Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Thủ Lăng Nghiêm Kinh Trực Chỉ Đề Cương
Pháp Sư Thích Từ Thông

CHƯƠNG THỨ BA

TRONG THÂN THỂ VÔ THƯỜNG SANH DIỆT CÒN CÓ CÁI THƯỜNG, BẤT SANH BẤT DIỆT

Ông A Nan và đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình vô thỉ đến nay bỏ mất bổn tâm, lầm nhận sự phân biệt bóng dáng tiền trần làm tâm. Ngày nay được Phật khai ngộ, như em bé mất sữa bỗng được gặp mẹ hiền, đồng chấp tay lễ Phật, cầu xin chỉ cho chỗ chân vọng thực hư, ở nơi thân tâm hiện tiền phát minh hai tánh: sanh diệt và không sanh diệt.

Bấy giờ vua Ba Tư Nặc đứng dậy thưa:

- Bạch Thế Tôn: Khi chưa được gặp Phật, tôi nghe bọn Ca Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử nói rằng: Thân này chết rồi là mất hẳn, gọi đó là Niết Bàn. Nay tuy được gặp Phật, nghe pháp, nhưng tôi vẫn còn hồ nghi, xin Thế Tôn chỉ dạy, làm thế nào để được nơi thân tâm này cái gì không sanh diệt ?

 

Phật bảo: Này Đại Vương ! Như Đại Vương đã biết: Cái thân vô thường, vận động, sanh diệt chuyển biến theo năm tháng của thời gian, không có một giây phút, một sát na dừng trụ. Từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành, độ thanh xuân nào rồi cũng đến lúc da mồi tóc bạc… mà Đại Vương biết chắc là nó sẽ tiêu mà hoại diệt. Thưa Đại Vương ! Đó là chân lý của cuộc đời; hữu tình vô tình cùng chung một định luật sanh diệt, diệt sanh của vạn pháp hiện tượng.

Nhưng nầy ! Thưa Đại Vương ! Như Đại Vương vừa nói: Lúc 3 tuổi cùng mẹ đi cúng lễ thần Kỳ Bà Thiên, đó là lần đầu tiên Đại Vương thấy nước sông Hằng, rồi năm 13 tuổi cho đến nay Đại Vương 62 tuổi mà "cái thấy" của Đại Vương thấy nước sông Hằng vẫn y nguyên không sai khác !

Thưa Đại Vương ! Dựa trên khái niệm thời gian tương đối mà đánh giá tuổi tác con người. Hiện nay mặt Đại Vương tuy nhăn, nhưng tánh thấy của Đại Vương không nhăn; tóc Đại Vương bạc, mà cái thấy của Đại Vương không bạc. Cái có bị nhăn, bị bạc là những cái có sanh diệt, đổi thay. Cái không nhăn, không bạc, không bị chi phối bởi luật vô thường thì làm chi có thay đổi ! Có đổi thay thì có hoại diệt, không thay đổi, đồng nghĩa với bất diệt, bất sanh. Đại Vương còn sợ gì cái thuyết "đoạn kiến" của bọn Mạt Già Lê, bảo rằng: "Thân nầy chết là mất hẳn"?

Nhà vua nghe lời Phật, nhận biết về sau khi bỏ thân nầy không phải mất hẳn. Vua và đại chúng hớn hở vui mừng, được cái chưa từng có.

 

*

* *

 

 

 

TRỰC CHỈ

 

Đọc đoạn kinh trên, tôi chợt liên tưởng đến câu thơ của Tố Như tiên sinh, một thi hào Việt Nam, thế kỷ 18 viết:

"… Rằng: những đấng tài hoa

Thác là thể phách, còn là tinh anh".

 

Cái "Tinh anh" mà Tố Như tiên sinh nói, ta có thể hiểu cái từ: "Linh tri", "Giác Linh", "Linh hồn" hay "Thần thức" tuyệt đại đa số loài người trên mặt đất đều tin tưởng, rằng sau khi con người chết, còn "một cái" trong những từ đó. Nhưng "cái đó" sẽ ở đâu và sẽ đi về đâu, điều đó tùy tập quán tín ngưỡng và tôn giáo mà người đó tôn thờ.

Ở đoạn kinh nầy, cái "tinh anh" không mất của con người sau khi chết, người đệ tử Phật có thể hiểu đó là: "Bản thể chơn như của hiện tượng vạn hữu", cũng gọi là "Như Lai Tàng" và ta sẽ thấy đức Phật dạy rõ ở những đoạn kinh sau: Bởi vì theo giáo lý Phật không có một hiện tượng sanh diệt nào rời ngoài bản thể chơn như của nó; cũng như không có một bản thể chơn như nào không biểu hiện qua hiện tượng vạn hữu. Những đợt sóng sanh diệt, sanh trên mặt nước phẳng lặng vốn dĩ bất sanh. Nếu sóng lặng đi rồi, mặt nước phẳng lặng như tờ hãy còn nguyên đó.

Phật khai thị cho vua Ba Tư Nặc và đại chúng: Sắc thân là một hiện tượng, một dạng vật lý cho nên bị chi phối bởi định luật vô thường sanh diệt của vạn pháp hiện tượng hữu vi. Trong cái vô thường còn có cái thường, đó là cái tánh thấy, tánh thấy cũng là một hiện tượng, nhưng là hiện tượng của một dạng tâm lý của bản thể chơn như, cho nên sự sanh diệt của hiện tượng tâm lý chỉ là sự tùy duyên biểu hiện của bản thể. Do vậy, thân già nhưng tánh thấy không già; tóc bạc mà tánh thấy không bạc… Cái có già có bạc có đổi thay rồi sẽ hoại diệt mất đi. Bản thể chân thường thì không chịu sự chi phối của hiện tượng vật lý hữu vi sanh diệt…

"Xuân đến trăm hoa nở

Xuân đi trăm hoa rụng

Sự vật đổi thay trông trước mắt

Già nua biểu hiện mái tóc nâu

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Trước sân, xuân nọ cành mai hãy còn"

(Xuân đáo bách hoa khai

Xuân khứ bách hoa lạc

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai)

 

MÃN GIÁC THIỀN SƯ

 

Mai nở mai rụng là hiện tượng sanh diệt của hoa mai trong một thời kỳ 5 đến 7 ngày. Còn cây mai trước sân của đêm xuân hôm ấy, sẽ tiếp nối trưởng thành để rồi xuân tới và xuân tới nữa cứ lại trổ hoa mai…

 

*

* *

 

RẰNG NGƯỢC RẰNG XUÔI CHỈ LÀ SỰ ÁP ĐẶT CHỦ QUAN, MỘT Ý THỨC CHẤP MẮC !

 

Ông A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Phật, chấp tay quỳ gối và thưa:

- Bạch Thế Tôn ! Nếu tánh thấy thật không sanh diệt, cớ sao Thế Tôn lại gọi bọn chúng tôi là bỏ mất chơn tánh làm việc trái ngược ? Xin Phật mở lòng thương xót rửa sạch trần cấu cho chúng tôi !

