Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
SƯ TRƯỞNG NHƯ THANH: CUỘC ĐỜI và SỰ NGHIỆP
Chùa Huê Lâm

Nhà giáo dục đạo học
Hạnh Phương

Thân phụ là bậc Nho- Y nổi tiếng, lại là người đam mê tham cứu Phật học; thân mẫu là vị hiền nội mẫu mực, lại có tín tâm Phật pháp sâu dày; cô gái Nguyễn Thị Thao sanh ra trong gia đình ấy tự thân đã thọ hưởng một y báo, chánh báo tốt đẹp.

Năm 1932, cô gái ấy 22 tuổi, sớm liễu ngộ tính vô thường của cuộc thế, thân mẫu đã qua đời, cô được thân phụ chấp thuận cho phép xuất gia theo sở nguyện, được Thiền sư Pháp Ấn chùa Phước Tường ban cho pháp danh Hồng Ẩn. Xuất gia ở một trường Hương Ni đầu tiên của miền Nam, gặp thời điểm phong trào chấn hưng Phật giáo được các bực danh Tăng phát khởi trên toàn quốc từ năm 1920, rõ ràng tịnh nhân Hồng Ẩn may mắn có phước quả tốt đẹp: phát Bồ-đề tâm vào thời điểm có nhiều điều kiện để thử thách, tôi luyện ý chí tiến tu cầu học, có nhiều điều kiện để trau giồi, củng cố hạnh nguyện, như về sau được thấy trong thơ của Người:

Hóa thân, nương phước trí,
Hạnh nguyện, lánh mê tà.
Chí độ đời nông nả,
Lòng vì đạo thiết tha.
. . .
Nghịch thuận nào e ngại,
Buồn vui lẫn đậm đà.
Rừng Thiền, khi hóa đạo,
Nẻo hạnh, phút vui ca.
Trong, lạt niềm phi thị,
Ngoài, nuôi chí lợi hòa.
Khó khăn, đời đạo hạnh,
Vui vẻ, bến thiền hà.
(Bồ Tát Hóa Thân – Hoa Đạo)

Quả thật tịnh nhân Hồng Ẩn đã không cô phụ ý chí hạnh nguyện tự thân, nhất là trên phương diện tấn tu cầu học. Sư cô Hồng Ẩn tham học Phật pháp lớp Gia giáo ở chùa Viên Giác (Bến Tre); bôn ba ra tận Huế cùng Sư cô Diệu Không tham học với Thiền sư Mật Hiển. Ra tận Hà Nội, với ý chí cầu học Luật tạng. Để được học Luật, theo đúng qui củ thiền môn, Sư cô cầu thọ Đại giới Tỳ-kheo-ni và được Sư cụ chùa Phúc Loại làm Hòa thượng Đàn đầu, chứng minh cho Sư cô như nguyện. Từ đó Sư cô tham học Tứ Phần Tỳ Kheo Ni Lược Ký, Tỳ Kheo Ni Sao… Lại lên thắng tích Yên Tử tham cứu thiền học. Trên đường trở lại miền Nam, năm 1941, Sư cô Đàm Thanh (Diệu Tánh) 31 tuổi, lại vào Tổ đình Thập Tháp Di Đà (Bình Định) cầu học Lăng Già Tâm Ấn và các kinh văn khác thuộc hệ tư tưởng Đại Thừa với Thiền sư Phước Huệ. Tổng kết cuộc đời của Người, nhà thơ Trụ Vũ đã viết:

Dốc lòng cầu đạo vô sinh,
Bôn ba nẻo Bụt nghe kinh Đại Thừa.

Con đường cầu học với chí tiến thủ đúng như thơ Người, về sau đã bày tỏ:

Đường dài rõ biết người chơn hạnh.
(Thử Thách – Hoa Chánh Giác)

Với ý chí nhẫn nại, với quyết tâm cầu học tư tưởng Đại Thừa, suốt 19 năm trời đăng đẳng, Tỳ-kheo-ni Đàm Thanh đã tích lũy được vốn liếng hành trang, tư lương trí tuệ, hạnh đức kiêm ưu để trở thành nhà mô phạm, pháp khí pháp bảo, có khả năng tư chất nhiếp dẫn hậu lai, truyền thừa Phật chủng:

Lòng chất ngất cao sâu ơn Đức Phật,
Trí quang minh mong mỏi độ quần sanh.
Nẻo dầu xa, đường dẫu tối, quyết đăng trình,
Tương lai đó, đinh ninh luôn mãi đó.

(Tương Lai Ni Giới - Hoa Đạo)

Kể từ năm 1942 (32 tuổi), Tỳ-kheo-ni Đàm Thanh tiên phong đi vào con đường giáo dục đạo học, trước sau như một là nhà mô phạm thân giáo, là nhà giáo dục đạo học trung thành với tư tưởng Đại thừa Phật giáo, luôn đem đến lợi lạc cho mình, cho người trên con đường tìm cầu tuệ giác, liễu sanh thoát tử:

Ra đó vào đây theo bổn nguyện,
Khi lên, lúc xuống vẫn thanh cao.
Hồng trần lửa đỏ từng nung đốt,
Thiên quốc tường quang chẳng ngại lao.
Chí hạnh độ đời đâu thối chuyển,
Nhất tâm vì đạo chẳng xôn xao.
(Hành Bồ Tát Đạo, Tập 1, trang 158)

Sự nghiệp hoằng dương Phật pháp của Sư trưởng Như Thanh, thật ra phải được kể từ năm 1935, khi 25 tuổi, là thời điểm Người đã cùng quý Ni sư Diệu Tấn, Diệu Tịnh, Diệu Thuận, xây dựng ngôi chùa Ni đầu tiên trên đất Sài Gòn–Gia Định, đó là chùa Từ Hóa, về sau đổi lại là chùa Hải Ấn, ở làng Tân Sơn Nhì (Bà Quẹo). Chính mô hình ngôi chùa Ni đầu tiên này là tiền đề cho ý chí quyết tâm xây dựng những ngôi đại tự về sau của Sư trưởng và cả những ngôi trường kiểu mẫu từ Mẫu giáo đến Trung, Tiểu học Kiều Đàm sau này.

