Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
cNghĩa Huyền Thiền Sư
LÂM TẾ NGỮ LỤC
Thích Duy Lực dịch
Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản Năm 1993 Phật lịch 2536
~~oOo~~

Phần 3

Hỏi: "Thế nào là kiến giải chân chính ? Xin khai thị lại ?"

Sư đáp: "Ngươi chỉ cần đối với tất cả, vào phàm vào thánh, vào nhiễm vào tịnh, vào các quốc độ chư Phật, vào lầu các Di Lặc, vào thế giới Tỳ Lô Giá Na, chỗ chỗ đều hiện quốc độ thành, trụ, hoại, không. Phật ra đời chuyển đại pháp luân vào vô dư niết bàn, chẳng thấy có tướng mạo khứ lai, cầu việc sanh tử trọn chẳng thể đắc, liền vào pháp giới vô sanh, dạo qua các quốc độ nơi nơi, vào thế giới Hoa Tạng, thấy hết các pháp toàn chân đều là thực tướng. Chỉ có Ðạo nhân vô y (tự tánh) đang nghe pháp, là mẹ của chư Phật, bởi vì chư Phật đều từ vô y sanh. Nếu ngộ được hai chữ vô y (không chỗ nương), Phật cũng vô đắc. Nếu thấy được như thế, tức là kiến giải chân chính. Học nhân không hiểu, chấp danh cú, bị danh phàm-thánh chướng ngại. Do đó chướng ngại đạo nhãn của họ, chẳng được sáng tỏ. Thực ra mười hai phần giáo nói ra đều chỉ là hiển bày lẽ này, kẻ học không lãnh hội được bèn hướng vào danh cú mà vọng sanh kiến giải, ấy đều là có y có dựa, lọt vào nhân quả chưa ra khỏi sanh tử luân hồi trong tam giới.

Các ngươi, nếu muốn đi ở tự do trong sanh tử, thì phải nhận thức người đang nghe pháp đây, vốn là vô hình, vô tướng, vô căn, vô bản, không trụ xứ, mà hoạt bát rõ ràng, ứng dụng muôn thứ, chỗ dùng chỉ là không chỗ (vô sở trụ).

Nếu kẻ muốn tìm thì lại càng xa, muốn cầu thì lại càng sai; nên có hiệu là bí mật. Các ông chớ nhận lấy kẻ bạn mộng huyễn (ý nói thân ngũ uẩn), trong khoảng sát na sẽ trở về vô thường. Các ông đến trong thế giới này tìm vật gì làm giải thoát ? Tìm lấy một chén cơm mà ăn, một manh áo mà mặc. Chớ nên uổng qua thời giờ, đuổi theo sự vui thích mà uổng phí một đời, ngày giờ đáng tiếc, niệm niệm vô thường, nếu thô thì bị bốn thứ: đất, nước, gió, lửa (tứ đại) bức bách, nếu tế thì bị sanh, trụ, dị, diệt (tứ tướng) bức bách ; đến khi nào mới xong ?".

Các ông ! Thời nay cần phải nhận biết bốn thứ cảnh vô tướng, mới khỏi bị cảnh lôi kéo.

Hỏi: "Thế nào là bốn thứ cảnh vô tướng ?"

Sư đáp:

"Các ngươi một niệm tâm ái bị nước nhận chìm.
Các ngươi một niệm tâm sân bị lửa đốt cháy.
Các ngươi một niệm tâm nghi bị đất làm ngại.
Các ngươi một niệm tâm hỷ bị gió thổi bay.

Nếu thấu hiểu được như thế thì chẳng bị cảnh chuyển. Nơi nơi dùng được cảnh, nổi bên Ðông, lặn đằng Tây, nổi bên Nam lặn đàng Bắc, nổi ở giữa lặn ở biên, nổi ở biên, lặn ở giữa, đi trên nước như đi trên đất, đi trên đất như đi trên nước. Tại sao được như vậy ? Vì đã thấu đạt tứ đại như mộng huyễn.

Các ngươi hiện nay đang nghe pháp đó, chẳng phải tứ đại của các ngươi, chính cái đó hay dùng được tứ đại, mà không bị tứ đại dùng. Nếu thấy được như vậy là đi ở tự do. Chỗ thấy của sơn tăng là cái pháp không thể chê. Nếu ngươi ghét phàm yêu thánh thì bị cảnh thánh phàm buộc.

Có một số học nhân lên Ngũ Ðài Sơn cầu gặp Văn Thù đã là sai lầm rồi vậy. Trên Ngũ Ðài Sơn không có Văn Thù.