Bấy giờ Phật duỗi cánh tay hướng xuống đất bảo ông A Nan rằng:

- Ông thấy tay tôi như thế này là xuôi hay ngược ?

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Mọi người thế gian cho như vậy là ngược, còn tôi thì không biết thế nào là ngược, thế nào là xuôi.

Nếu người thế gian cho như vậy là ngược thì họ gọi thế nào là xuôi ?

- Như Lai đưa cánh tay hướng lên trên không thì gọi là xuôi.

Bấy giờ Phật đưa cánh tay lên và bảo ông A Nan: Cái trái ngược của các ông là ở chỗ đó chỉ một việc thay đổi lẫn nhau, vậy mà người thế gian gán cho cái thấy một ý niệm Ngược, Xuôi ! A Nan ! Thân ông và thân Như Lai chẳng khác gì nhau, nhưng thân Như Lai là pháp thân thanh tịnh chánh biến tri giác, còn ông thì gọi là người làm việc trái ngược bỏ mất chân tánh. Vậy ông hãy chín chắn nghĩ suy tìm xem sự trái ngược của thân ông và thân Phật khác ở chỗ nào ?

Ông A Nan và đại chúng chăm chăm ngó Phật mắt không lay động chẳng biết thân tâm trái ngược do ở nơi đâu ?

Đức Phật khởi lòng thương xót, phát tiếng hải triều, bảo khắp đại chúng: Các thiện nam tử ! Tôi thường nói: Sắc, tâm và tâm Sở pháp đều duy tâm hiện. Thân tâm các ông chỉ là vật ở trong chân tâm minh diệu. Tại sao các ông bỏ mất đi cái chân tâm minh diệu quý báu mà nhận lấy cái mê trong ngộ ?

A Nan ! Do mê muội nhận thấy không. Cái không phải không, nhận cho là sắc. Sắc có xen tưởng thì nhận đó là thân. Cảnh sắc bên ngoài phản ánh tư tưởng bên trong rồi cho cái tác dụng nghĩ ngợi lăng xăng là tâm tánh. Một phen lầm cho đó là tâm thì quyết định cũng lầm cho "tâm ở trong thân". Do đó, không thể hiểu được rằng: Sắc, tâm, núi, sông, đất liền cho đến cả hư không đều là những vật trong Chân Tâm Minh Diệu. Thật chẳng khác trăm ngàn biển lớn sạch trong chỉ nhận một cái bọt nước rồi cho đó là nước của toàn thể đại dương. Bọn các ông là kẻ mê trong những người mê, chỉ một cánh tay tôi mà nảy sanh quan niệm Ngược xuôi, tranh biện. Như Lai gọi các ông là những người đáng thương xót.

 

*

* *

 

 

 

TRỰC CHỈ

 

Duy thức luận nói:

"Danh sư hổ vi khách

Kỳ tánh ưng tầm tư"

 

 

Đứng bên mặt chơn tế, vạn pháp vốn không có tuổi tên. Đặt ra tên tuổi là do biến kế chấp của ý thức con người. Bên mặt tục đế, xã hội loài người không thể không đặt tên sự vật để khái niệm để nhận thức và xưng gọi. Đặt cho sự vật vạn pháp một danh ngôn để xưng gọi mà con người sống phù hợp theo tánh hiện thực khách quan của nó, thì cũng chẳng có gì tội lỗi đáng trách. Trái lại, đó còn là một yêu cầu tự nhiên của quá trình tiến hóa, cho cuộc sống loài người. Tai hại của danh ngôn là do sanh lòng chấp mắc. Chỉ một cánh tay Phật duỗi xuống mà sanh khởi ý niệm ngược xuôi. Mầm mống tranh chấp thị phi dựa trên cơ sở "biến kế" ấy phát sanh. Cái cánh tay hiện thực, thì mọi người đánh mất cái vai trò Như Thị khách quan của nó. Lấy một cánh tay Phật làm ước lệ, để chỉ rõ cho đại chúng cái tánh chất tai hại của "biến kế danh ngôn". Do "biến kế sở chấp", con người không nhận thức đúng tự tánh "y tha khởi" của sự vật hiện tượng. Vì vậy, con người không sao biết được tánh "thắng nghĩa" "chơn như" và tánh "thường như viên thành thật" của hiện tượng vạn pháp.

Cùng là thân, mà thân Phật gọi là pháp thân thanh tịnh Chánh biến tri giác. Bởi vì Như Lai làm chủ bản thân, làm chủ vạn pháp, làm chủ tâm tánh mình. Như Lai nhìn hiện tượng vạn pháp với cái Tri kiến Vô kiến. Vì vậy, Như lai là bậc Pháp Vương. Ông A Nan và tất cả chúng sanh nhận thức vạn pháp theo Tri Kiến Lập Tri cho nên Phật gọi là những người làm việc trái ngược bỏ mất chơn tánh.

"Sắc, tâm và tâm Sở pháp đều duy tâm hiện". Chữ tâm phải được hiểu là đệ bát thức Alaya. Chỉ có đệ bát Alaya mới đủ tiêu chuẩn là "Chân tâm minh diệu".

 

Duy thức luận nói:

"Tính duy vô phú, ngũ biến hành

………………………………

Hạo hạo tam tàng bất khả cùng

Uyên thâm thất lảng cảnh vi phong

Thọ huân trì chủng căn thân khí…"

 

 

Nếu cho rằng tâm ở trong thân, chẳng khác nhận một cái bong bóng nước cho là nước của toàn thể đại dương. Nên biết rằng sắc, thân, núi, sông, đất liền… cho đến cả hư không, đều là những vật trong Chân Tâm Minh Diệu ấy !

 

*

* *

 

LỰA BỎ TÂM VƯƠNG VÍU CẢNH DUYÊN ĐỂ CHỈ TÁNH THẤY KHÔNG CHỖ TRẢ VỀ

 

Ông A Nan nghe lời dạy bảo thâm thiết của Phật, sung sướng rơi nước mắt, vòng tay mà bạch Phật rằng: Tôi nghe diệu âm của Phật, dù nhận rõ chân tâm minh diệu vốn là tâm địa thường trú viên mãn, nhưng chỉ nhận trên pháp âm Phật nói. Tôi đang dùng tâm vương víu cảnh duyên thỏa mãn lòng ái mộ Phật. Tôi cũng chỉ nhận thức được một cách mơ hồ chưa dám nhận đó là tâm địa vốn có của mình. Mong Phật thương xót dùng viên âm dạy bảo, nhổ gốc nghi ngờ cho tôi được về với đường vô thượng giác.