Những ngôi chùa mà cả cuộc đời Sư trưởng hoặc kế thừa, hoặc kiến lập, phần lớn đều mang tính cách tu viện với mục đích hẳn hoi là thâu nhận Ni chúng, đào tạo thành những vị chân ni đầy đủ năng lực hoằng dương Phật pháp. Những Ni trường chùa Huê Lâm I quận 11, Chợ Lớn; Dược Sư ở Gò Vấp, Gia Định; Từ Nghiêm quận 10, Sài Gòn đều mang tính cách tu viện đặc thù như thế.

Tính cách đặc thù tu viện trong phong cách tư tưởng giáo dục đạo học của Sư trưởng Như Thanh và các bậc chân ni thạc đức đương thời là đào tạo Ni chúng với mục đích tối hậu: trên báo ân chư Phật, dưới dắt dẫn hóa độ quần mê. Hoàn toàn không có khuynh hướng đào tạo các vị khoa bảng, dù là khoa bảng Phật học. Như về sau sẽ thấy trong bản Cương Lĩnh Đào Tạo Ni Tài do Sư trưởng chủ xướng.

Chỉ xét riêng về mặt cơ sở vật chất, những đạo trường do Sư trưởng và các bậc chân ni đương thời kiến tạo, hoặc do thừa kế rồi chuyển hóa đều trên khuynh hướng tạo thành các Phật học viện Ni với các kế hoạch tự túc kinh tế, Sư trưởng đã hoạch định để duy trì và phát triển ngày càng lớn mạnh. Như thế, đủ thấy Sư trưởng là nhà mô phạm có tầm nhìn sâu xa toàn diện bao quát mọi vấn đề mà các nhà giáo dục có trách nhiệm phải giải quyết và đã giải quyết vấn đề hoàn toàn ổn thỏa tốt đẹp.

Nhìn thấy Ni trường Dược Sư, Phật học Ni viện Từ Nghiêm đã đào tạo hằng trăm Ni chúng, cùng lúc phải nhìn thấy tiệm cơm chay Tịnh Tâm Trai ở 170A Hiền Vương (Võ Thị Sáu, quận 3), Thanh Tâm Trai ở Ngã Bảy, cơ sở sản xuất nước tương Hoa Sen Trắng, các phòng may pháp phục, các phòng phát hành Kinh sách, các cơ sở sản xuất nhang tại chùa Huê Lâm I, Huê Lâm II, Hải Vân…

Chính các cơ sở kinh tế tự túc ấy là một phần thành công lớn trong chủ trương cải chính giáo sản của Sư trưởng. Chính nhờ chủ trương cải chính giáo sản đúng đắn, Sư trưởng đã kiến lập nên những Ni trường để thể hiện triệt để tư tưởng giáo dục đạo học của mình.

Cốt tủy tư tưởng giáo dục đạo học của Sư trưởng Như Thanh đặt trên căn bản chánh tín Tam Bảo, trung thành với tư tưởng Phật giáo Đại thừa, khế hợp lý tưởng tam học Giới Định Tuệ và trên cơ sở nguyên lý duyên khởi - tinh hoa tư tưởng Phật học.

Căn bản tư tưởng lớn lao nhất Sư trưởng Như Thanh trao truyền cho các Ni chúng của mình qua nhiều thế hệ là tuyệt đối chánh tín Tam Bảo:

"Đối với ngôi Tam Bảo rất tôn kính trân trọng, khao khát mong mỏi phi thường, đã bỏ được lòng kiêu căng khinh mạn, lại càng thêm sự tin tưởng." (Giới Đức Kiêm Ưu, trang 15)

Khi đã trọn vẹn đặt niềm tin vào Tam Bảo, chư Ni phải kiên quyết lập chí học Phật:

"Những đức độ hùng mạnh, trinh liệt, tinh tấn, thành khẩn, chính là nêu rõ hạng người biết LẬP CHÍ.

Lập chí ở Đạo Phật, gọi là phát nguyện, chúng ta nên nhận định: Bao nhiêu sự nghiệp vĩ đại và tất cả các bậc vĩ nhân không phải tự nhiên sẵn có mà sự thật đều luyện thành trong tinh thần lập chí, lập nguyện cao cả. Từ trong chí nguyện ấy, sẽ mở rộng cho một cơ hội tiến đạt tới mức thành công rực rỡ. Chẳng những một mình họ được trọn hưởng ân huệ đặc biệt mà tất cả những người đồng chí hướng, đồng bổn nguyện cũng được chung sống vẻ vang. Đã có chí hướng mãnh liệt, ít khi họ bị ngã đổ nửa chừng, mặc dầu sự nghiệp chưa đến lúc đạt thành, chẳng may cuộc đời của họ gặp phải giai đoạn chấm dứt, song chí hạnh của họ cũng vang dội khắp tim phổi của nhân loại, lịch sử sẽ muôn đời ghi tạc danh đức tốt đẹp cao cả ấy." (Giới Đức Kiêm Ưu, trang 38)

 

Sau khi đã khích lệ tinh thần lập chí, lập nguyện kiên cường cho Ni chúng, Sư trưởng chủ trương một căn bản giáo dục đào tạo toàn diện khế hợp lý tưởng tam học Giới- Định- Tuệ:

"Giới học là giềng mối của người Phật tử; Định học là phép tắc điều phục tâm trí; Tuệ học là năng lực bạt trừ nghiệp chướng si ái." (Giới Đức Kiêm Ưu, trang 42)

Căn bản giáo dục đào tạo Ni tài ấy luôn luôn được triển khai triệt để trên cơ sở nguyên lý duyên khởi, tinh hoa nhận thức vũ trụ, nhân sinh quan Phật giáo. Sư trưởng đã có lần phát biểu tư tưởng ấy trong thơ của Người:

Diệu lạc thiền cơ do tịnh cực,
Thức thời chánh trí tự chơn truyền.
(Thành Lập Nam Phương Ni Bộ Cảm Tác)

Và ngay trong bản Cương Lĩnh Đào Tạo Ni Tài Sư trưởng viết:

"Muốn giáo dục Ni tài, trước hết cần phải giảng rõ nguyên lý của Phật pháp. Phật pháp là do Phật chứng minh thiệt tướng của các pháp… Nay muốn giảng rõ nguyên lý của các pháp, chỉ có thể đứng trên mặt duyên khởi tóm lược nêu bày. Nói đến các pháp là chỉ cho mọi sự, mọi vật ở trong vũ trụ này, phạm vi của nó rất rộng lớn. Nói đến duyên khởi, tức là chỉ cho tất cả muôn sự, muôn vật trong vũ trụ đều do nhơn duyên sanh khởi." (Tôn Chỉ Giáo Dục Ni Tài)

Chính trên cơ sở giáo lý Duyên Khởi, Sư trưởng đã khế cơ vận dụng xây dựng, kiến lập những Ni viện lớn nhất của Phật giáo miền Nam Việt Nam và có lẽ cũng là lớn nhất trong lịch sử giáo dục đạo học Phật giáo Việt Nam từ trước đến nay.

