Thi liệu được sử dụng nhiều
nhất khi miêu tả thiên nhiên trong thơ thiền Lý Trần là mùa thu, ánh trăng,
gió, hoa, chim, nước, mây và núi.
Trước hết là mùa thu. Mùa thu là cảnh sắc thiên nhiên đẹp,
trong sáng, gợi cảm và thường mang nét buồn dịu dàng, man mác. Xưa nay,
thi sĩ của các thời đại vẫn thường rung động trước mùa thu. Họ
sáng tác nhiều về mùa thu. Ở thơ thiền, mùa thu một mặt gợi lên sự
mong manh chóng tàn, cái ngắn ngủi và hữu hạn của vạn vật, dùng làm phương
tiện để diễn đạt cái "không" của triết lý Thiền. Mặt khác,
cái trong trẻo lặng lẽ của nó, nhất là vào ban đêm, tạo nên một
không gian bát ngát vô giới hạn và hư không tĩnh lặng đến vô cùng. Nó
gợi nhớ cái bản thể vũ trụ lớn lao không hình sắc, không sanh diệt,
thường hằng và có mặt ở khắp nơi. Đó cũng là cái tâm trống không của
con người đã đạt đến sự hòa nhập cùng bản thể tự nhiên tự tại
và thư thái vô biên.
Cũng cần để ý cặp hình ảnh "xuân thu" thường
đi liền với nhau để biểu tượng cho quy luật sinh trưởng và tàn lụi của
vạn vật. Tại sao các nhà thơ thường chọn cặp từ ngữ "xuân
thu" này ? Đây là dấu vết của triết học phương Đông. Với quy luật
Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu sát, Đông tàn. Mùa xuân và mùa thu là hai mùa
mà sự vật đang phát triển theo hai hướng ngược nhau, nhưng chưa phải là
đến tột độ để dừng lại và sắp biến đổi về chất. Mùa xuân là
mùa vạn vật sinh sôi nảy nở nhưng là mới bắt đầu, có thế đang lên
của sự hưng vượng, chưa dừng lại kết thúc quá trình. Nó là cái
"dương" chưa trưởng thành đầy đủ. Mùa thu là mùa cây cỏ, hoa
lá úa vàng, con người buồn, sinh vật ít hoạt động, nhưng cũng là giai
đoạn đang còn tăng tiến của tính chất này, chưa phải đã là đỉnh cao
của sự tàn lụi. Nó là cái "âm" chưa trưởng thành đầy đủ.
Hai mùa xuân và thu như vậy vừa tiêu biểu cho hai trạng thái đối nghịch
nhau của vạn vật, vừa chứa trong nó khả năng tiếp tục phát triển của
quá trình, do đó nó được chọn để biểu tượng cho quy luật vận động
không ngừng của tự nhiên.
- "Đản tri kim nhật nguyệt
- Thùy thức cựu xuân thu".
- (Sống ngày nay biết ngày nay
- Còn xuân thu trước ai hay làm gì).
- (Nhựt Nguyệt 1 – Thiền Lão)
Ánh trăng, như đã đề cặp ở trên thường dùng để tượng
trưng cho trí tuệ Bát nhã, cho sự Viên giác – cái tâm đã đạt đến chỗ
hư không trong suốt. Thường đó là ánh trăng sáng vằng vặc trong một khoảng
không bao la cao rộng và sâu hơn giới hạn. Sự đơn lẻ của một vầng
trăng sáng trên núi cao hay giữa bầu trời, càng tạo cảm giác về sự trống
không và tịch tĩnh vô biên của thế giới ngoại vật trong "con mắt
tuệ". Mặt khác, ánh trăng trong nước còn là một hình ảnh thường gặp,
biểu tượng cho cái giả, cái ảo của thế giới hiện tượng.
- "Hữu không như thủy nguyệt".
- (Có không như ánh trăng trong nước).
- (Hữu không – Đạo hạnh)
Ở trường hợp này, ánh trăng hầu như chỉ có chức năng
biểu tượng để diễn đạt một triết lý, ít chất thơ và khơi gợi những
cảm xúc nơi người đọc về sự huyền diệu của bản thể, của đạo,
của chơn tâm, tuệ giác, như trường hợp đầu. Trăng sáng thường đi với
gió trong. Cũng như trăng, gió vừa có ý nghĩa miêu tả trực tiếp thiên
nhiên, đồng thời cũng có ý nghĩa biểu tượng. Thiền sư Minh Trí đời Lý
trong bài Tầm Hưởng đã nói :
- "Tùng phong thủy nguyệt minh
- Vô ảnh diệc vô hình
- Sắc thân giá cá thị
- Không không tầm hưởng thanh".
- (Gió trên cây tùng trăng dưới nước
- Không có bóng cũng không có hình
- Sắc thân cũng như thế đó
- Tìm tiếng vang ở trong khoảng không).
Gió trên cây tùng cũng như trăng dưới nước tưởng như là
cái hiện hữu, nhưng kỳ thực không thể nắm bắt, là hư không. Hiện tượng
này được ví với sắc thân của con người, tất cả chỉ là giả, là
cái biểu kiến, không có thật .Nó là cái gì vừa thanh thoát cũng vừa hư
ảo. Chỉ có thể cảm nhận mà không thể nắm bắt cụ thể⮼/p>
Tương tự, hoa và chim cũng vừa có ý nghĩa trực tiếp, vừa
có ý nghĩa biểu tượng. Chủ yếu nó tượng trưng cho quy luật tuần hòan
theo chu kỳ của tự nhiên.
- "Ly hạ trùng dương cúc
- Chi đầu thục khí oanh".
- (Cúc trùng dương dưới giậu
- Oanh thục khí đầu cành).
- (Tham Đồ Hiển Quyết - Viên Chiếu).
- "Thu thiên đoàn thử lệ
- Tuyết cảnh mẫu đơn khai"
-
- (Hoàng oanh hót dưới trời thu
- Mẫu đơn nở giữa mịt mù tuyết bay)
- (Tham Đồ Hiển Quyết -Viên Chiếu)
Mây, núi và nước là những hình ảnh hay đi với nhau thường
được dùng biểu tượng cho sự hồn nhiên tự tại của vạn vật. Nó vận
động theo quy luật nào đó, nhưng là vô tâm, vô ý, do đó cũng tượng
trưng cho cái tâm trống không của người đã giác ngộ không vướng bận
chút gì, ví như "mây trên trời xanh, nước trong bình" (*)
đi lại tự do, ở hoàn cảnh nào theo hoàn cảnh ấy. Những hình ảnh này
cũng tiêu biểu cho sự vĩnh hằng của qui luật – nước muôn đời vẫn
chảy mãi về đông và ngàn xa mây trắng vẫn lửng lơ trên núi xanh như ngàn
xưa, mặc cho bao thăng trầm của thế sự, cả những cuộc biến động
như lửa dữ cháy bừng thiêu ra tro đến mảy tơ.
Hình tượng thiên nhiên ngoại vật xuất hiện trong cảm hứng
thơ hòa lẫn với cảm hứng thiền. Ở
렰