Phật bảo: Bọn ông còn lấy tâm vướng víu cảnh duyên mà nghe pháp, thì pháp đó cũng chỉ là pháp tướng vướng víu tạm thời, chưa phải nhận được pháp tánh. Ví như có người lấy ngón tay chỉ trăng, người trí nương ngón tay để tìm thấy trăng, nhưng nếu cho ngón tay là trăng, thì không bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất luôn cả ngón tay nữa; vì ngón tay mà đã tưởng là trăng, thì cũng không biết thế nào là sáng, thế nào là tối ! Nay ông lấy sự phân biệt pháp âm của tôi mà cho là tâm, thì lúc không có pháp âm, lẽ ra ông phải còn phân biệt. Ví như người ngủ trọ, hết ngủ thì đi, còn chủ quán trọ thì vĩnh viễn ở luôn không đi đâu nữa. Cũng vậy, nếu thật là tâm của ông thì không đi đâu, tại sao rời âm thanh thuyết pháp của tôi, cái phân biệt của ông không còn ? Sự phân biệt về âm thanh đã vậy. Sự phân biệt sắc, hương, vị, xúc, cho đến các phi sắc phi không của pháp trần cũng vậy. Rời đối tượng phân biệt ra cái phân biệt của ông phải thường còn, thì đó mới thật là tâm tánh của ông. Trái lại, hễ đối tượng không có, phân biệt cũng không còn, thế là tâm tánh của ông có chỗ trả về, như khách đến rồi đi, không còn là địa vị chủ nhân ông thường trú.

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Nếu tâm tánh tôi có chỗ trả về, vậy cái chơn tâm minh diệu Như Lai nói, vì sao lại không có chỗ trả về ? Xin Phật thương xót vì chúng tôi dạy bảo.

Phật bảo: A Nan ! Cái thấy mà ông thấy tôi, dù không phải là chân tâm minh diệu, nhưng nó là tánh thấy trong sáng chưa nhuốm trần lao. Nó như vành trăng thứ hai chứ không đến nỗi như bóng trăng đáy nước. Ông hãy chín chắn lòng nghe, nay tôi chỉ cho ông cái nghĩa không chỗ trả về.

A Nan ! Đại giảng đường này mở rộng, phương đông mặt trời lên thấy sáng suốt. Đêm ba mươi không trăng mây mù, thấy tối đen. Chỗ có cửa mở thấy thông thương. Chỗ có tường thấy ngăn bít. Chỗ có phân biệt được thấy cảnh sắc. Chỗ trống trơn thấy hư không. Chỗ bụi cát tung lên thấy mịt mù. Chỗ mưa tạnh mây tan thấy quang đãng.

A Nan ! Ông đã thấy các tướng biến hóa như vậy, nay tôi trả các tướng ấy về chỗ bản nhơn của nó. A Nan ! Cái sáng trả về cho mặt trời, vì không mặt trời thì không sáng; bản nhơn cái sáng thuộc về mặt trời, cho nên trả về cho mặt trời. Tối đen trả về cho đêm ba mươi. Thông thương trả về cho cửa. Ngăn bít trả về cho tường. Cảnh sắc trả về cho phân biệt. Hư không trả về cho khoảng trống. Mịt mù trả về cho cát bụi. Quang đãng trả về cho mưa tạnh mây tan. Sự vật thế gian tuy nhiều, nhưng không ngoài các thứ đó. Còn cái thấy mà ông thấy tám thứ đó, ông định trả nó về đâu ? Nếu ông trả về cho sáng thì lúc không có sáng lẽ ra ông không thấy được tối. Nhưng trước mắt ông, sáng và tối có sai khác mà cái thấy của ông thì không sai khác. Cái có chỗ trả về hẳn nhiên không phải là ông. Còn cái thấy không thể trả về đâu, nếu không phải ông thì là ai len vô đó ?

Vậy nên biết rằng: Tâm ông vốn nhiệm mầu, thanh tịnh sáng suốt mà ông tự mê mờ bỏ mất gốc, nhận chịu luân hồi thường bị chìm đắm trong biển sanh tử. Thế nên Như Lai gọi các ông là những người đáng thương xót !

 

*

* *

 

 

 

TRỰC CHỈ

 

Nghe mà sanh lòng hoan hỷ, sung sướng rơi nước mắt là thành tựu bước đầu: "âm hưởng nhẫn" của người đệ tử Phật. Sanh lòng ái mộ, nhận rõ chân tâm minh diệu qua pháp âm Phật, nhưng chỉ nhận một cách mơ hồ đấy là hiện tượng "nhu thuận nhẫn" được phát sanh. Chưa dám nhận chân tâm diệu minh là tâm địa vốn có của mình, vì ông A Nan bấy giờ chưa thể nhập "vô sanh pháp nhẫn".

Nghe pháp mà chỉ nghe bằng tâm vướng víu pháp âm, dù là pháp âm Phật, thì cũng chưa lắng nghe được pháp tánh thanh tịnh bản nhiên của vạn pháp vốn có ở lòng mình. Phải tự uống trà mới biết hương vị của trà ngon. Chỉ nghe nói trà ngon thì mới biết hương và vị trà không đời nào hiểu đúng. Nương ngón tay để nhìn trăng, chứ ngón tay không bao giờ là trăng được.

Dùng tâm phân biệt tiếp nhận pháp âm Phật, tâm đó không thể là chơn tâm được, vì nếu pháp âm không còn nữa thì cái tánh "thường trú" cũng đã mất theo. Chả lẽ ông A Nan lúc bấy giờ đã trở thành người gỗ đá vô tri vô giác ! Đối với sắc, hương, vị, xúc cũng vậy. Tiền trần lúc có lúc không, nhưng cái tâm thanh tịnh "vô phân biệt" của con người không vì tiền trần mà theo sanh theo diệt. Phát hiện được cái tâm thanh tịnh "vô phân biệt" vốn có của mình, Phật gọi đó là "chơn tâm thường trú". Cái đó không có chỗ trả về.

Thế gian, hiện tượng tuy nhiều, nhưng tóm thu, không ngoài tám tướng: Sáng, tối, thông, bít, sắc, không, trong, đục. Tám tướng đều có thể trả về chỗ sở nhơn phát sanh ra nó. Nhưng tánh thấy của ông A Nan nhận thấy tám tướng kia, không thể trả về đâu. Rõ ràng cái tánh thấy ấy là của ông A Nan chớ chẳng phải của ai khác. Tiền trần đối tượng có đến có đi, có sanh có diệt, như người "khách" cho nên ví "khách trần". Nhận thức chủ thể thường xuyên hiện hữu, như "chủ" cho nên gọi: "chơn tâm thường trú".

Dù vậy, sự thường trú của tánh thấy chỉ là hiện tượng biểu hiện của chơn tâm, chớ chưa phải chơn tâm, nên ví vành trăng thứ hai, chưa phải mặt trăng thật. Nói cách khác đó là chân tâm, bên mặt hiện tượng tùy duyên. Chừng nào nhận thức và thể nhập Bản Thể bất biến của chơn tâm mới gọi là người thấy được mặt trăng thật.

Ô hô ! Pháp hải u huyền trần tâm nan hội ! Chơn tâm hạo đảng như nguyệt lâm thủy diện, bát khai thủy diện, nguyệt hoàn thâm !

 

*

* *

 

VẬT LÀ ĐỐI TƯỢNG PHÂN BIỆT CỦA TÂM. TÂM BIỂU HIỆN QUA TÁNH THẤY LÀ CHỦ THỂ PHÂN BIỆT VẬT

 

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn: Tuy tôi biết tánh thấy không thể trả về, nhưng làm sao biết được đó là chơn tánh của tôi ?

