc A La Hán đã chứng quả, đã xuất luân hồi còn chưa thể biết hết được, ông làm sao mà biết được ư ? Vả lại, thời gian niệm Phật của ông chắc là nhiều hơn ông Tô Đạt rồi, thiện căn chắc sẽ sâu hơn, tại sao còn chẳng chịu tin mà đi hỏi người khác?

Hỏi : Thế nào là ngũ căn, ngũ thức và bát thức ?

Đáp : Ở trong Duy thức gồm có bát thức : Năm căn trước gọi là tiền ngũ thức, thức thứ sáu là ý thức, thức thứ bảy là Matï na thức, thức thứ tám là A Lại Da thức, cũng gọi là Tạng thức. Nhưng tám cái thức chẳng phải có tám người, chỉ là tác dụng có tám. Lục thức trước người ta hiểu nhiều hơn, còn thức thứ bảy và tám thì ít người biết: Thức thứ bảy là cái thức ngày đêm chấp ngã, ngoài ra còn có tác dụng truyền tống, tức thức thứ sáu lãnh đạo năm thức trước làm mọi việc, tạo đủ thứ nghiệp nhân, rồi thức thứ bảy truyền vào tạng thức ( thức thứ tám ), khi chủng tử trong thức thứ tám đủ nhân duyên vận hành rồi, cũng sẽ do thức thứ bảy truyền cho thức thứ sáu để lãnh đạo năm thức kia thi hành.

Khi con người ngủ nghỉ rồi, năm thức trước ngưng hoạt động, còn thức thứ sáu từ vô thỉ đến nay ngày đêm hoạt động chẳng ngừng. Bởi năm thức trước là dưới sự lãnh đạo của thức thứ sáu, tạo thiện tạo ác đều do thức thứ sáu, nên Lai Quả Thiền sư nói "Khi cây đèn dẹp bỏ rồi thì chẳng ai lãnh đạo hoạt động, không ngưng cũng tự ngưng".

Trước kia tôi đã giảng về Tâm Kinh " Vô lão tử diệc vô lão tử tận", không có già không có chết; có già có chết tức có sanh tử, có luân hồi. Nếu thật có sanh tử luân hồi thì sanh tử luân hồi hết là tận, tức lão tử tận, trong Kinh nói chẳng thật có sanh tử luân hồi thì làm sao có sanh tử luân hồi để hết ? Thế thì tại sao nay chúng ta thấy có sanh tử luân hồi, thấy có già có chết ? Như nay tôi cũng già rồi, sau này cũng phải chết vậy ! Tại sao nói không có sanh tử ? - Sở dĩ thấy có sanh tử là do cảm giác sai lầm, do bệnh chấp thật của mình mới sanh ra. Cảm giác sai lầm này do thức thứ sáu ngày đêm hoạt động, tự nhiên phải thấy sanh tử luân hồi mãi.

Theo Giáo môn, khi ban đêm thức thứ sáu hoạt động một mình, Phật học gọi là "Độc đầu ý thức biến hiện cảnh chiêm bao". Trong cảnh giới chiêm bao cóngười quen cũng có người lạ, tất cả thế giới chiêm bao, sơn hà đại địa, nhà lầu xe hơi, luôn cả cái thân đều do thức thứ sáu biến hiện, đều do vọng tâm này biến hiện, trong kinh gọi là "Nhất thiết duy tâm tạo". Nay chúng ta không có ngủ, tiền ngũ thức hoạt động như thường, Phật học gọi là " Đồng thời ý thức biến hiện, tức tiền ngũ thức và thức thứ sáu đồng thời biến hiện hiện tượng thế giới này.

Theo Thiền tông thì độc đầu ý thức biến hiện nhắm mắt chiêm bao, với đồng thời ý thức biến hiện mở mắt chiêm bao đều là chiêm bao, Kinh Hoa Nghiêm nói "Nhất thiết duy tâm tạo", nhắm mắt chiêm bao là duy tâm tạo, mở mắt chiêm bao cũng là duy tâm tạo, chẳng có khác nhau, chỉ khác ở chỗ là do độc đầu ý thức hay do đồng thời ý thức biến hiện mà thôi.