 

Sư trưởng Như Thanh cùng với các bậc Danh ni đương thời đã thay mặt Ni giới nhận chùa Dược Sư, chuyển hóa thành Ni trường vào năm 1954, đến năm 1959 thành lập Ni viện Từ Nghiêm… và suốt 50 năm qua, những Ni trường này thực sự đã sản sinh tuệ mạng nhiều vị chân ni chân tu thực học đủ sức gánh vác nhiều Phật sự trọng đại.

Trưởng thành giữa cao trào chấn hưng Phật giáo, không xuất hiện công khai trên mặt báo chí như Sư cụ Diệu Tịnh (1910–1942), Sư cụ Diệu Tấn (1910–1948), Sư trưởng Như Thanh vẫn ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ của Ni giới đối với sự nghiệp chấn hưng Phật giáo. Sư trưởng đã kiên quyết định hình sự nghiệp phụng sự Phật pháp của mình trên phương diện giáo dục đạo học. Và rõ ràng trào lưu tư tưởng đương thời, phong cách và phương thức hành xử của Đại sư Thái Hư ở Hoa Lục tác động lớn lao trên sự nghiệp hoằng dương Phật pháp của Sư trưởng Như Thanh.

Tóm tắt lược sử Đại sư Thái Hư, Sư trưởng Như Thanh đã viết:

"Thái Hư Đại sư là bậc vĩ nhân trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa, mà cũng là vị Đại sư của thời cuộc hiện đại, ánh minh đăng của Ngài soi khắp cả Á, Âu.

Trên thế giới nhân loại, nếu là dân tộc thấm nhuần văn hóa và giáo lý Phật pháp, mọi người đều được hưởng ân huệ trực tiếp hay gián tiếp do Ngài chuyển đạt.

Chí nguyện của Ngài chỉ mong đem cả thân tâm trải làm đất tốt để cho bao giống lành mọc lên. Vì thế, mặc dầu gian lao nguy hiểm, Ngài vẫn không nao lòng thối dạ. Đến đỗi chính mình Ngài lăn lóc trong con đường gươm súng để cứu độ trần gian thoát qua cơn đen tối."

(Tư liệu đánh máy lưu trữ tại Tổ đình Huê Lâm)

Đọc những dòng Sư trưởng viết cách đây 40 năm được trích dẫn trên đây, chúng ta rất dễ thấy đó chính là khát vọng cháy bỏng trong tâm tư thuở ấy của Sư trưởng Như Thanh và chính phương thức hành xử của Đại sư Thái Hư cũng là mô hình phương thức hành xử của Sư trưởng Như Thanh, đặc biệt trên phương diện giáo dục đạo học.

Khi nói lên phạm hạnh cao quý của bậc Tăng-già, Sư trưởng đã bày tỏ tư tưởng của mình, một văn phong thật hùng hồn trác tuyệt mà ai cũng có thể nhận ra đó chính là nhân cách, phong thái cuộc đời của Sư trưởng Như Thanh:

"Phẩm hạnh cao quý của Tăng-già là do công phu tu dưỡng gồm đủ sự lý, đối với tất cả chúng sanh tìm đủ các chước phương tiện làm lợi ích cho mọi người: như khát thì cho nước uống, đói cho cơm ăn, bệnh cho thuốc uống, lạnh cho áo mặc, gặp sợ sệt giúp đỡ an ủi hết sợ sệt, thiếu trí tuệ giúp đỡ mong cho tâm trí trở nên sáng suốt, cho đến bỏ mình cho cọp đói được ăn cũng gọi là đức hỷ xả bố thí. Trong hoàn cảnh nhịn khổ chịu nhọc, trăm phen bẻ gãy mà lòng vẫn dai bền, việc khó nhọc cố gắng tập học, việc khó làm cố gắng siêng làm. Dẫu có người nào khuấy rối, dằn ép cũng chẳng căm tức giận hờn, hình dung vẫn tự nhiên chẳng tác sắc nóng nảy bứt rứt." (Giới Đức Kiêm Ưu, trang 13)

Và với nhân cách của bậc chơn tu, Sư trưởng dấn thân vào con đường thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.

Như trên đã nói, tư tưởng Đại sư Thái Hư tác động rất mãnh liệt lên sự nghiệp giáo dục đạo học của Sư trưởng Như Thanh. Chẳng hạn như vấn đề cải chính giáo lý.

Giáo lý Phật-đà tự thân là chơn lý vượt thoát mọi chiều kích không gian, thời gian. Tuy nhiên, cốt tủy chơn lý ấy đã được Đức Phật tuyên thuyết bằng tiếng nói của thời đại cách đây hơn 2500 năm và cụ thể ở lưu vực Ấn Độ cổ đại. Để làm sống động được Phật chất những chân lý ấy cho con người sanh ra sau 2500 năm Thế Tôn Niết-bàn, nó phải được nhìn thấy bằng đôi mắt của con người 2500 năm sau, nó phải được diễn đạt bằng ngôn ngữ đương đại của con người 2500 năm sau. Có như thế, những chơn lý Phật chất mới thực sự trở thành dòng máu ấm lưu nhuận trong trái tim của con người đương đại. Đó là ý nghĩa chân xác của chủ trương cải chính giáo lý.

Điểm cần nhấn mạnh, cải chính ở đây hoàn toàn không có nghĩa sửa sai mà chính là làm thích ứng để suối nguồn giáo lý Phật giáo không bao giờ cổ hủ lạc hậu. Cải chính giáo lý tức là nhìn lại phương thức hành xử sao cho tinh túy giáo lý Phật-đà tuôn chảy giữa lòng thời đại. Nghĩa là khế cơ để luôn luôn khế lý, tùy duyên mà bất biến, bất biến mà vẫn tùy duyên.