Các ngươi muốn biết Văn Thù chăng ? Chỉ là chỗ dùng trước mắt của các ngươi, xưa nay chẳng khác, mọi nơi chẳng ngại, cái ấy là Văn Thù sống. Các ngươi một niệm tâm sáng suốt không sai biệt, nơi nơi thảy là Phổ Hiền. Các ngươi một niệm tâm tự tại, tùy chỗ giải thoát ấy là Quán Thế Âm. Ba pháp thay phiên nhau làm chủ-bạn, hiển thì nhứt thời hiển, ẩn thì nhứt thời ẩn, một tức ba, ba tức một. Hiểu được như thế mới có thể xem Kinh Giáo. Ðại thiện tri thức mới dám báng Phật báng Tổ, mới dám thị phi thiên hạ, bài xích Tam Tạng Giáo-điển, chưởi mắng nơi nơi như mắng tiểu nhi. Hướng trong cảnh nghịch thuận mà tìm người nên nói ta ở trong mười hai năm, (thập nhị nhân duyên) tìm một nghiệp tánh nhỏ như hạt cải cũng chẳng thể được. Nếu như kẻ bị xưng là "Thiền sư con dao mới" thì phải sợ bị đuổi ra khỏi thiền viện hay bị phạt không cho ăn cơm, suốt ngày không yên ổn. Các bậc tiền bối xưa đến nơi nào cũng bị người không tin đuổi ra, vậy mới biết ấy là quý. Nếu đến chỗ nào đều có người tin thì kham làm cái gì? Nên nói sư tử rống lên một tiếng thì con cho sói bể đầu bể óc".

*****

Các ông ! Các nơi đều nói có đạo để tu, có pháp để chứng, ngươi nói thử xem chứng pháp nào ? tu đạo nào ?

Nay chỗ dụng của ngươi có thiếu vật gì, tu bổ chỗ nào, kẻ tiểu sư hậu học không hội được, lại đi tin bọn dã hồ tinh, bọn chúng thuyết những việc trói buộc người khác, họ nói rằng: "Lý hạnh tương ưng, hộ tiếc tam nghiệp. (Nói và làm phù hợp với nhau thì giữ được thân, khẩu, ý chẳng tạo nghiệp). Mới được thành Phật". Kẻ thuyết như thế nhiều như mưa phùn mùa xuân. Người xưa có nói:

"Lộ phùng đạt đạo nhân,
Ðệ nhất mạc hướng đạo".

Dịch nghĩa:

Giữa đường gặp người thông đạt đạo
Tốt nhất chớ nên hướng vào đạo.

Cho nên nói:

"Nhược nhân tu đạo, đạo bất hành
Vạn ban tà cảnh, cạnh đầu sanh.
Trí kiếm xuất lai vô nhất vật
Minh đầu vị hiển ấm đầu minh".

Dịch nghĩa:

Nếu người tu đạo, đạo chẳng hành
Muôn thứ cảnh tà giành nhau sanh
Kiếm trí huệ ra, không một vật
Bên sáng chưa hiện, bên tối sáng.

Cho nên người xưa nói: "Tâm bình thường là đạo".

Các Ðại đức, còn muốn tìm vật gì, kẻ đạo nhân vô y trước mắt hiện đang nghe pháp đó phân minh rõ ràng chưa từng thiếu sót cái gì. Nếu ngươi muốn so bằng Tổ bằng Phật, chỉ cần thấy như vậy, chẳng còn nghi ngờ, tâm tâm chẳng khác của ngươi gọi là Tổ sống. Tâm nếu có khác thì tánh tướng khác, vì tâm chẳng khác nên tánh tướng chẳng khác.

Hỏi: "Thế nào là chỗ tâm tâm chẳng khác ?"

Sư đáp: "Ngươi muốn hỏi đã là khác rồi vậy, tánh tướng đã phân biệt khác nhau. Các ông chớ hiểu lầm, các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng tự tánh cũng chẳng sanh tánh, chỉ có không danh mà danh-tự cũng không. Ngươi cứ nhận lầm cho rằng cái tên gọi là thật có, ấy là sai lầm lớn rồi đó. Giả sử là có, đều chỉ là cái cảnh y biến có, như: Bồ Ðề y, Niết Bàn y, giải thoát y, tam thân y, cảnh trí y, Bồ Tát y, Phật y... Ngươi cứ hướng vào trong quốc độ y biến, tìm vật gì ? Cho đến tam thừa mười hai phần giáo đều chỉ là giấy lau chùi những bất tịnh. Phật là huyễn hóa thân, Tổ là tỳ kheo già, ngươi còn là kẻ có mẹ sanh mình chăng ? Ngươi nếu cầu Phật thì bị ma Phật nhiếp. Ngươi nếu cầu Tổ thì bị ma Tổ buộc. Ngươi nếu có cầu đều là khổ não, chẳng bằng vô sự thì tốt.