Phật bảo: A Nan ! Ông chưa được quả vô lậu, nhờ thần lực Phật mà thấy được cõi Sơ thiền: trong khi, ông A Na Luật thì thấy cõi Diêm phù đề như quả quýt để trên bàn tay. Bồ Tát thấy cùng tột các quốc độ thanh tịnh của mười phương chư Phật. Còn chúng sanh thì thấy chẳng được xa hơn gang tấc.

A Nan ! Tôi cùng ông xem cung điện Tứ Thiên Vương, chặng giữa các hiện tượng đất liền biển cả và hư không, tuy có nhiều hình sắc khác nhau, sáng tối không đồng, nhưng không cái gì không phải tiền trần đối tượng phân biệt. Những thứ mà ông thấy, ông hãy lựa xem cái gì là chủ thể, cái nào là đối tượng phân biệt của ông ?

A Nan ! Cùng tột sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng… cho đến thất kim sơn, xem xét khắp cùng, dù có thấp cao lớn nhỏ và màu sắc không đồng nhưng cũng đều là vật chớ chẳng phải ông. Lần xem mây kéo, chim bay, gió động, bụi tung, cây, rừng, sông, núi, cỏ, hoa, súc vật… cho đến con người đều là vật chớ chẳng phải ông.

A Nan ! Các vật gần xa đó, tuy khác nhau, nhưng đều do tánh thấy thanh tịnh (hiện lượng, đệ nhất sát na) của ông. Các vật loại kia có sai khác mà tánh thấy của ông thì không sai khác. Tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu đó, rõ là chủ thể phân biệt của chính ông, chứ còn ai nữa ! Nếu tánh thấy là vật, thì ông đã thấy cái thấy của tôi. Nhưng sự thật thì không như vậy. Điều đó chứng minh rằng: tánh thấy không phải vật, mà là chủ thể phân biệt của chính ông. Sự thể quá rõ ràng, sao ông còn nghi ngờ cái chơn tánh của ông ? Chơn tánh của ông, ông không tự nhận, vướng chấp pháp âm của tôi mà cầu thực chứng thì làm sao có được ?

 

*

* *

 

 

 

TRỰC CHỈ

 

Tánh thấy tức là nhãn thức. Nhãn thức là một trong tám thức tâm vương. Tánh thấy thanh tịnh, sáng suốt nhiệm mầu, vì tiếp thu trần cảnh, nó chỉ thu nhận "tánh cảnh" và "hiện lượng" cho nên tự tánh của cái thấy vốn không có tội lỗi gì. Nó là hiện tượng biểu hiện của chơn tâm, nó gần với bản chất thanh tịnh của chơn tâm hơn các hiện tượng khác, nên ví nó như vành trăng thứ hai do mắt nhặm mà thấy, chứ nó không hư ảo, đảo điên như bóng trăng in đáy nước.

Nếu một tánh thấy để đơn cử công dụng phát thức của một căn. Kỳ thật tánh cảnh hiện lượng là đặc tánh chung của nhỉ, tỷ, thiệt, thân, năm thức trước. Năm thức trước hoạt động trong một bối cảnh "tùy duyên". Chỉ có ý thức đối với sự hoạt động của con người, tương đối nó thường trú túc trực hơn năm thức trước. Nó chỉ không hiện hữu ở năm trường hợp: Vô tưởng thiên, vô tưởng định, diệt tận định, ngủ không chiêm bao và chết ngất.

Sáu thức tác động vào sáu căn, biểu hiện ra thành sự nhận thức của con người. Đối tượng nhận thức của năm thức trước là "tánh cảnh" nghĩa là những sự vật có bản chất cụ thể, rờ, mó, cầm, nắm được, gọi đó là Vật. Chủ thể nhận thức thì biểu hiện thông qua sáu giác quan (lục căn), nhưng vì không bản chất chỉ có tác dụng thì gọi đó là TÂM. TÂM và VẬT đều là "hiện tượng" biểu hiện phát xuất từ Thể tánh tịnh minh, Như Lai Tàng bản thể:

Không gian cộng thời gian là bản thể Như Lai tàng vậy.

 

*

* *

 

TÁNH THẤY KHÔNG LỚN NHỎ ĐỨT NỐI CHỈ DO TIỀN TRẦN NGĂN NGẠI MÀ THÔI

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Nếu tánh thấy là tôi, không phải ai khác, khi Như Lai và tôi xem cung điện Tứ Thiên Vương, mặt trời, mặt trăng cùng lúc thấy khắp cõi Ta bà, khi trở về tịnh xá chỉ thấy khu đất già làm, đến trai đường chỉ còn thấy giới hạn của một căn phòng.

Thưa Thế Tôn ! Tánh thấy vốn khắp cùng một cõi, mà nay ở trong nhà chỉ thấy một gian phòng. Vậy tánh thấy lớn rút lại thành nhỏ hay do tường nhà ngăn chặn làm cho đứt đoạn ? Điều đó, tôi chưa hiểu, xin Phật từ bi chỉ dạy !

Phật bảo: A Nan ! Tất cả các hiện tượng xa gần lớn nhỏ trong ngoài của thế gian đều thuộc tiền trần, ông không nên nói tánh thấy có giãn ra hay rút lại. Tánh thấy vốn khắp trùm phổ biến ví như hư không. Đặt cái đồ vuông thì dung tích hư không vuông, để cái vật tròn thì dung lượng khoảng hư không tròn. Nếu muốn hư không, không vuông, không tròn, chỉ cần bỏ đi những cái đồ khí mảnh ấy mà không cần có ý nghĩa phải loại bỏ tướng vuông tròn của hư không. Như lời ông hỏi: Khi vào phòng cái thấy bị rút lại, hay bị vách nhà ngăn đứt ? Nghĩa đó không đúng. Nếu vào phòng nhỏ, cái thấy bị rút lại, vậy khi trông xa phải kéo giãn ra ? Nếu vào nhà bị vách cắt đứt, khi xoi một lỗ nhìn ra cái thấy phải có dấu nối ?

A Nan ! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay lầm mình là vật, bỏ mất bổn tâm, bị vật xoay chuyển cho nên trong đó thấy lớn thấy nhỏ. Nếu chuyển được vật thì đồng với Như Lai, thân tâm tròn đầy sáng suốt, ngồi ở một chỗ mà đầu mảy không hàm chứa mười phương quốc độ.

 

*

* *

 

 

 

TRỰC CHỈ

 

"Tánh kiến giác minh, Giác tinh minh kiến, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện". Đó là ý tứ của một đọan kinh sau, Đức Phật dạy về ý nghĩa công dụng của thất đại. Rằng tánh thấy vốn là "giác minh" nó là cái "tinh kiến", nghĩa là tánh thấy không trải qua "tỷ lượng" và "phi lượng" sai lầm, mà luôn luôn ở trong phạm vi "hiện lượng". Nó thanh tịnh bản nhiên, nó khắp cùng pháp giới, đáp ứng yêu cầu tâm tưởng chúng sanh, theo nghiệp của mỗi loài mà biểu hiện. Ví như hư không, tùy đồ vật: Cốc, ly, chum, chóe mà biểu hiện theo hình thể vuông tròn sâu cạn mà thể tánh hư không thanh tịnh bản nhiên, khắp đầy thế giới, không hạn cuộc trong một hình thức khuôn khổ nào.