Có những phương thức hành xử thời kỳ Đức Phật tại thế là khế cơ, như cho phép hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni được phép ăn cá thịt. Sự cho phép ấy có ghi vào Luật Tứ Phần Giới Bổn hẳn hoi. Vì thời đại ấy, sinh hoạt Tăng đoàn Phật giáo nguyên thủy tùy thuộc vào việc khất thực hằng ngày. Đến gần bữa ăn trưa, chư Tăng mới đi khất thực, tín thí đàn-na sớt bữa ăn của mình cúng dường chư Tăng Ni. Do đó chư Tăng Ni khất thực được gì ăn nấy, không đặt thành vấn đề chay mặn.

Đến thời kỳ Phật giáo Đại thừa vấn đề đã hoàn toàn khác. Tuy có ghi vào văn bản Giới luật giáo pháp nhưng vấn đề được hay không được ăn cá thịt không còn là vấn đề được thảo luận minh chính. Vì đến thời kỳ Phật giáo Đại thừa thì đã cấm tuyệt chư Tăng Ni không ăn mọi thứ cá thịt, kể cả những người nhỏ tuổi có căn tánh, sớm có duyên lành xuất gia. Theo Phật giáo Đại thừa, ý thức ăn thịt là phản Phật tính, là phi từ bi. Như Trí Quang thượng nhân đã nói: "Ngày nay, nói Phật giáo là nói ăn chay. Ăn cá thịt trở thành lạ lùng, khó nghe và khó coi."(1)

Như thế, phương thức hành xử cho phép người xuất gia được ăn cá thịt hay không đã triệt để được cải chính, ở Trung Hoa từ thời Lương Vũ Đế, ở Việt Nam từ thời chấn hưng Phật giáo. Vấn đề ấy, đương thời Phật giáo Đại thừa Việt Nam không còn là vấn đề giáo lý phải cải chính.

Một thí dụ khác, ngày nay Phật giáo phát triển và có mặt hầu như khắp các nước trên toàn cầu. Tuy nhiên, vẫn còn đó sự kiện không có Ni chúng ở các nước thuộc hệ phái Thèravada (Thượng Tọa Bộ), Ni chúng ở các nước Phật giáo phát triển (Đại Thừa) dường như có chút mặc cảm khi phải nhận thêm pháp Bát kỉnh đối với Tăng giới. Một vấn đề khúc mắc được đặt ra: phải chăng có hiện tượng thiếu bình đẳng giữa nam giới và nữ giới trong hệ thống Tăng đoàn Phật giáo?

Vấn đề ấy, trong tầm nhìn của Sư trưởng Như Thanh, bậc thức giả, nhà giáo dục đạo học, lại được minh chính rất triệt để.

Khi đề cập đến sự kiện lịch sử Đức Phật không vội vàng hứa khả cho nữ giới xuất gia, Sư trưởng đã có một cái nhìn rất chuẩn xác:

"… Vì trách nhiệm của người xuất gia rất nặng nề khó nhọc, mà phạm hạnh cũng khó thực hành. Bởi thế, Phật không hứa cho người nữ đi xuất gia một cách dễ dàng… Đây là bổn ý của Phật muốn mở rộng con đường hóa đạo cho tất cả người nữ sau này. Bởi sự giáo dục của người nữ thời ấy chưa được phát triển, nên họ ở trong thế gian bị nhiều sự chướng ngại buộc ràng làm cho tâm tính không được sáng tỏ, ý chí không được sâu rộng. Đức Phật vì muốn cho các hàng Tỳ-kheo-ni chứng đến các pháp thiệt tánh mà Ngài đem TÂM BÌNH ĐẲNG phương tiện dẫn dắt, khiến cho mỗi người đều được tăng trưởng thiện báo, tiêu trừ ác nghiệp, sửa đổi phong hóa ở thế gian trở nên tốt đẹp. Hàng Tỳ-kheo-ni ở trong chánh pháp của Phật, gặp được cơ hội mở mang, truyền bá làm cho ánh sáng Phật pháp được chói rạng, tạo nên công đức vô lượng!" (Trách Nhiệm Tỳ Kheo Ni đối với Tôn Chỉ Giáo Dục Ni Tài)

Đúng là một cái nhìn đượm tính chất triết lý Đông phương, đượm bản chất giao lưu văn hóa của tinh thần dân tộc Việt Nam. Chỉ với một bậc Chân ni, chân tu thật chứng mới nhìn thấy sự kiện lịch sử một cách minh triết như thế. Một thái độ xác quyết minh chính hoàn toàn không có chút tự ti mặc cảm nữ giới.

Những bài học giáo lý được minh chính không phải chỉ có giá trị cho bản thân thời đại của Sư trưởng mà còn mãi có giá trị cho những bối cảnh phát triển văn hóa Phật giáo cả ở tương lai.

Những tư tưởng giáo lý được minh chính qua trí tuệ thân chứng của một Tỳ-kheo-ni, trong bối cảnh chấn hưng Phật giáo - thời kỳ Ni giới chưa phát triển như Sư trưởng đã làm, là một thái độ quả cảm, táo bạo, quyết liệt, chứng tỏ đạo tâm, dũng khí của Sư trưởng đầy phẩm chất tuệ giác.

Đây là bài học lịch sử, Sư trưởng muốn trao truyền cho mai hậu.

Thật là một lời nhắn nhủ ân cần, đầy hào khí khi luận bàn về hạnh tích Tỳ-kheo-ni Tịnh Kiểm, chùa Trúc Lâm đời nhà Tấn, Trung Quốc, Sư trưởng đã viết những dòng sau đây như một khuyến cáo, cảnh sách gởi cho các thế hệ Ni giới tương lai:

"Một người nào, bất luận nam hay nữ, nếu đã có huệ trí, lại biết nghiêm trì Giới luật, có hành động ‘Tự hành hóa tha’, có chí hướng cao cả thì chắc chắn người ấy phải được thành công trên bước đường tu hành của mình." (1)

Chủ trương minh chính giáo lý chỉ là một khía cạnh trong toàn bộ sự nghiệp hoằng dương Phật pháp, giáo dục đạo học của Sư trưởng. Khát vọng đào tạo Ni tài chân tu thực học mới thực sự là toàn bộ sự nghiệp hoằng dương đạo pháp của Người.