Có bọn tỳ kheo trọc đầu nói với người học đạo rằng: "Phật là cứu cánh, trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp tu hành viên mãn mới thành đạo quả". Các ông nếu nói Phật là cứu cánh vì sao mà tám mươi năm sau, lại đến rừng Sa-la song-thọ nằm ngang mà chết đi ? Nay Phật ở chỗ nào ? thế thì biết rõ sanh tử của Phật so với sanh tử của ta cũng chẳng khác. Ngươi nói nếu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi thứ vẻ đẹp là Phật, vậy Chuyển Luân Thánh Vương cũng phải là Phật, vì Chuyển Luân Thánh Vương cũng có ba mươi hai tướng tốt vậy, nên biết tất cả chỉ là huyễn hóa.

Người xưa có bài kệ rằng:

"Ðức Phật hiện thân tướng
Vì thuận tình thế gian
E người sanh đoạn kiến
Phương tiện lập giả danh
Giả nói có ba hai
Tám mươi cũng vẫn không
Có thân phi giác thể
Không tướng là hình chân".
(Như Lai hiện thân tướng
Vi thuận thế gian tình
Khủng nhân sanh đoạn kiến
Quyền tả lập hư danh
Giả ngôn tam thập nhị
Bát thập diệc không thanh
Hữu thân phi giác thể
Vô tướng nãi chơn hình)

Ngươi nói Phật có lục thông là bất khả tư nghì. Vậy tất cả chư thiên, thần tiên, A-tu-la, đại lực quỷ cũng có thần thông phải là Phật chăng ?

Các ông chớ sai lầm, cũng như A tu la cùng Ðế Thích đánh nhau, bị thua rồi lãnh 84 ngàn quyến thuộc dấu trong lỗ củ sen, thế là Thánh chăng ? Những việc kể của sơn tăng đều là nghiệp thông, y thông. Cái lục thông của Phật thì chẳng phải vậy. Nghĩa là: vào sắc giới chẳng bị sắc mê hoặc, vào thanh giới chẳng bị thanh mê hoặc, vào hương giới chẳng bị hương mê hoặc, vào vị giới chẳng bị vị mê hoặc, vào xúc giới chẳng bị xúc chạm mê hoặc, vào pháp giới chẳng bị pháp mê hoặc. Cho nên nói thấu đạt sáu thứ : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đều là tướng KHÔNG, chẳng bị trói buộc, ấy là đạo nhân vô y. Dù mang thân xác ngũ uẩn cũng là địa hành thần thông.

Các ông phải biết: Chơn Phật vô hình, chơn pháp vô tướng. Các ông cứ muốn ở trên đầu huyễn hóa, làm dáng làm điệu, đủ thứ mong cầu, dẫu cho cầu được cũng là dã-hồ-tinh, chẳng phải là chân Phật, đều thuộc kiến giải ngoại đạo. Nếu là người chân học đạo thì chẳng lấy Phật, lấy Bồ Tát, La Hán, chẳng lấy thù thắng của tam giới, thản nhiên độc thoát, chẳng bị tâm cảnh giựt trói, dù trời đất đảo lộn ta cũng không nghi, mười phương chư Phật hiện tiền cũng không có một niệm tâm vui mừng, địa ngục tam đồ bổn hiện cũng không nổi một niệm sợ hãi ; tại sao như thế ? Tại ta thấy chư Phật tướng KHÔNG, biến hóa thì có, chẳng biến hóa thì không.

Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức, nên nói như mộng huyễn, như hoa đốm trên không, cần gì phí sức nắm bắt. Thực ra chỉ có các ông là người hiện nay đang nghe pháp ngay trước mắt đây, vào lửa chẳng thiêu, vào nước chẳng chìm, vào địa ngục tam đồ như đi dạo vườn hoa, vào ngạ quỷ súc sinh mà chẳng thọ ác báo. Tại sao như thế ? Theo cái pháp không có chỗ chê này thì:

"Nếu ngươi yêu thánh ghét phàm
Chìm nổi trong biển sanh tử
Phiền não do tâm mới có
Không tâm phiền não ở đâu ?
Chẳng nhọc phân biệt lấy bỏ
Tự nhiên ngay đó đạo thành".

Các ông cứ muốn đuổi theo nhà này nhà nọ, gắng sức mà cầu học. Dẫu cho học được trong ba A-tăng-kỳ kiếp, rốt cuộc lọt vào sanh tử, chẳng bằng vô sự, hướng vào góc sàn trong tùng lâm xếp bằng mà ngồi.

