Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
SƯ TRƯỞNG NHƯ THANH: CUỘC ĐỜI và SỰ NGHIỆP
Chùa Huê Lâm

Đọc thơ chữ Hán của Sư trưởng
Trần Tuấn Mẫn

Sư trưởng Như Thanh đã sáng tác, biên soạn và dịch thuật khoảng hai mươi tác phẩm Phật học. Riêng về thơ, Sư trưởng cũng có ít nhất tám tập với các đề tài về đạo, về khuyến tu, về sự cảm nhận thực tại của một nhà tu sĩ đã thấm nhuần và thể nghiệm giáo pháp của Đức Thích-ca. Thơ của Sư trưởng gồm nhiều thể loại: thơ bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, lục bát, song thất, Đường luật. Đặc biệt mới đây tôi có được đọc tập thơ chữ Hán, gồm 27 bài mà tôi rất tâm đắc. Trong khuôn khổ bài này, tôi chỉ xin nói đến một đề tài khá đậm nét trong tập thơ, đó là sự thể nghiệm sâu sắc về cái thực tại rất mực cụ thể, rất mực sinh động, hồn nhiên lại vô cùng vi diệu của nhất như, bất nhị, bình đẳng "ngay ở đây và bây giờ" và vẫn như thế từ vô thỉ đến vô chung.

Trước hết là một vũ trụ quan của tính Không (Sunyata) làm căn bản cho cái nhìn về thế giới duyên sinh, hữu vi đầy những chuyển biến, đầy tính đa thức của vọng tình phân biệt. Chỉ có đứng trên quan điểm tính Không, tức cái thực tướng của chân không, cái Không tuyệt đối và vô cùng mầu nhiệm bất khả tư nghì rồi thì mới thấy cái ảo hóa của Có, Không đối đãi để rồi hợp nhất chúng vào tổng thể chân như:

Chân không thực tướng lộ nguyên hình,
Sắc sắc, không không liễu liễu minh.
Tức sắc, tức không, chân thể hiện,
Phi không, phi sắc, vạn duyên trình.
(Thực Tướng)

Vì Không tính là pháp tính, vì tính của pháp là Không thì tướng của pháp dù có muôn hình vạn trạng vẫn chỉ là biểu hiện của cái Không tuyệt đối, tức là mọi sự vật chỉ hình thành do duyên mà thôi:

Pháp tướng vô biên vạn sự thành,
Trùng trùng vật sắc tự duyên sanh.
(Pháp Tướng)

Cái thế giới vô lượng vô biên của pháp tướng mà ta quan niệm đối đãi bao gồm tâm cảnh, ta người luôn luôn chuyển biến được gọi là thế giới tâm vật lý hay thế giới hiện tượng. Nó được gán vào bao nhiêu là ý niệm, bao nhiêu là tên gọi khởi từ những cảm thọ của ta. Nó là thế giới của phân biệt (Vikalpa) như kinh Lăng Già tuyên bố "Tam hữu duy phân biệt."

Do kết quả tu tập lâu dài, tác giả đã lĩnh hội, thể nghiệm về một cái nhìn vượt qua thế giới của phân biệt và đề nghị ta nên có cái nhìn ấy. Chỉ có như thế ta mới thấy được thế giới đúng như nó là Như thị, như như, nhất như, chân như, chân thực đều là những từ Hán dịch từ Phạn ngữ Tatwam hay Tathà hay Tathàta. Vì là chân như nên thế giới dù mang vẻ đa phức, vẫn là thể hiện của cái chân tính nhất như, bất dị hay bất nhị (Advaita, Advaiya) và bình đẳng (Sama), bất sinh (Anutpanna):

Pháp pháp nguyên lai bổn thể đồng,
Bất sinh bất diệt vạn duyên thông.
Như như bình đẳng vô nhân ngã,
Thị thị chơn thường, tuyệt sắc không.
(Pháp Tính)

Chỉ bằng bốn câu thơ trên, Sư trưởng Như Thanh đã khẳng định một thế giới quan đúng đắn chân thực: Mọi sự vật đều cùng một bản thể, thỉ chung vẫn như thế, không sinh diệt, luôn bình đẳng, không hề có phân biệt ta với người, sắc với không, hay nói một cách khác là bất nhị. Đó là Pháp tính (Dharmata). Vậy, tất cả đều là như thị, như thế, đồng, bình đẳng, vô phân biệt.

Tâm cảnh, sắc không đồng nhất thể,
Chân không thực tướng lộ nguyên hình.
(Thực Tướng)

Một khi đã thông hội với thực tướng của chân không thì lý bình đẳng bất sinh lại càng được hiển lộ: Tất cả đều hòa đồng, đều thuận hợp. Từ pháp tính vốn không, nên không cảnh, không tâm, không đây, không đó, chỉ có sự khế hợp mà thôi. Ý niệm về hạnh phúc khổ đau, về phàm Thánh, về Niết-bàn trần thế chỉ còn lại sự tịch lặng trong diệu dụng của nhất như :

Phi cảnh, phi tâm, phi bỉ thử,
Khế thời, khế sự, khế Tây Đông.
(Pháp Tính)

hay:

Nhân tâm, vật cảnh vô sai biệt,
Thánh ý, phàm tình tự giả không.
(Diệu Dụng)

và:

Cực Lạc, Ta-bà đồng nhất phẩm,
Pháp thân thanh tịnh thể an nhiên.