Đề Cương Tôn Chỉ Giáo Dục Ni Tài trình bày tại Phật học Ni viện Từ Nghiêm (Sài Gòn), ngày 04- 4- 1970, Đôi Lời Tâm Huyết Gởi đến Chư Học Ni Phật Học Ni Viện Từ Nghiêm, Sư trưởng cho thấy khát vọng và tâm huyết của mình:

"Người xuất gia phải đặt nhiệm vụ của mình trong công phu chơn tu thật học.

Điều khẩn yếu hơn trong trách nhiệm của Tỳ-kheo-ni, cần nhất là Giới hạnh.

Đã gọi Phật học Ni viện, tự nhiên cần phải lấy Phật học làm trọng yếu."

Với thao thức khát vọng cháy bỏng tâm tư như thế, Sư trưởng chủ trương nhất thiết phải kiến lập Phật học Ni viện để thực hiện tư tưởng giáo dục của mình.

Suốt cuộc đời hành đạo, ý nghĩ kiến lập một am cốc, một tịnh thất, một tự viện để tu tâm dưỡng tánh, hoàn toàn không có trong tâm niệm của Sư trưởng.

Thời kỳ Chấn hưng Phật giáo, Ni giới còn ít ỏi, chùa chiền còn thưa thớt, chưa có những đạo tràng to lớn, phong trào học Phật chưa sâu rộng, đến trụ chùa nào, Sư trưởng cũng quy tụ Ni chúng và biến ngay chùa ấy thành những đạo tràng học Phật như lớp dạy Luật ở chùa Hội Sơn 1942 (Thủ Đức), Phật học Ni viện Huê Lâm 1947 (Chợ Lớn), lớp dạy Phật pháp năm 1948 ở chùa Linh Sơn (Quận 8), Giác Thiên (Vĩnh Long), Tân Hiệp (Mỹ Tho). Khi đã đạt thành quả lớn lao trong việc thành lập Ni Bộ Nam Việt (1956) là thời kỳ Phật giáo đã phát triển sâu rộng, con số Ni giới đã phát triển khá cao, được Giáo hội Tăng Già Nam Việt giao trách nhiệm quản lý chùa Dược Sư, Sư trưởng thực hiện ngay việc kiến lập ở chùa Dược Sư một Ni trường. Đến năm 1959, để đáp ứng nhu cầu tu học của đông đảo Ni chúng, Sư trưởng Như Thanh đã cùng chư Ni thạc đức kiến lập chùa Từ Nghiêm (Quận 10), vừa làm ngôi Tổ đình Ni giới, làm trụ sở Ni Bộ Nam Việt và quan trọng hơn là làm Phật học Ni viện quy mô mẫu mực, thể hiện đúng khát vọng đào tạo Ni tài cho Giáo hội, đáp ứng nhu cầu thời đại đang đòi hỏi.

Tổng kết thời kỳ này, Nguyễn Lang, tác giả Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 3, đã dành cho chư vị Tôn Đức Ni trong đó có Sư trưởng Như Thanh những dòng rất trân trọng:

"Trong số những vị Ni sư đầu tiên được xem là các danh Ni, ta có thể kể các Ni sư Diệu Tánh*, Diệu Tịnh, Diệu Tấn, Diệu Ninh, Diệu Kim và Hồng Chí." (1)

Xét riêng về tài năng quán xuyến, vận hành, kiến lập những Phật học Ni viện lớn lao, tồn tại đến ngày nay của Sư trưởng, cũng đã thực xứng với cụm mỹ từ KỲ TÚC NI TRƯỞNG mà Hòa thượng Đổng Minh đã dùng để tán dương nhân cách Sư trưởng trong bài viết "Vài Mảng Chuyện Nhỏ về Kỳ Túc Ni Trưởng Thích Như Thanh" của mình. (Xem trang 122)

Khát vọng kiến lập Phật học Ni viện đào tạo Ni tài dù đã đạt được những thành tựu lớn lao, vẫn chưa thỏa mãn đại tâm phụng sự Phật pháp của Sư trưởng.

Vượt qua nhiều trở lực khách quan và chủ quan, năm 1983, Sư trưởng lại xây dựng hoàn thành Huê Lâm II, làm nơi tu học cho Ni chúng. Thời gian gần đây, Sư trưởng đã trích dịch và cho đăng trên báo Giác Ngộ (số 28, 29, 31, 32, 33 năm 1992) loạt bài Làm Cách Nào để Hoằng Dương Phật Pháp của Nhan Phụng Lan. Trong đó có bài Sự Nghiệp Giáo Dục, Sự Nghiệp Văn Hóa mà chắc chắn Sư trưởng Như Thanh rất tâm đắc. Nhất là với chủ trương mấu chốt ba điểm căn bản tác giả Nhan Phụng Lan cổ xúy:

1- Lập trường Phật học cơ bản để dạy Phật pháp từng thời kỳ ngắn.

2- Mở lớp học giáo lý trong mùa An cư kiết hạ.

3- Dựng lập Phật học viện trường kỳ, phân ra các bậc Cao, Trung và Sơ cấp.

Rõ ràng quan điểm của Nhan Phụng Lan, chính là hoài bão trọn đời của Sư trưởng Như Thanh.

Tư tưởng giáo dục chủ đạo của Sư trưởng Như Thanh là chủ trương cho Ni chúng tu học song hành, nội ngoại điển tương thông, Văn Tư Tu tương nhiếp mới toàn vẹn khả năng tấn tu đạo nghiệp, hoằng truyền nhiếp hóa.

 

TU HỌC SONG HÀNH

Nhận thức quá trình lịch sử Phật giáo, Sư trưởng Như Thanh đã viết:

"Trải qua bao nhiêu thăng trầm trong suốt thời gian hơn 2500 năm, Phật giáo sở dĩ tồn tại đến ngày nay, đấy là vì ĐẠO đã đi sâu vào cuộc đời. Đạo không phải là một hệ thống triết lý suông để bàn bạc, tranh luận. Trái lại, Đạo đã sống cùng con người trong mỗi suy tư, mỗi hành động. Đạo là một sự thể nghiệm chân thật, đậm đà. Những tấm gương sáng ngời của các vị Thiền sư, những cuộc đời thanh thoát của các bậc chơn tu thật học là những điển hình về sự thể nghiệm Đạo mầu."(1)

Vì thế, tư tưởng chỉ đạo trước tiên của Sư trưởng Như Thanh trong sự nghiệp giáo dục là Học đi đôi với Hành (Học hạnh tinh nghiêm), học và tu từng bước đan kết vào nhau.