Thiền tông và Giáo môn khác nhau ở chỗ :" Thiền tông không cần nghĩa giải mà cần sự kiến tánh, còn Giáo môn thì cần có nghĩa giải, về phần kiến tánh thì từ từ cũng được, ấy là sự khác biệt vậy.

Hỏi : Qui củ của Thiền đường như thế nào ?

Đáp : Trong "Thiền Thất Khai Thị Lục" của Lai Quả Thiền sư có kể về qui cũ của Thiền đường : Bình thường thì gõ bảng hai lần cho đi tiêu tiểu, ngoài ra đóng cửa suốt; khi muốn ra ngoài thì phải xin phép Duy Na, Duy Na đánh sáu hương bảng rồi cho mở cửa đi ra. Lúc đã thất thì không cho xin phép, kể cả bệnh và tiểu tiện cũng không được, chẳng thà đi trong quần, đi trong chiếu nệm thì được chứ mở cửa thì không được. Bình thường đã thất có người tuần hương, gặp người nói chuyện, cười giỡn hoặc quay đầu một cái là hương bảng đánh xuống liền, ấy là đối với người xuất gia. Vì người xuất gia thọ nhận sự cúng dường của thí chủ mười phương, có bổn phận tu thành Phật để độ chúng sanh, nên qui củ rất nghiêm khắc.

Nay Thiền đường ở đây không phải chính quy, người tham dự đa số là cư sĩ tại gia, nên qui củ có phần nới rộng, ra vào tự do. Qui củ của Lai Quả Thiền sư nói là không thể áp dụng và thực hành ở đây rồi, nhưng ít nhiều cũng không được nói chuyện trong Thiền đường, không được nói chuyện, cười giỡn khi ra ngoài vệ sinh. Thiền thất kỳ này, Hòa Thượng Trụ trì chính thức cho ra qui củ bằng hai thứ tiếng Việt và Hoa, hễ ai phạm phải, dù không đánh hương bảng, nhưng sẽ không cho tham dự Thiền thất nữa.

Lai Quả Thiền Sư ví dụ Thiền đường như một bệnh viện lớn,mục đích của mọi người đến đây đều muốn giải thoát bệnh lớn sanh tử, mà bệnh sanh tử không trị thì không bao giờ khỏi được. Nếu ai nói mình không có bệnh đâu cần đến bệnh viện ? cho nên hễ ai không có ý tu hành thì sẽ không đến .

Hỏi : Kinh nói "Vạn pháp do nhân duyên sanh", tất nhiên vũ trụ cũng do nhân duyên sanh, ắt có chỗ bắt đầu và đoạn diệt, có thỉ có chung . Nhưng tại sao Kinh lại nói "Vô thỉ vô chung"?

Đáp : Phật pháp nói "Tất cả duy tâm tạo", hễ duy tâm tạo là có đối đãi, có nhân duyên. Phải biết phàm là nhân duyên, duy tâm tạo thì chẳng phải thật, nên trong Kinh Lăng nghiêm nói " Phi nhân duyên, phi tự nhiên". Theo lẽ thường tình của người thế gian, nếu chẳng phải nhân duyên thì phải là tự nhiên, chẳng phải tự nhiên thì phải là nhân duyên, nhưng sự thật thì hai cái đều không đúng, đều không đủ lý do. Cũng như tôi thường lấy "con gà và trứng gà" làm thí dụ: Con gà và trứng gà đều là nhân duyên; con gà phải nhờ có trứng gà mới sanh ra, ấy là nhân duyên; trứng gà phải nhờ con gà mới được ấp ra, ấy cũng là nhân duyên, thế thì cái nào là nhân duyên ban đầu ? Con gà hay trứng gà ? ___Nếu không được thì phải là tự nhiên, tức tự nhiên có trứng gà, vậy có được không? Mọi người đều biết con gà phải do trứng gà ấp ra, trứng gà phải do con gà sanh ra. Nên Phật nói " Phi nhân duyên, phi tự nhiên", cả hai đều do chấp tâm của mình mà có, tức con gà cũng là duy tâm tạo, trứng gà cũng là duy tâm tạo. Tất cả vũ trụ vạn vật đều là duy tâm tạo, nếu có một pháp nào chẳng phải duy tâm tạo thì lời Phật là vọng ngữ !

