Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
SƯ TRƯỞNG NHƯ THANH: CUỘC ĐỜI và SỰ NGHIỆP
Chùa Huê Lâm

Sư trưởng Như Thanh tài đức tuyệt vời
Võ Đình Cường

Trên trào lưu thế giới cũng như trong nước, trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, nữ lưu đã thể hiện được bản lĩnh và tài năng không thua kém gì nam giới, đôi khi còn vượt trội hơn.

Trong hàng ngũ Ni giới Phật giáo, hơn 60 năm qua đã xuất hiện một vị Ni tài uyên thâm nội điển cũng như ngoại điển, có tài tổ chức và lãnh đạo. Đó chính là Sư trưởng Như Thanh khả kính. Nhờ tài đức của Sư trưởng, Ni bộ thuộc Phật giáo Việt Nam mới có một nền móng vững chắc và quy mô như ngày hôm nay.

Sư trưởng Như Thanh là người chính gốc Nam bộ, xuất thân trong một gia đình khoa bảng, có địa vị cao trong xã hội, đặc biệt là một gia đình có truyền thống tin theo chánh pháp lâu đời. Đây là thuận duyên tạo cho Sư trưởng phát nguyện xuất gia hành đạo. Phải chăng nhờ hun đúc truyền thống gia đình cũng như tính chất người Nam bộ, nơi có những bước đột phá trong công cuộc phục hưng Phật giáo nước nhà, trước cả miền Trung và miền Bắc, mà từ lúc còn trẻ, Sư trưởng đã thể hiện một ý chí mạnh mẽ, một quyết tâm cao trên bước đường phụng sự và xiển dương chánh pháp.

Vào năm 1932, lúc Sư trưởng 22 tuổi, được phụ thân chấp thuận, Sư trưởng đã xin Hòa thượng Pháp Ấn làm lễ thế phát xuất gia. Từ đó, Sư trưởng tinh tấn tu học, được Hòa thượng bổ xứ đến nhiều chùa ở miền Nam. Ước nguyện cầu học ngày càng thôi thúc, năm 28 tuổi, Sư trưởng bắt đầu lên đường ra Huế tham cầu học đạo. Địa điểm đầu tiên Sư trưởng đến là chùa Ni Diệu Đức nổi tiếng, người Huế thường gọi là chùa Sư nữ một cách thân mật, được Sư bà Diệu Không ân cần tiếp đón. Tại đây, Sư trưởng được Hòa thượng Mật Hiển giảng dạy những bộ kinh quý như Lăng Nghiêm Trực Chỉ, Bát Nhã v.v… Rồi, Sư trưởng một mình đi ra Bắc, duyên lành nảy nở, Sư trưởng xin thọ Đại giới Tỳ-kheo-ni vào dịp chùa Phúc Loại, tỉnh Hà Đông mở Đại giới đàn. Lần lượt, Sư trưởng đến chùa Trấn Quốc tỉnh Hưng Yên cầu học bộ Luật Tứ Phần Tỳ Kheo Ni Lược Ký, chùa Bằng Sở tỉnh Hà Đông cầu học bộ Luật Tỳ Kheo Ni Sao. Không bỏ lỡ dịp tốt, Sư trưởng đã hành hương chiêm bái các Phật tích nổi tiếng ở miền Bắc. Khi tới Yên Tử chiêm bái thánh tích Trúc Lâm, trước cảnh trí u nhã, thanh thoát, lòng bồi hồi xúc động, Sư trưởng đã lưu lại ba tháng để tọa thiền, thư giãn tinh thần, bồi dưỡng khí lực sau một thời gian miệt mài học tập.

Năm 1941, trên đường trở về Nam, Sư trưởng tranh thủ ghé lại Tổ đình Thập Tháp, tỉnh Bình Định lưu lại năm tháng, xin Hòa thượng Phước Huệ giảng dạy kinh Lăng Già Tâm Ấn là bộ kinh uyên áo và khó trong giáo điển Đại Thừa. Là người thông minh, mẫn tiệp, cộng với tính cần cù chăm chỉ, đâu đâu Sư trưởng cũng tiếp thụ mau chóng tinh ba, yếu lý của Kinh Luật, được chư vị Hòa thượng tán thán ngợi khen.