Sư trưởng từng thiết tha giáo huấn Ni chúng:

"Là người đã xuất gia thọ giới, lẽ dĩ nhiên là phải lập chí trong sạch, cao sáng như sen đẹp gần bùn. Các mùi vị thơm ngọt của đời như lợi danh, tình ái, chúng ta không lánh xa nhưng không để bợn dính." (Tài liệu lưu trữ tại Tổ đình Huê Lâm)

Và khích lệ nhắn nhủ, kể cả hàng cư sĩ tại gia:

Con như sen chẳng dính bụi trần.
(Phẩm Chất Người Con Phật, trang 55)
Con nên biết: trần duyên là nợ,
Vậy lòng con ghi nhớ không thôi.
Bao chúng sanh chìm ngập luân hồi,
Đau xót cảnh nổi trôi buồn thảm.
(Nếu Con - Bài 1)
Nói năng, đi đứng đều bi nguyện,
Tụng, đọc, ăn, làm thảy độ sanh.
(Ngụ Đề – Hoa Đạo)

Tư tưởng tu học song hành, cốt tủy giáo dục đạo học của Sư trưởng Như Thanh chủ trương cho Ni chúng học tập giáo pháp, phát tâm Bồ-đề, chánh tín Tam Bảo, tấn tu đạo nghiệp và hoằng dương Phật pháp.

"Người học Phật có bổn phận làm tất cả. Những công tác dù nhỏ dù lớn đều phải tiến hành mới đầy đủ tư cách một học Ni ở trong đoàn thể Tăng-già, có nhiệm vụ gánh vác chánh pháp, mới có đủ công năng đem Phật pháp tuyên dương trong đời." (Tài liệu lưu trữ tại Tổ đình Huê Lâm)

"Dấy tâm động niệm, đi đứng nói năng, làm lụng nghỉ ngơi, phải căn cứ theo luật nghi làm căn bản tu học." (Giới Đức Kiêm Ưu, trang 18)

Tư tưởng này bàng bạc trong thơ của Người:

Thánh trí, phàm tình tự đổi thay,
Công năng tu dưỡng có dư ngày.
Trở về chánh niệm trong giây phút,
Đạt đạo, minh tâm thẳng tiến ngay.(1)

"Người học Đạo, sau khi thông suốt yếu chỉ Kinh điển, tức là đã ngộ được phần Lý tánh rồi thì phải kịp thời bước vào giai đoạn hành đạo, tu tập theo Sự tướng để cho Sự Lý được viên dung, tri hành được hợp nhất… Sự học như thế mới có lợi ích thiết thực. Nếu mải mê trên lý thuyết suông mà chẳng thực hành thì không bao giờ được hưởng quả vị tu chứng và chẳng thể nào đắc đạo. Vì vậy, học phải đi đôi với hành." (2)

Dựa trên quan điểm Phật pháp bất ly thế gian pháp, Sư trưởng Như Thanh còn chủ trương cho Ni chúng học Phật học và thế học tương thông:

"Nếu muốn đem Phật pháp truyền bá ở thế gian, khiến cho tất cả mọi người biết rõ Phật học là một học thuật có một không hai trên thế gian, cũng cần phải biết rõ tất cả học thuật trong thế gian, mới nhơn thế lực đó để dắt dẫn họ vào trong Phật học." (1)

Để phổ cập tư tưởng ấy, Người đã đưa nó vào thơ:

Nếu con thấu lẽ mầu minh triết,
Thì con nên quán triệt đạo đời.
Lẽ huyền vi hiện khắp nơi nơi,
Trí Vô lậu không lời phô diễn.

(Nếu Con – Bài 9)

Quy trình đào tạo Ni tài theo quan điểm của Sư trưởng Như Thanh là: "Cần phải biết Tăng-già có sự đoàn kết rất đặc biệt, hòa hợp cũng đặc biệt, cho đến sự huấn luyện cũng đặc biệt và tác dụng cũng đặc biệt." (Giới Đức Kiêm Ưu, trang 19)

Vì thế, Sư trưởng đã đưa ra một quy trình gồm NĂM BƯỚC CƠ BẢN đặt trên nền tảng Luật nghi để đào tạo:

1. Y theo giáo điển nghiên cứu học Phật, cụ thể là nương vào Kinh tạng.

Nên nghiên tầm cho thấu chơn kinh,
Giòng trí huệ tâm linh phát hiện.
(Nếu Con - Bài 1)

2. Hiểu rõ lý nghĩa các phái Đại Thừa, Tiểu Thừa.

Nhưng nghĩa lý hiện bày Kinh điển,
Pháp Đại Thừa u hiển nghiệm xem.
(Nếu Con - Bài 9)

3. Phải tu hành, y theo phương pháp Phật dạy trau giồi tư tưởng, hành vi thuận hợp Phật lý.

Con thử nghĩ con là Phật sống,
Phải làm sao hóa mộng thành chơn.
(Nếu Con - Bài 2)

4. Cầu chứng: Mục đích tối hậu của người học Phật là cầu chứng đắc các quả vị bậc Hiền, bậc Thánh và sau rốt là quả vị Phật.

Gương Bồ-tát soi lòng cho rạng,
Hạnh Như Lai tỏa sáng đời ta.
Như bùn đen nở rộ liên hoa,
Như trăng chiếu soi nhà tự tại.
(Nếu Con - Bài 3)
Hạnh lành con sáng tỏ làu làu,
Đường làm Phật con mau bước tới.
(Nếu Con - Bài 5)

5. Kiến lập Phật giáo: Thành tựu công đức tu học lớn lao nhất là đem lý tưởng Phật giáo phụng sự chúng sanh. Cụ thể nhất đối với Ni giới là kiến lập Phật học Ni viện để đào tạo Ni tài nhiệt tâm tu học, phụng sự Phật pháp.

Này con hỡi, tĩnh tâm cứu hộ!
Cứu đời ta thêm độ bao người.
Vượt ra ngoài bể khổ chơi vơi,
Thẳng đến chốn thảnh thơi tự tại.
(Nếu Con - Bài 4)

Quy trình năm bước Sư trưởng thực hiện, rõ ràng là một chu kỳ giáo dục đạo học diệu dụng.