Tâm tạo thì chẳng thật, nên tất cả Đại thừa liễu nghĩa đều phá chấp thật. Nếu nói là nhân duyên thì phải có sự bắt đầu, vì nhân duyên chẳng phải thật nên không có sự bắt đầu, gọi là "Vô thỉ". Phải biết vũ trụ vạn vật kiến lập từ chỗ nào? Ví như muốn cất một căn nhà, trước tiên phải có sườn nhà, thế thì vũ trụ vạn vật lấy gì làm cái sườn ? Là lấy "Không gian, thời gian, số lượng" ba thứ để làm khung sườn, hễ rút ra ba thứ trên thì vũ trụ vạn vật liền tiêu. Nhưng ba thứ này là gì ? Không gian, thời gian, số lượng chỉ là ba khái niệm ở trong vọng tâm của mình, đều không có bản thể. Do ba khái niệm này kiến lập vũ trụ vạn vật, cũng chính ba khái niệm này là hư vô, không bản thể. Như tôi thường thí dụ, chúng ta đang ở trong mở mắt chiêm bao , hiện thực thế giới này vốn là hư vô, như ở trong thế giới của nhắm mắt chiêm bao. Vốn là hư vọng, nên nói là nhân duyên cũng không đúng, nói là tự nhiên cũng không đúng, cho nên Phật nói "Vô thỉ", bởi thời gian không có bắt đầu thì tất cả đều không có bắt đầu. Nếu nói thời gian có bắt đầu thì trước khi sự bắt đầu của thời gian có thời gian không ? Lý lẽ này chính các nhà khoa học cũng chẳng thể giải thích vậy.

Hỏi : Trồng bí được bí, trồng đậu được đậu, đã gieo trồng thiện nhân thì sau này ắt được phước quả. Nhưng người tham Thiền chẳng gieo trồng phước nhân gì thì làm sao gặt được phước quả ?

Đáp : Tại bệnh chấp thật của ông còn nặng nên có câu hỏi này. Như Kinh Pháp Hoa nói " Như thị nhân như thị quả", nhân hữu vi được quả hữu vi, phước báo thế gian thuộc về nhân quả hữu vi, còn tham Thiền không biết gì cả thuộc nhân vô vi, nhân vô vi ắt được quả vô vi__Quả vô vi là thành Phật, thần thông biến hóa, tự do tự tại, không bao giờ hưởng hết, chớ có sợ là không có phước báo !

Về phước báo của thế gian, sự giàu sang phú quí, hưởng rồi sẽ hết, biết đâu trong khi hưởng phước báo giàu sang ấy có thể tạo ác nghiệp nặng hơn, kiếp sau sẽ thọ nhận ác báo nhiều hơn. Nên có được phước quả đồng thời cũng tạo lên khổ quả, do đó phải biết tạo nhân vô vi mới là vững chắc.

Hỏi : " Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ" có đồng nghĩa với câu "Chư pháp tùng bổn lai, thường tựï tịch diệt tướng" không ?

Đáp : Cũng chẳng có khác, nghĩa là bất nhị. Lục Tổ nói " Thuyết pháp không lìa Tự tánh", tự tánh vốn bất nhị thì tất cả pháp đều bất nhị. Như ở trên nói " Tất cả duy tâm tạo", pháp vị nào cũng là duy tâm tạo, do tâm tạo nên sanh ra đủ thứ cảnh huyển, nếu tâm không tạo thì tất cả vốn tịch diệt.

Hỏi : Câu " Pháp môn vô lượng thệ nguyện học" trong tứ hoằng thệ nguyện có áp dụng trong Thiền môn không?