*****

Các ông muốn được đúng như Pháp, cần phải có lòng tin vững chắc, chớ nên sanh tâm nghi ngờ. Bản thể của chân tâm phóng thì trùm khắp pháp giới, mà thu thì tơ hào chẳng lập, sáng tỏ chiếu soi rõ ràng chưa từng thiếu sót, mắt không thấy, tai không nghe gọi là việc gì ? người xưa nói rằng: "Nói tựa như một vật thì không đúng". Các ông hãy tự xem còn có cái gì để nói nữa. Mỗi mỗi tự dụng công phu đi! Trân trọng!

*****

Các ông nên tin rằng chỗ dụng trước mắt của các ông với Tổ, với Phật chẳng khác. Chỉ vì không tin bèn hướng ngoại tìm cầu. Chớ nên sai lầm, hướng ngoại chẳng có pháp, hướng nội cũng bất khả đắc. Các ông muốn lấy lời nói trong miệng của sơn tăng, không bằng thôi nghỉ chớ tạo nghiệp, hãy làm người vô sự đi !

Nếu niệm đã khởi chớ nên tiếp tục, nếu niệm chưa khởi đừng cho sanh khởi. Làm được như thế thì hơn đi hành cước mười năm. Ðừng để bất cứ nội ngoại vật nào trói buộc, gặp chướng ngại nào cứ đạp bỏ: gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, cho đến gặp gì cũng giết cả. Ðó là con đường duy nhất để đi đến giải thoát (chữ "Giết" ở đây là ám chỉ giết cái tâm chấp trước của chúng sanh, nên gặp gì giết nấy để khỏi bị tâm và cảnh dính mắc, cũng là cái nghĩa vô sở trụ vậy.).

Các ông nên biết, chỗ một niệm tâm thôi nghỉ của ông gọi là cây bồ đề. Chỗ một niệm tâm không thể thôi nghỉ gọi là cây vô minh. Vô minh chẳng có trụ xứ, vô minh chẳng có thủy chung, nếu tâm của ngươi niệm niệm thôi nghỉ chẳng được thì leo lên cây vô minh, đi vào tứ sinh lục đạo mang lông đội sừng. Nếu ngươi thôi nghỉ được, tức là thanh tịnh pháp thân. Nếu ngươi một niệm chẳng sanh thì leo lên cây bồ đề, vận thần thông trong tam giới, biến hóa thân tự tại.

 

Có một bọn mù trọc đầu ăn cơm no rồi ngồi thiền quán hạnh, chụp bắt niệm lậu không cho sanh khởi, tránh ồn ào, cầu tĩnh lặng ; ấy là pháp ngoại đạo. Tổ sư nói: Nếu ngươi trụ tâm khán tịnh, cử tâm ngoại chiếu, nhiếp tâm nội trừng (trong lặng), ngưng tâm nhập định ; bọn người như thế đều là tạo tác. Người hiện nay đang nghe pháp này làm sao muốn tu nó, chứng nó, trang nghiêm nó. Nó vốn chẳng phải vật để cho tu, chẳng phải vật để trang nghiêm được. Nếu bảo nó trang nghiêm ông được, thì tất cả vật đều được trang nghiêm. Sơn tăng nói hướng ngoại chẳng có pháp, học nhân không lãnh hội được bèn cho là hướng trong, rồi liền dựa vách ngồi trạm nhiên chẳng động ; chấp lấy cái này là Phật Pháp của Tổ môn, thực là sai lầm lớn. Nếu ngươi chấp lấy cảnh thanh tịnh, bất động là đúng. Vậy tức là ngươi nhận cái vô minh làm chúa tể. Người xưa nói chỗ hầm sâu đen tối mịt mù thật đáng ghê sợ là lý này vậy. Nếu ngươi nhận cái động là phải, thì tất cả cỏ cây cũng đều biết động, cũng nên gọi là đạo chăng ? Thực ra kẻ động là phong đại, bất động là địa đại. Ðộng với bất động chẳng có tự tánh. Nếu ngươi hướng vào chổ động mà nắm bắt nó thì nó hướng vào chỗ bất động đứng. Nếu ngươi hướng vào chỗ bất động bắt nó thì nó lại hướng nơi chỗ động đứng. Ví như con cá ẩn trong suối nhảy ngược dòng.
Các Ðại-đức! động với bất động là hai thứ cảnh, còn đạo nhân vô y thì động cũng dùng, bất động cũng dùng..


Lời dịch giả | phần 1 | phần 2 | phần 3 | phần 4

 


Vào mạng: 11-12-2001

Trở về thư mục "Thiền Phật giáo"

Đầu trang