Quy trình BỒI DƯỠNG TĂNG CÁCH, Sư trưởng cũng đưa ra năm bước tuần tự tiến hành.

Đáng chú ý ở điểm Sư trưởng chủ trương Tăng Ni sinh tối thiểu phải tốt nghiệp Trung học phổ thông. Sau khi thọ Tỳ-kheo giới, tối thiểu tôi luyện nội điển năm năm. Đặc biệt chú trọng độc cư tịnh hạnh từ ba đến mười năm cầu thân chứng. Và sau hết vẫn là phải vào đời hoằng pháp lợi sanh "Coi việc hoằng truyền Chánh pháp như lo chăm sóc gia đình." (Giới Đức Kiêm Ưu, trang 26).

Là bậc chân Ni bạch tịnh xuất gia, tự thân Sư trưởng về mặt giới hạnh là đài gương vằng vặc cho Ni giới. Sư trưởng tâm niệm, ý thức rằng: "Chánh giới của Phật là viên ngọc quý, cần phải có người truyền trao, giáo pháp mới được trân trọng cao quyquot; (Giới Đức Kiêm Ưu, trang 8)

Với ý thức minh chính giáo chế để đào tạo Ni tài, ngay từ năm 1959, Sư trưởng đã mạnh dạn tuyên bố: "Tăng chế cũng phải căn cứ theo thời đại mà biến đổi cho hạp thời thế nhân tâm, không cần phải câu chấp theo Tăng chế thuở xưa." (1)

Sư trưởng dõng dạc, hùng hồn tuyên ngôn như thế, đồng thời cấp bách xây dựng ý chí thiết thực hợp thời để làm sáng tỏ Tăng hạnh. Căn cứ trên Giới luật chánh truyền, Sư trưởng kiến lập hoàn chỉnh một hệ thống Giới luật dưới hình thức những nội quy, quy chế, điều lệ… để đào tạo Ni tài. Ngoài tính chất khế lý tất yếu, hệ thống Giới luật Tăng chế tinh nghiêm do Sư trưởng Như Thanh kiến lập mang rõ tính tập thể, đặc biệt áp dụng cho hệ thống Phật học Ni viện.

- Nội Quy Đạo Tràng 18 Điều Quy Chế, là một hệ thống kỷ luật nghiêm khắc để tôi luyện Tăng Ni sinh, tạo nên một hàng ngũ Ni chúng nghiêm trang, đạo hạnh trong một đạo tràng, trú xứ thanh tịnh.

- Nội Quy trong và ngoài Liêu(2) 17 Điều, là hệ thống quy luật nhằm mục đích điều chỉnh trang nghiêm sinh hoạt tâm sinh lý hằng ngày của cá thể đối với một thành phần Ni chúng nhỏ trực tiếp thân cận nhau hằng ngày.

- Kỷ Luật Đạo Tràng 9 Điều Quy Chế, là những quy chế nghiêm túc tạo nên những con người đẹp, trong một đoàn thể Tăng-già tốt đẹp, đang An cư kiết hạ tinh nghiêm.

- Kiết Hạ An Cư Thị Chúng 18 Điều Quy Ước, nhằm mục đích sách tấn Đại chúng cùng nhau tu học, không để ngày tháng luống qua oan uổng.

- 20 Điều Bất Cộng Trụ: là một hệ thống quy ước từ hạn chế đến cấm tuyệt Ni sinh, Ni chúng giới hạnh đoan nghiêm tiếp xúc với những thành phần bất hảo đã vi phạm những quy luật phạm hạnh mà chưa chịu ăn năn, hối cải và sám hối trước Đại chúng.

- Pháp Hạnh của Người Xuất Gia 30 Điều Quy Tắc thiết yếu tạo nên phong cách xuất trần Thượng sĩ của bậc xuất gia trên đường thể hiện ý chí tầm cầu giác ngộ.

- 17 Điều Oai Nghi của Người Xuất Gia tạo nên phong thái trang nghiêm trong mỗi hành vi, cử chỉ của người xuất gia.

- Sau hết là 10 điều tâm niệm của Ni học chúng các Phật học viện, tự viện. Dù không được nâng lên ngang tầm quy điều, giới luật, nhưng nội dung cũng là những tư tưởng sách tấn học Ni tiến tu đạo nghiệp.

Hệ thống Giới luật 348 giới điều trong Tứ Phần Giới Bổn, cộng với 129 điều quy chế và 10 điều tâm niệm do Sư trưởng Như Thanh kiến lập, Ni giới Phật giáo Việt Nam rõ ràng mãn nguyện có một hệ thống Giới luật tinh nghiêm cần tuân thủ trên con đường tu học của mình.

Suốt cả một đời giới hạnh tinh nghiêm, Sư trưởng Như Thanh đã tự thân giáo, kiến lập, đúc kết nên một hệ thống Giới luật hoàn hảo, thiết tưởng hệ thống ấy cần được phát huy, quảng bá, duy trì, truyền thừa trong các Phật học Ni viện, trong Ni giới các thế hệ tương lai của Phật giáo Việt Nam.

Thiết tưởng không còn lời kêu gọi, sách tấn nào hùng hồn, khí khái hơn lời kêu gọi, sách tấn nầy của Sư trưởng Như Thanh:

"Chính các học chúng Ni là những anh tài đắc lực, tự mình phải đem sức sống động dồi dào, để cứu đời lợi chúng, để khôi phục tinh thần mộ đạo của dân chúng, đi sâu vào nội tâm của dân chúng để chỉ bày tánh Phật cho toàn dân đều trở nên vị Phật sống hiện tại." (Giới Đức Kiêm Ưu, trang 20)

Và thực không còn điều tâm niệm nào cao cả hơn điều tâm niệm thứ 10 mà bản thân Sư trưởng Như Thanh đã đề xuất:

"Con phải tự xem mình ví như Đức Phật sống, thân tâm không nghĩ, không làm điều gì phi pháp, trái đạo mà mỗi giờ, mỗi khắc đều nghĩ và làm những việc cứu tế chúng sanh, phát triển đạo pháp." (Giới Đức Kiêm Ưu, trang 110)

Đề cập đến sự nghiệp giáo dục của Sư trưởng Như Thanh, thiết tưởng sẽ rất thiếu sót khi không đề cập đến những đóng góp lớn lao của Sư trưởng trong vai trò sứ mạng của bậc xuất gia đối với hàng cư sĩ tại gia.