Chúng sanh dứt sạch mê lầm Ngã Pháp, phản chiếu hồi quang, xoay về Thể tánh tịnh minh, thể nhập Như Lai Tàng vốn có, chuyển vật, làm chủ lấy mình, bấy giờ chợt thấy rằng: Vật tâm bất nhị, chúng sanh Phật không hai. Một là tất cả, tất cả là một. Ngay nơi chỗ ngồi, mỗi đầu mảy lông hàm chứa cõi nước mười phương chư Phật.

 

*

* *

 

TÁNH THẤY VÀ VẬT BỊ THẤY VỐN LÀ TÂM TÁNH BỒ ĐỀ NHIỆM MẦU SÁNG SUỐT

 

    • Không có cái nào là tánh thấy.

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Nếu tánh thấy là tâm tánh nhiệm mầu của tôi, hiện ở trước mắt tôi, thì thân tâm tôi là vật gì, mà thân tâm có phân biệt, tánh thấy kia thì không phân biệt được thân tôi ?

Phật bảo: A Nan ! Ông nói tánh thấy ở trước mắt ông không đúng. Nay tôi cùng ông ngồi trong rừng Kỳ Đà, trông khắp suối rừng điện đường, trên thì mặt trời mặt trăng, trước có sông Hằng. Ông hãy đưa tay chỉ trong các tướng kia: Chỗ rậm là rừng, phát ra ánh sáng là mặt trời, ngăn ngại là vách, mênh mông bãng lãng là hư không, đến cả cỏ cây mảy mún, lớn nhỏ khác nhau, nhưng đã có hình thì không cái gì không chỉ ra được. Ông bảo rằng tánh thấy hiện ở trước mắt ông, vậy ông hãy chỉ chính xác, gì là tánh thấy ?

A Nan ! Ông nên suy nghĩ: Nếu hư không là tánh thấy, thì còn cái gì là hư không ? Nếu vật là tánh thấy, còn cái gì là vật ? Ông hãy chín chắn lựa chọn trong muôn vàn hiện tượng, tách tánh thấy nhiệm mầu thanh tịnh ấy ra và chỉ cho tôi xem cụ thể rõ ràng, như các vật mà không lầm lộn ?

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Nay tôi ở giảng đường, trông xa đến sông Hằng… nhìn cao đến mặt trời, mặt trăng, những cái chỉ được, đều là vật chứ không có cái nào là tánh thấy.

Bạch Thế Tôn ! Lời Phật vừa dạy, chẳng những hàng Thanh Văn, sơ học chúng tôi, dù cho các Bồ Tát cũng không thể ở nơi hiện tượng vạn pháp chỉ ra cái nào là tánh thấy rời ngoài mọi vật.

Phật dạy: Đúng vậy ! Đúng vậy !

    • Tất cả cái nào cũng là tánh thấy.

Phật bảo: A Nan ! Như lời ông nói: Rời tất cả vật, tánh thấy không có. Trong tất cả vật đã chỉ ra được, không có cái nào là tánh thấy. Giờ đây ông cùng tôi ngồi trong rừng Kỳ Đà nầy, ta hãy nhìn xem vườn rừng cho đến mặt trời, mặt trăng, và vô vàn hình tượng, trong đó không có cái thấy để ông chỉ ra được. Vậy ông hãy phát minh trong các vật đó, cái nào không phải tánh thấy.

Ông A Nan bạch Phật: Rằng, tôi trông khắp rừng Kỳ Đà, tập trung tâm ý, quan sát tư duy, nhưng không tìm ra trong đó cái nào không phải tánh thấy. Vì sao ? Nếu cây không phải tánh thấy, sao thấy được cây ? Cho đến, nếu hư không, không phải tánh thấy làm sao thấy được hư không ? Nhưng nếu hư không là tánh thấy, thì sao lại là hư không. Tôi nay suy nghĩ chín chắn và phát minh trong muôn vàn hiện tượng, không cái nào không là tánh thấy.

Phật bảo: Đúng vậy ! Đúng vậy !

 

*

* *

 

 

 

TRỰC CHỈ

 

Đức Phật đã bao lần mở rộng lòng từ đinh ninh dạy dỗ, vậy mà ông A Nan vẫn còn mơ hồ trong nhận thức về cái tánh thấy: Rằng tánh thấy là tâm tánh hay không là tâm tánh của ông.

Sự mê mờ về tâm tánh chưa lóe tí ánh sáng khả quan nào, thì lại chồng lên một sai lầm mới. Rằng tánh thấy hiện ở trước mắt.

Xét cho cùng, ông A Nan chưa nhận rõ cái tánh thấy cũng có lý của ông. Bởi vì muốn nhận thức tinh tường vấn đề nầy, cần phải được học hiểu kỹ về Kiến Đại:

… "Tánh kiến giác minh, kiến tinh minh giác, thanh tịnh bản nhiên, chú biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện".

Từ trước đến đây, trong nhận thức của ông A Nan chỉ xoay sở quần quanh qua bóng dáng của pháp trần và ý thức. Ông chỉ nghe và tiếp thu mơ hồ về "kiến tinh minh giác". Thể tánh của kiến tinh là hiện lượng, phát xuất từ Như Lai tàng. Ông A Nan chưa có khái niệm vững vàng về nguồn tư tưởng sâu thẳm của môn pháp tánh học nầy. Vì vậy, ông chỉ tiếp nhận và đề cao vai trò phân biệt của ý thức minh liễu ở trong ông. Ông chưa hiểu cái ý thức minh liễu mà ông có, cũng chỉ là sản phẩm của Như Lai tàng được biểu hiện thông qua "ngũ câu ý thức". Ông chưa hiểu vấn đề "tánh kiến giác minh" "kiến tinh minh giác". Từ đó, nảy ra ý niệm hoang mang ngờ vực: Rằng tánh thấy là tâm tánh, hay không là tâm tánh ? Tánh thấy ở trước mắt, hay không ở trước mắt… ?

Qua cuộc vấn đáp trắc nghiệm giữa hai thầy trò Phật đồng ý với ông A Nan rằng:

"Không có một vật nào là tánh thấy".

 

Cuộc trắc nghiệm lại được tiếp theo. Rồi Phật cũng đồng ý và xác định với ông A Nan rằng:

"Không có một vật nào không phải là tánh thấy".