(Pháp Thân)

Chính vì không phân biệt, hành giả đạt được tự tại, thong dong của sự thể hiện đạo viên mãn, dứt triệt mọi ranh giới chia cách của nhị biên, điều mà tác giả gọi là tính vô ngại của sự dung hợp viên mãn:

Viên đạo dung thông vạn pháp thành,
Ngã nhân, tâm pháp bất tương tranh.
Đề huề khế hợp Không hòa Sắc,
Tương tức tùy duyên nhiễm hóa thanh.
(Viên Dung Vô Ngại)

Vô ngại là diệu dụng của một quá trình công phu tu tập để thâm nhập thực tại. Chân như bàng bạc khắp thời gian và không gian nằm sâu kín bên trong, lại bao trùm cả vạn pháp hữu vi. Cho nên, sự tùy nghi là một thuộc tính của tự tại giải thoát. Tâm này là Phật, Phật ấy là tâm, gặp duyên là lập tông chỉ, gặp chỗ là làm chủ nhân, đâu cũng là nơi để mình làm người điều ngự, đâu cũng là chân lý, ngay đây là đúng, ngay đây là an lập:

Đương tâm tức Phật, thị tâm thị Phật,
Ngộ duyên tức tông, tùy xứ tác chủ.
Tùy xứ tác chủ, lập xứ giai chân,
Đương xứ tức chân, tùy xứ an lập.

(Danh Ngôn Danh Lý)

Đoạn thơ hùng hồn, mãnh liệt, lại thong dong thoải mái nghe như bản tuyên ngôn về một thái độ sống đạo, tự do và giải thoát tâm linh. Chính trên lập trường này mà hành giả càng lúc càng thấy ra cái ý nghĩa kỳ diệu của chân như tịch tịnh vốn dĩ vô cùng tha thiết thâm trầm, vốn tự bao giờ đã hiện hữu, lừng lựng và từ đó hành giả nhận ra rằng: khổ đau là do sự phân biệt của một cái tâm điên đảo chứ thực tại có làm gì đâu! Hoa nở, chim về, gió thổi, mây bay, trăng sáng, nước trôi thực là nhẹ nhàng, thi vị, đâu có ý nào, đâu có lời nào! Tất cả là những bóng dáng của nhất như, rất tự nhiên, rất cụ thể, lại vô cùng linh diệu:

Nhạn tự vô tâm khứ,
Phong nguyên bất trước lai.

(Thiền Đạo)

hay:

Thủy tại hải trung vô ý thuyết,
Nguyệt lưu thiên thượng bất ngôn trang.
Xuân lai đông khứ uyên nguyên lộ,
Nhạn ngữ hoa ngôn ảo diệu tràng.

(Ngộ Đạo)

Từ đó, niềm vui sống đạo của hành giả trở nên trong sáng, hành giả thể nhập lý Không, tức là tâm cảnh vô phân biệt trong thái độ vô chấp:

Thiền duyệt an tâm lạc cảnh đồng,
Liễu tri vạn sự tất giai không.
Chân linh nhất phiến vong nhân ngã,
Diệu thể vô ngôn tuyệt tổ tông.

(Thiền Duyệt)

Nhưng để có được niềm vui thiền, để có được cái chân linh, thông hội được cái diệu thể của vô ngôn trong lòng cái thế giới hữu vi vô thường (Nhàn khan thế giới tùy duyên hiện) thực không phải dễ dàng. Sư trưởng Như Thanh, gần suốt một đời, với gần 70 hạ lạp đã trăn trở, thao thức, đã nghiền ngẫm Kinh Luận, đã thực hành giới hạnh và thiền định trong nỗ lực tinh tấn liên tục. Quá trình này đã được Sư trưởng bày tỏ qua nhiều pháp ngữ thiền thi:

Học nghiệp tinh thần tự đảm đương,
Thời thời ôn cố trí tư lương.
Thân tâm tĩnh định tri nhân lực,
Trí huệ minh khai ngộ phước hương.
(Cảm Đề)

Bốn câu thơ trên là cả một quyết tâm hạ thủ công phu, thực hành Giới Định Tuệ làm tư lương cho cuộc hành trình tìm về thực tại. Sư trưởng nhấn mạnh đến nguyện, đến hạnh, đến sự xả bỏ tham dục, đến quyết tâm tinh tấn, nuôi dưỡng thần khí: Nguyện thâm, hạnh đại, khí tịnh, thần thanh.

hay:

Ly dục tịch tịnh, đoạn hoặc chứng chân,
Nội thủ công thâm, thần minh khí tịnh.

(Danh Ngôn Danh Lý)

Quá trình tu tập như trên là một kinh nghiệm thâm sâu và cụ thể của Sư trưởng, cũng là pháp ngữ về sự tiến tu cho mọi người, nhất là cho hàng hậu học. Đây là cái công phu mà mỗi người phải thực hiện bằng chính tự mình, xa rời hai cực đoan của sự chạy rông truy tìm chân lý bên ngoài và của sự kiêu mạn xem mình là bậc tu chứng tự tri, để rồi kiếp kiếp phải lang thang qua những đau thương mịt mù trong cuộc mê du vô tận.

Trên đây là những dòng ngẫu cảm qua một số bài thơ trong tập thơ chữ Hán của Sư trưởng Như Thanh. Cái khí vị lưu lại trong tôi ngoài nội dung súc tích của tập thơ là những lời lẽ trang nghiêm thuần hậu, thâm trầm như một tỏ bày tâm sự, tự nhiên tự tại như tiếng nói của mây, nước, đất, trời lại thâm thiết như lời giáo huấn của bậc Tôn sư đầy bi nguyện.

Cao quý, chân thực và đẹp đẽ thay những bài thơ chữ Hán của Sư trưởng Như Thanh!

Trần Tuấn Mẫn
(Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam)

 


Cập nhật: 4-3-2001

Trở về mục "Phật giáo Việt Nam"

Đầu trang