Nhân Đại lễ khánh thành chùa Huê Lâm, PL.2514 – DL.1970, với bút danh Chơn Tịnh, Sư trưởng Như Thanh ấn hành cuốn Cẩm Nang của Người Phật Tử, làm món quà tặng trân quý gởi đến hàng Phật tử tại gia. Đó là một cuốn sách được biên soạn gồm thâu những tinh hoa tư tưởng Phật học từ trên rất nhiều kinh điển dùng làm kim chỉ nam tu học hằng ngày cho giới cư sĩ tại gia.

Sư trưởng nhận thấy người cư sĩ tại gia học Phật có phần khó khăn hơn người xuất gia, nên đem lòng từ bi lân mẫn của bậc xuất trần thương yêu nhắn nhủ:

"Người Phật tử tức là người biết quý trọng công phu tu dưỡng và thực hành hạnh lợi tha không bờ bến. Nhờ đó Đạo quả được viên thành, mà danh dự được sáng chói rực rỡ muôn thu." (1)

Sư trưởng luôn vận dụng thi ca để đưa nguồn tư tưởng ấy thẩm thấu vào lòng người học Phật:

Con phải khéo cảm thông sự việc,
Cho lòng con rõ biết đó đây.
Việc nào con phải dựng xây,
Việc nào con phải quên khuây nhẹ nhàng.
(Con ơi - Bài 1)

Thi tập Phẩm Chất Người Con Phật, Cẩm Nang của Người Phật Tử và một phần rất lớn trong Lược Giải Kinh Hoa Nghiêm – Hành Bồ Tát Đạo là những tác phẩm trân quý, Sư trưởng Như Thanh ưu ái dành cho hàng ngũ cư sĩ tại gia.

Có thể tổng kết sự nghiệp giáo dục đạo học của Sư trưởng Như Thanh gồm các điểm sau đây:

1. Từ bản nguyện nguyên sơ đã phát đại Bồ-đề tâm, Sư trưởng trọn đời đã sống vì mục tiêu giải thoát giác ngộ cho mình và cho người. Suốt quãng đời hành đạo, hiện hữu của Sư trưởng luôn là hiện hữu của thân giáo, khẩu giáo, ý giáo của một nhà giáo dục đạo học, gắn bó hữu cơ giữa phạm hạnh chân tu và tinh cần thật học, tấn đạo nghiêm thân, trang nghiêm giới thể, phổ độ quần mê. Tư tưởng giáo dục đạo học của Sư trưởng đặt trên cơ sở tam học Giới Định Tuệ là tư tưởng giáo dục đào tạo con người hoàn thiện, toàn diện, nghĩa là con người phải đạt được mục tiêu giải thoát giác ngộ, cứu cánh Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của cảnh giới Niết-bàn.

2. Thể hiện tư tưởng giáo dục đạo học toàn diện ấy, nhất là đối với Ni giới, là định hướng đào tạo Ni tài chơn tu thật học. Sư trưởng đã cùng các bậc Danh ni đương thời kiến lập các Phật học Ni viện đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, sánh vai với các Phật học Tăng viện vốn có nhiều ưu thế. Các Phật học Ni viện do Sư trưởng kiến lập đến nay vẫn tồn tại như những khuôn mẫu định hình cho sự nghiệp giáo dục đào tạo chân ni thật đức trong cả hiện tại và tương lai. Các Phật học Ni viện do Sư trưởng kiến lập mang tính cải chính giáo sản như tư tưởng Đại sư Thái Hư tác động ảnh hưởng.

3. Kiến lập một hệ thống quy luật trên nền tảng Giới luật căn bản, mang tính bổ sung nhằm mục đích đào tạo Ni giới chân tu thật học. Sư trưởng đã thể hiện trọn vẹn nhân cách thân giáo và trọng trách của nhà giáo dục đạo học trung thành tuyệt đối với lý tưởng Phật giáo Đại thừa. Chính sự nghiệp giáo dục ấy đã sản sinh tuệ mạng cho nhiều lớp Ni chúng Phật giáo Việt Nam đầy đủ công năng đạo nghiệp, hoằng dương Phật pháp.

Thành tựu đạo nghiệp giáo dục của Sư trưởng Như Thanh mãi mãi là khuôn mẫu định hình một phong cách giáo dục đạo học toàn diện của Phật giáo Đại thừa, mãi mãi là tấm gương sáng khích lệ những ai khát vọng tiếp nối sự nghiệp giáo dục đào tạo Ni tài nhằm mục đích tối thượng duy nhất là thành tựu đạo nghiệp và dấn thân hoằng truyền Phật đạo.

Luôn giữ hạnh thơm thanh tươi sáng,
Luôn trau giồi cho rạng tâm linh.
Cốt sao bền vững đức tin,
Cốt sao hạnh nguyện trung trinh một niềm."
(Trải Thân Hành Đạo – Hành Bồ Tát Đạo)

Những câu thơ Sư trưởng viết trong Hành Bồ Tát Đạo, tác phẩm Lược Giải Kinh Hoa Nghiêm, nêu cao hơn nữa tấm gương sáng ngời của bản thân Sư trưởng, luôn luôn là lời cảnh tỉnh của nhà giáo dục đạo học chơn chính nhắn nhủ các thế hệ Ni giới và Phật tử cả trong hiện tại lẫn tương lai.

Tự thân phạm hạnh thân giáo của Sư trưởng đã để lại một nhân cách rạng rỡ như chính đường hướng tư tưởng, sự nghiệp giáo dục đạo học của Sư trưởng. Đúng như những câu thơ hùng hồn, chuẩn xác mang tính tư liệu lịch sử mà nhà thơ Trụ Vũ đã viết về Người:

"Thân nhi nữ, chí anh hùng,
Một đời, một niệm trùng hưng đạo mầu."

và:

"Một đời hoằng pháp độ sanh,
Một thân treo tấm gương lành oai nghi."
(Như Thanh Sư trưởng Lược Sử Thi, Trụ Vũ)
 
Nhân mùa Báo Hiếu Vu Lan PL. 2542.
Xuân Lộc, ngày 24- 8- 1998.
Hạnh Phương

 


Cập nhật: 4-3-2001

Trở về mục "Phật giáo Việt Nam"

Đầu trang