 

Sự xác định của đức Phật đối với ông A Nan rõ là mâu thuẫn lạ kỳ, làm cho ông A Nan và đại chúng dao động hoang mang cao độ. Đại chúng vẫn biết rằng: lời nói của Như Lai là chơn chánh là thành thật, không tráo trở, dối gạt phỉnh phờ. (Như Lai thị chơn ngữ giả, thật ngữ giả, bất dị ngữ giả, bất cuống ngữ giả). Và sự thật, Như Lai khai thị cho ông A Nan và đại chúng về chơn lý "bất tức bất ly" của bản thể và hiện tượng. Là hiện tượng, không có hiện tượng nào không ở trong bản thể. Một bản thể, không bản thể nào không biểu hiện thông qua hiện tượng. Hiện tượng không là bản thể, nhưng bỏ hiện tượng tìm bản thể, như bỏ sóng tìm nước không sao có nước. Bản thể không rời hiện tượng nhưng bảo hiện tượng là bản thể, như trẻ con, ngỡ sóng là nước thì không sao biết được nước là gì. Sóng không là nước, nhưng sóng không rời nước. Nước không là sóng, nhưng nước không rời sóng. Nước và sóng bất tức bất ly".

Tánh thấy và vật bị thấy vốn là tâm tánh nhiệm mầu cũng "bất tức bất ly" như vậy.

 

*

* *

 

BỒ TÁT VĂN THÙ CẦU PHẬT THƯƠNG XÓT…

PHẬT DẠY: TÁNH THẤY KHÔNG THỂ ĐẶT VẤN ĐỀ: "LÀ" HAY "KHÔNG LÀ"

 

Bấy giờ trong đại chúng, những vị chưa chứng quả vô học, nghe Phật khai thị chân lý thậm thâm ấy, mờ mịt chưa hiểu thế nào, sanh lòng sợ hãi, không giữ được chánh niệm.

Như Lai biết đại chúng tâm ý rối loạn, khởi lòng từ an ủi ông A Nan và đại chúng: Các thiện nam tử ! Bậc vô thượng pháp vương, lời nói chân thật, đúng như tánh chân như, không dối gạt và lừa đảo quẩn quanh như bốn thứ nghị luận bất tử của bọn Mạt Già Lê. Các ông hãy suy nghĩ chín chắn, chớ phụ lòng thương xót của tôi.

Bấy giờ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, thương xót hàng tứ chúng, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy đảnh lễ Phật, chấp tay cung kính thưa rằng: Bạch Thế Tôn ! Đại chúng đây không hiểu được chỗ Như Lai phát minh hai nghĩa: "Là" hay "Không là" đối với cái thấy và sắc không. Bạch Thế Tôn ! Nếu những hiện tượng sắc không tiền cảnh là cái thấy thì lẽ ra có chỗ chỉ được. Nếu không là cái thấy thì lẽ ra không thể thấy. Nay đại chúng không hiểu nghĩa ấy do đâu, nên mới kinh sợ, chớ không phải vì thiện căn nhiều đời ít ỏi. Kính mong Như Lai thương xót phát minh chỉ rõ các vật tượng ấy và cái thấy vốn là thứ gì mà rời ngoài các ý nghĩa: "Là" hay "Không là" như vậy ?

Phật bảo Bồ Tát Văn Thù và đại chúng:

Thập phương Như Lai và các đại Bồ Tát tự trụ tam ma đề, thì cái "thấy" cái "bị thấy" và các nhớ nghĩ, tưởng tượng đều như hoa đốm trong không chẳng có thật. Bản thể của chúng vốn là tâm tánh Bồ Đề nhiệm mầu, thanh tịnh sáng suốt, cho nên trong đó không có vấn đề: "Là" hay "Không là".

Văn Thù ! Nay tôi hỏi ông: Như ông là Văn Thù, còn có "là Văn Thù" hay "không là Văn Thù" nữa chăng ?

Bạch Thế Tôn, Văn Thù thưa. Thật vậy, tôi, thật Văn Thù thì không thể có "là Văn Thù". Vì sao ? Nếu có "Là" hay "Không là" hóa ra đã có hai Văn Thù. Nhưng tôi là Văn Thù không còn có Văn Thù nào khác, cho nên không thể đặt vấn đề "Là" hay "Không là".

Phật bảo: tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt và các thứ sắc không cũng như vậy. Tất cả là biểu hiện của chân tâm thanh tịnh tròn đầy, là Bồ Đề vô thượng, trong sáng nhiệm mầu. Vì mê lầm, nhận là sắc, không, thấy, nghe, ví như mặt trăng thứ hai. Sự thật mặt trăng vốn không thêm bớt, do mắt lòa mà thấy ra như vậy. Trong đó không thể đặt vấn đề: Cái nào "là" trăng, cái nào "không là" trăng. Các ông phát minh ra cái thấy và trần cảnh bị thấy đều là vọng tưởng. Không thể trong đó, nêu ra cái nào "là" cái nào "không là". Tất cả đều là chân tánh nhiệm mầu, một thể sáng suốt thanh tịnh, cho nên vượt ngoài sự "chỉ" hay "không chỉ" được của các ông.

 

*

* *

 

 

 

TRỰC CHỈ

 

Lục căn của con người, ở mặt trái của nó, người ta chỉ biết qua cái công dụng thấy, nghe… tầm thường của nó. Những cái thấy nghe đó, thường làm cho con người đau đầu, nhức óc căng thẳng thần kinh hơn là làm cho con người hưởng được những phút giây thoải mái. Ít có ai phát hiện phía mặt thật của lục căn mình. Mặt thật của lục căn, thiền gia gọi là "bản lai diện mục" của chúng ta.

Bản lai diện mục của con người, vốn trong trắng hiền lành, an nhiên tự tại, chẳng vướng vô minh, không vương triền phược. Từ vật lý đến tâm lý của con người, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới. Vì vậy, không thể đem thứ ý thức thô phù vọng tưởng để phân biệt đúng đâu là cái thấy và đâu không là cái thấy.

Pháp giới tánh hàm dung bất nhị. Như Lai tàng bản thể nhất chân. Một là tất cả. Tất cả là một. Còn lấy cái nào để chỉ cái nào ? Còn gì vô lý bằng khi người ta lấy tay chỉ đây là vàng, kia không là vàng trong toàn thân con sư tử vàng duy nhất.

 

*

* *

 

TÁNH THẤY RỜI TẤT CẢ TƯỚNG, NHƯNG KHÔNG NGOÀI TẤT CẢ PHÁP. GIÁO LÝ NHƠN DUYÊN VẪN CHƯA LÀ ĐỆ NHẤT NGHĨA, THUYẾT TỰ NHIÊN LÀ MỘT NHẬN THỨC SAI LẦM CHƠN LÝ VŨ TRỤ

 

 

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Đúng như lời pháp vương dạy: tâm tánh cùng khắp mười phương thế giới, yên lặng thường trú, không có sanh diệt. Song nếu đem lời dạy nầy, so sánh với thuyết của Phạm Chí Sa Tỳ Ca La về "minh đế" và thuyết của bọn ngoại đạo Đầu Khôi về "chân ngã khắp cùng", khác nhau chỗ nào ?

Hồi ở núi Lăng Già, Thế Tôn dạy cho ông Đại Huệ rằng: Bọn ngoại đạo thường nói "tự nhiên" còn Phật thì nói "nhân duyên".