Đáp : Nay tôi áp dụng Tứ hoằng thệ nguyện trong Thiền với ông : VÔ BIÊN CHÚNG SANH THỆ NGUYỆN ĐỘ; trong kinh Pháp Bảo Đàn nói "chúng sanh" là chúng sanh của Tự tánh, chúng sanh của tâm: Tâm tham sân si, tâm độc ác, tâm này tâm kia. ấy là chúng sanh. Nay tham Thiền khởi nghi tình là cây chổi automatic quét sạch tất cả những thứ tâm tham sân si, độc ác v.v. ấy là vô biên chúng sanh đã được độ rồi !

VÔ BIÊN PHIỀN NÃO THỆ NGUYỆN ĐOẠN : Khi khởi lên nghi tình, tất cả phiền não đều tự động quét sạch, ấy chẳng phải là vô biên phiền não đã được đoạn ?

VÔ LƯỢNG PHÁP MÔN THỆ NGUYỆN HỌC : Người đời hay lầm tưởng là phải học hết từng môn một, đã nói là "Vô lượng" thì làm sao học hết được ! Phật với Tổ là muốn chúng ta nhất môn thâm nhập, ví như từ Chợ Lớn đi Sài Gòn có biết bao con đường, đường Trần Hưng Đạo, Đường Nguyễn Trãi, đường Hùng Vương v.v.nếu muốn đi hết tất cả các con đường thì đi đến chừng nào mới tới ? Nên ý của Phật là muốn chúng ta lựa chọn một trong vô số pháp môn , như nay đã chọn pháp môn tham Thiền này là bao gồm tất cả rồi, ngày đêm tham thiền tức là ngày đêm niệm Phật, ngày đêm trì chú. chẳng còn sót một pháp môn nào, tham đến thành Phật thì là VÔ THƯỢNG PHẬT ĐẠO THỆ NGUYỆN THÀNH vậy. Cho nên, trong một pháp môn tham Thiền bao gồm cả Tứ hoằng thệ nguyện. Ở trong Giáo môn nói đến "Văn, tư , tu", trong Thiền môn cũng bao gồm cả : Nay quý vị nghe tôi dạy tham Thiền ấy là Văn, tự mình bắt đầu tham là dùng ý thức để tham câu thoại đầu, ấy là Tư, có văn có tư tức là Tu.

Hỏi : Vọng từ đâu sanh khởi ?

Đáp : Câu hỏi này có trong Kinh Lăng Nghiêm, Phú Lâu Na hỏi Phật :" Vọng từ đâu sanh? Tại sao có vọng?" Phật bảo :" Đã gọi là vọng thì chẳng có nguyên do, nếu có nguyên do thì chẳng gọi là vọng" . vấn đề này dùng lời nói chẳng bao giờ thấu hiểu được, bởi hễ có lời nói thì không lọt vào nhị biên cũng lọt vào trung đạo hoặc tứ cú, phải đợi cho đến kiến tánh thì mọi việc tất hiểu.

Hỏi : Làm thế nào phân biệt tham thoại đầu và niệm Phật ?

Đáp : Niệm Phật thuộc Tịnh Độ tông, Tham thoại đầu thuộc Thiền tông. Pháp Tịnh Độ là chấp thật, tham Thiền thì phá chấp thật, hai pháp trái ngược nhau. Tham Thiền cần có nghi tình, còn Tịnh Độ là Tín, nguyện, hành, cần có lòng tin. Phật là tùy thuận căn cơ của từng chúng sanh, muốn cứu giúp tất cả chúng sanh. Do tánh của chúng sanh quá chấp thật, nếu bảo bỏ chấp thì lại chẳng chịu, cho nên chấp vào Thập pháp giới thì chi bằng cho chấp Phật, đến khi được vãng sanh Cõi Tịnh Độ rồi, mới dần dần bỏ được sự chấp ấy, bởi hoàn cảnh tự nhiên khiến buông bỏ sự chấp thật và chuyển qua tham Thiền , sẽ được kiến tánh. Hễ còn chấp thật thì chẳng bao giờ kiến tánh được. Như Lai Quả Thiền sư nói "Quá khứ chư Phật, hiện tại Phật, vị lai Phật, chẳng vị nào không do tham Thiền mà kiến tánh".