Với nỗ lực bền bỉ, không lùi bước trước khó khăn, Sư trưởng đã lặn lội khắp các tỉnh Nam bộ và Nam Trung bộ để sách tấn Ni giới, đào tạo Ni tài. Sau khi đã ổn định xong, được Chư Tôn giáo phẩm chấp thuận, vào tháng 10 năm 1956, Sư trưởng đã thành lập Ban lãnh đạo Ni bộ lâm thời Nam Việt, có nội quy và hệ thống điều hành riêng, trụ sở đầu tiên của Ni Bộ Nam Việt đặt tại chùa Huê Lâm, Chợ Lớn.

Ngoài việc tận tình chăm lo hướng dẫn Ni chúng vững tiến hành đạo, Sư trưởng cũng đã bỏ nhiều công sức để kiến tạo, xây dựng, trùng tu nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Lúc 25 tuổi, Sư trưởng đã đích thân cùng quý Ni trưởng đồng lớp xây dựng ngôi chùa Ni đầu tiên ở miền Nam là chùa Từ Hóa tại Tân Sơn Nhì (sau đổi là chùa Hải Ấn). Lần lượt qua thời gian, Sư trưởng đã nhiều lần tôn tạo các ngôi chùa như Huê Lâm I, Huê Lâm II, chùa Dược Sư, chùa Từ Nghiêm v.v… càng thêm khang trang đẹp đẽ. Mới nhất, vào năm 1992, mặc dù đã bước vào tuổi 82, Sư trưởng đã tự mình phác họa đồ án xây dựng tượng đài Quan Thế Âm tại chùa Hải Vân (Vũng Tàu), được khởi công xây dựng vào ngày 19 tháng 02 năm Canh Ngọ (15-3-1990) mất hai năm thi công. Trong thời gian này, Sư trưởng thường lên núi để đôn đốc, chỉ đạo kỹ sư thiết kế thực hiện công trình đúng theo sơ đồ. Sư trưởng không ngại hao tốn, dốc hết tâm sức, trí tuệ, tạo dựng một công trình có tầm cỡ quy mô đồ sộ, nằm lưng chừng núi Nhỏ (Vũng Tàu), mặt hướng ra biển cả mênh mông, tạo cho nơi đây trở thành một danh thắng kỳ vĩ. Có thể xem đây là một công trình văn hóa chưa từng có từ trước đến nay do Ni giới Việt Nam thực hiện.

Trên lĩnh vực trứ tác, phiên dịch, Sư trưởng cũng thể hiện một tài năng bậc Thầy, đã xuất bản hàng chục tác phẩm giá trị. Ngoài ra, Sư trưởng cũng là một nhà thơ có tâm hồn, sáng tác nhiều tập thơ hòa quyện bản chất Phật giáo và dân tộc. Không những thế, Sư trưởng còn là một người có biệt tài sử dụng ngôn từ, lời lẽ khúc chiết dễ đi vào lòng người. Không chỉ giỏi trong thuyết giảng mà còn xuất sắc trong biện luận, nhất là vào các dịp hội nghị. Như kỳ Đại hội Hoằng pháp vào năm 1962 tại Phật học viện Nha Trang mà tôi có cơ duyên tham dự, Sư trưởng đã đòi hỏi quyền hạn hoằng pháp cho Ni giới với những lời lẽ hùng hồn, hết sức thuyết phục, khiến cho chư vị Tôn túc cùng các cư sĩ tiêu biểu đều đồng tình ủng hộ.

Sư trưởng đã đem hết tài năng, trí tuệ, tâm huyết cống hiến cho sự nghiệp hoằng hóa độ sanh. Đạo nghiệp của Sư trưởng thật cao dày, chói lọi. Hôm nay, ghi lại những thành quả to lớn của Sư trưởng, lòng tôi càng thêm cảm phục sâu xa và cũng nhận ra được cái thành kiến sai lầm trọng nam khinh nữ của tôi trước kia.

Nhân dịp này, tôi xin chân thành sám hối với Sư trưởng, đồng thời cũng xin sám hối cùng tất cả các giới nữ lưu khác, trong đó có Ni giới Việt Nam.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21- 8–1998.
 
Võ Đình Cường
- Trưởng Ban Văn Hóa Hội Đồng Trị Sự GHPGVN.
- Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu PHVN.

 


Cập nhật: 4-3-2001

Trở về mục "Phật giáo Việt Nam"

Đầu trang