Tôi nay suy nghĩ cái tâm tánh vốn "tự nhiên", vì nó không phải sanh cũng không diệt. Nó xa rời tất cả điên đảo hư vọng. Tôi nghĩ cái "tự nhiên" nầy khác với thuyết "tự nhiên" của bọn ngoại đạo. Xin Thế Tôn khai thị cho chúng tôi để được tâm tánh sáng suốt, khỏi rơi vào tà kiến.

Phật bảo: A Nan ! Như Lai đã dùng phương tiện chỉ dạy như vậy mà ông còn chưa tỏ ngộ, lại lầm là "tự nhiên".

A Nan ! Nếu là "tự nhiên" thì ông thử chứng minh cái gì là "tự thể" của cái "tự nhiên" ấy ? Ông hãy xét kỹ tánh thấy nhiệm mầu lấy cái gì làm tự ? Lấy sáng làm tự hay lấy tối làm tự ? Lấy rỗng không làm tự hay lấy ngăn bít làm tự ?

A Nan ! Nếu lấy sáng làm tự lẽ ra không thấy được tối. Nếu lấy rỗng không làm tự lẽ ra không thấy được ngăn bít. Bởi vì nếu lấy sáng làm tự, thì đến khi tối tánh thấy đã diệt mất đi rồi làm sao thấy được tối… ?

Bạch Thế Tôn ! A Nan thưa, tánh thấy nhiệm mầu nầy, chắc không phải tự nhiên. Nay tôi phát minh tánh thấy do "nhân duyên" sanh. Xin Như Lai dạy cho, tôi phải hiểu thế nào cho hợp với tánh "nhân duyên" của Phật ?

Phật bảo: Ông nói tánh thấy, do "nhân duyên". Vậy tôi hỏi ông: Tánh thấy đó, nhân sáng mà thấy hay nhân tối mà thấy ? Nhân trống không mà thấy hay nhân ngăn bít mà thấy ? Nếu nhân sáng mà thấy thì lẽ ra không thấy được tối. Nhân tối thì cũng như vậy…

Ông bảo rằng cái thấy do "duyên" cũng không đúng. Duyên sáng mà thấy hay duyên tối mà thấy ? Duyên rỗng không mà thấy hay duyên ngăn bít mà thấy ? Nếu duyên ngăn bít mà thấy, lẽ ra không thấy được rỗng không. Duyên tối… cũng lại như vậy.

A Nan ! Ông nên biết: tánh thấy nhiệm mầu, sáng suốt, không phải "thân" không phải "duyên", không phải tự nhiên, không phải không tự nhiên, không có cái "phải", hay "không phải". Không có cái "là" hay "không là". Nó "rời" tất cả tướng; nhưng nó không ngoài tất cả pháp. Ông đem các danh tướng hí luận thế gian mà nhận thức phân biệt, chẳng khác lấy tay nắm bắt hư không chỉ thêm nhọc sức.

Bạch Thế Tôn ! A Nan thưa, cái tâm tánh nhiệm mầu, nếu không phải nhân duyên, cớ sao Đức Thế Tôn đã từng dạy các Tỳ-kheo, rằng tánh thấy có bốn duyên: Khoảng không, ánh sáng, tâm và mắt ?

Phật bảo: Đó là tôi nói về các tướng nhân duyên thế gian, không phải đệ nhất nghĩa.

A Nan ! Các người thế gian khi họ nói: "tôi thấy". Vậy thế nào họ gọi là thấy, thế nào gọi là không thấy ?

A Nan thưa: Người đời nhân ánh sáng mặt trời, mặt trăng hoặc đèn mà thấy các sắc tướng, họ gọi đó là thấy. Nếu không có các thứ ánh sáng đó, họ gọi là không thấy.

Phật bảo: Nếu lúc không có ánh sáng mà gọi là không thấy thì lẽ ra lúc đó không thấy tối. Nếu đã thấy tối thì đó chỉ là không sáng, chớ không phải không thấy. Nếu lúc tối, vì không thấy sáng mà gọi là không thấy thì lúc sáng không thấy tối cũng nên gọi là không thấy. Vậy thì sáng tối cả hai đều là không thấy !

A Nan ! Thực tế không phải vậy. Tối và sáng tự lấn át nhau, tánh thấy của ông chẳng có lúc tạm không. Do đó, biết rằng tối và sáng đều thấy. Và, khi thấy sáng, tánh thấy không phải sáng. Lúc thấy tối, tánh thấy không phải tối. Lúc thấy không, tánh thấy không phải hư không. Khi thấy bít, tánh thấy không phải tướng bít.

Ông nên biết rằng:

Tánh thấy trong khi thấy, tánh thấy đó không phải là tánh thấy bản thể. Tánh thấy đó còn cự ly đối với tánh thấy bản thể. Tánh thấy đó chưa là tánh thấy bản thể.

Với tầm vóc sâu xa nhiệm mầu của tâm tánh, ông lại đem những thuyết nhân duyên, tự nhiên, hòa hợp, không hòa hợp mà luận đàm, không sao đến được. Các ông là Thanh Văn hẹp hòi, nông cạn, không nhận được thật tướng thanh tịnh. Nay tôi chỉ dạy, ông khéo suy nghĩ, không được biếng trễ trên đường Bồ Đề !

 

*

* *

 

 

 

TRỰC CHỈ

 

Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng vạn hữu phát xuất từ đâu, thế giới và con người do gì sanh là vấn đề tư tưởng ở vào tầm cỡ trọng đại. Từ thượng cổ hun hút xa xưa, đến nay thế kỷ 20 gần hết mà vẫn chưa có được sự nhất trí nào của con người, dù là người cùng chủng tộc, ngữ ngôn trong một nước !

Đức Phật ra đời này đã tròn 25 thế kỷ. Trước Phật đã có, cùng thời với Phật cũng có nhiều dị phái triết gia, họ cũng đề ra chủ thuyết, cắt nghĩa vấn đề thế giới và con người, tức là vấn đề vũ trụ nhân sanh quan của họ. Chủ thuyết thì nhiều; mỗi mỗi giải thích trình bày theo sở kiến mình, thật đa dạng và phong phú. Có điều không mấy lạc quan là khi đúc kết các dòng tư tưởng, người ta thấy không có chủ thuyết nào giống với chủ thuyết nào. Nhóm phạm chí Sa tì Ca La chủ trương "minh đế". Phái ngoại đạo Đầu Khôi chủ trương "thần ngã". Phái ngoại đạo tự nhiên đề xướng thuyết "tự nhiên". Phái Đại Phạm tôn sùng Phạm Thiên. Sau này có các phái chủ trương "Thiên chủ tạo vật", đấng "A La", "Huyền thiên thượng đế"…

Với Thế Tôn ta, Đức Phật không chủ trương có một đấng "siêu nhiên", "siêu nhân" như vậy.

Đứng bên mặt hiện tượng vạn hữu, Phật dạy.

Vạn Pháp Nhơn Duyên Sanh.

Đứng bên mặt bản thể chơn như,

Phật dạy:

Phi nhơn duyên; Phi tự nhiên. Phi hòa; Phi hợp. Pháp nhĩ như thị.