Hỏi : Khi đề khởi câu thoại đầu, vẫn khởi niệm nhưng không phát khởi được nghi tình thì phải làm sao ?

Đáp : Tôi nói là HỎI chứ không nói là niệm, đừng có niệm. Có hỏi phải có đáp, hỏi rồi đáp không ra, thắc mắc ấy chính là nghi tình. Nếu còn đề khởi nghi tình không được thì cứ hỏi tới hoài, mười ngày, hai mươi ngày, ba mươi ngày . có người hỏi đến hai tháng mới phát khởi được nghi tình. Một khi đã phát khởi nghi tình thì trong thời gian ngắn cũng phát được trí huệ, từï hạ căn chuyển thành thượng căn. Câu thoại đầu là câu hỏi, chính câu hỏi đó là nghi tình.

Hỏi : Có một bài kệ của Tuệ Trung Thượng sĩ , có người dịch rằng " Trì giới kiêm nhẫn nhục, được tội chẳng được phước, muốn biết chẳng tội phước, đừng trì giới nhẫn nhục" , Sư thấy thế nào?

Đáp : Nguyên văn bài kệ là :"Trì giới kiêm nhẫn nhục, chiêu tội bất chiêu phúc. Dục tri vô tội phúc, phi trì giới nhẫn nhục". Câu thứ hai "Chiêu tội bất chiêu phúc" không thể dịch là " được tội chẳng được phước", vì chữ CHIÊU là chiêu cảm, như thiện nhân chiêu cảm thiện quả, tức vui; ác nhân chiêu cảm ác quả, tức khổ. Nhưng ở trong Phật pháp thì thường là thiện nhân chiêu ác quả, ác nhân lại chiêu thiện quả. Tại sao? Ví như bậc tu sĩ chúng ta, chịu sự cúng dường của mười phương, nếu làm những việc bố thí từ thiện, không lấy Phât giáo làm trung tâm mà lấy tự kỷ làm trung tâm, thì những việc từ thiện ấy chỉ làm cho địa vị danh dự của mình được nổi bật, để cho mình được cúng dường nhiều thêm, thì việc ấy là thiện nhân chiêu ác quả. Kinh Lăng Nghiêm nói là "hư tiêu tín thí", thuộc tội địa ngục. Còn "Aùc nhân chiêu thiện quả" thì chỉ ở trong Thiền tông các Tổ Sư mới thấu, người thế gian chẳng thể hiểu được, hễ bắt chước làm theo thì tội rất nặng. Ví như Thiền sư đã kiến tánh muốn độ chúng sanh, dùng sát sanh để làm Phật sự, như ngài Nam Tuyền chém mèo, Quy Tông chém rắn. nếu người không có cảnh giới đó mà học theo thì tạo tội rất nặng .

- Còn câu thứ tư "Phi trì giới nhẫn nhục" nếu dịch thành " Đừng trì giới nhẫn nhục" thì hại người biết bao ! chữ PHI là không phải , tội với phước là đối đãi, là nhị. Ý nói muốn biết không tội phước , đạt đến chỗ không tội phước, đạt đến chỗ bất nhị ấy chẳng phải do trì giới nhẫn nhục mà được. Nhưng hễ người nào có ý không trì giới nhẫn nhục thì người ấy không thể đạt được. Phật giáo là lấy sự trì giới làm căn bản, lúc Phật tại thế là y Phật làm bổn sư, sau khi Phật nhập Niết bàn thì phải y theo Giới luật làm bổn sư, Giới là thay thế cho Phật vậy.


Mục Lục | Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5 | Phần 6

 


Vào mạng: 1-1-2002

Trở về thư mục "Thiền Phật giáo"

Đầu trang