Kế thừa truyền thống đó, 600 năm, sau Phật Niết Bàn, thuyết Chơn như duyên khởi được dựng lên, Mã Minh Bồ Tát đường hoàng tuyên bố…

"Nhất thiết chư pháp, tùng bản dĩ lai, ly văn tự tướng, ly ngôn thuyết tướng ly tâm duyên tướng, tất cánh bình đẳng, bất khả phá hoại, duy thị nhất tâm, cố danh chân như"…

 

*

* *

 

DO NHẬN THỨC SAI LẦM KHIẾN CHO CON NGƯỜI BỎ MẤT BẢN TÂM THANH TỊNH BẢN GIÁC THƯỜNG TRÚ CỦA MÌNH

 

Ông A Nan bạch Phật: Thế Tôn đã vì chúng tôi, chỉ dạy về nhân duyên, tự nhiên, hòa hợp và không hòa hợp. Tâm chúng tôi còn chưa tỏ ngộ. Nay nghe Phật dạy: Tánh thấy trong khi thấy, tánh thấy đó không phải tánh thấy bản thể… làm cho chúng tôi càng thêm mờ mịt. Cúi xin Phật thương xót bố thí tuệ nhãn, khai thị cho chúng tôi về bản tâm thanh tịnh, bản giác thường trú.

Phật bảo: A Nan ! Ông được năng khiếu nhớ lâu, nhưng cái đó chỉ giúp cho ông phần học rộng. Đối với pháp Chỉ Quán thẩm sâu mầu nhiệm ông còn chưa rõ. Tôi sẽ vì ông chỉ bày và cũng khiến cho những người hữu lậu tương lai được quả Bồ Đề.

A Nan ! Tất cả chúng sanh trong thế gian, luân hồi sanh tử do hai thứ nhận thức sai lầm kết thành nguyên nhơn lưu chuyển.

Một, nhận thức sai lầm biệt nghiệp. Ví như người bệnh mắt hóa lòa, ban đêm trông ngọn đèn thấy có vầng tròn năm màu. Cái vầng tròn năm màu vốn không thực có đối với người không bị bệnh lòa. Nhưngg nó không phải không có đối với người mắc bệnh. Vầng tròn ấy không phải màu sắc của cái thấy hay của đèn. Nó không tự sanh, cũng không phải do đèn hay do mắt đã sanh. Nguyên nhơn của vầng tròn, do mắt bệnh hóa lòa. Cái vầng tròn và cái thấy vầng tròn đều là bệnh lòa. Nhận thấy được bệnh lòa thì tánh thấy đó không bệnh. Do đó, không nên nói cái vầng tròn năm màu là của đèn hay của cái thấy. Cũng không được nói: Rằng không phải của đèn hay không phải của cái thấy. Lại ví như vành trăng thứ hai. Nó không phải trăng mà cũng không phải bóng. Vành trăng đó vốn không có, nên không thể gán cho nó "phải" hay là "không phải" mặt trăng. Mặt trăng thứ hai có là do động tác của ngón tay ấn mắt. Người trí không nên bảo: Đó là hình trăng, hay không phải hình trăng. Đó là cái thấy hay ra ngoài cái thấy. Vầng tròn năm màu cũng vậy. Nó do bệnh lòa thành có. Gọi nó là của đèn hay của cái thấy đều là sai. Ráng sức đấu tranh, rằng không phải của đèn hay không phải của cái thấy càng thêm hí luận.

Hai, nhận thức sai lầm cộng nghiệp. A Nan ! Cõi Diêm phù đề, trừ nước biển bao la, trong đó đất bằng có 3.000 châu. Ở giữa có một châu lớn. Chung quanh có đến 2.300 nước. Châu nhỏ chỉ có hai nước thôi. Những chúng sanh trong một nước gặp phải năm thời tiết không thuận hòa thì cùng thấy những hiện tượng bất thường: Hoặc thấy sao phướng, sao sa, và chỉ có những người trong nước đó thấy, chúng sanh trong nước kế cận thì không thấy và cũng không nghe.

A Nan ! Nay tôi đem hai việc đó kết hợp so sánh làm thí dụ để chỉ cho ông.

A Nan ! Cái nhận thức sai lầm biệt nghiệp của chúng sanh, ví như người bệnh mắt, trông thấy ngọn đèn hiện ra vầng tròn năm màu, tưởng là cảnh thật trước mắt. Sự thật vầng tròn do bệnh lòa của người đau mắt tạo thành. Lòa là bệnh của cái thấy, không phải sắc tướng tạo ra. Cái thấy, thấy được bệnh lòa cái thấy đó vốn không có bệnh. Cũng vậy, hiện nay ông dùng con mắt xem thấy núi sông cảnh giới và các chúng sanh đều do bệnh lòa vô thỉ tạo thành. Cái thấy và cái bị thấy không thể tách rời ra. Do vô minh, chúng sanh vọng kiến thấy tiền cảnh in tuồng là "vật đối lập" với mình. Sự nhận thức sai lầm đó do bệnh lòa NĂNG KIẾN, SỞ KIẾN của tâm tánh giác minh thanh tịnh. Chừng nào nhận thức rằng: Cái thấy, thấy vầng tròn năm màu là bệnh, thì sự nhận thức đó vốn không có bệnh. Đó là ý nghĩa thẩm sâu: "Kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập". Bản chất của tánh thấy là: tánh kiến giác minh, kiến tinh minh giác, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới.

A Nan ! Do nhận thức sai lầm nghiệp riêng, người bệnh lòa thấy ngọn đèn có vầng tròn năm màu. Do nhận thức sai lầm nghiệp chung, chúng sanh cùng thấy những hiện tượng bất thường. Do nhận thức sai lầm vô thỉ, tất cả chúng sanh nhận lấy các bệnh: Tham, sân, si… Ta, người, thương ghét… để rồi nhận lấy sanh tử khổ đau của các nguyên nhân đau khổ đó. Nếu xa rời các bệnh duyên "năng", "sở" thì chúng sanh mười phương đồng chung bản thể cùng một tâm tánh nhiệm mầu. Tất cả đều viên mãn tánh Bồ Đề trong bản giác thường trú của mình.

 

*

* *

 

 

 

TRỰC CHỈ

 

Đoạn kinh nầy Phật nêu ra hai thứ vọng kiến: Biệt nghiệpĐồng Phận. Biệt nghiệp vọng kiến là vọng kiến của cá nhân. Đồng phận vọng kiến là vọng kiến của xã hội.

Sự thật của biệt nghiệp vọng kiến vốn không có cái vầng tròn năm màu quanh một ngọn đèn.

Sự thật của đồng phận vọng kiến là những hiện tượng bất thường… chỉ có với những người cùng ở trong một nước gặp phải năm thời tiết bất hòa.

Cá nhân vọng kiến chỉ vì bệnh lòa mà vầng tròn năm màu sanh ra.

Xã hội vọng kiến chỉ do cùng ở chung một nước mà những hiện tượng bất thường… được thấy.

Người không bệnh mắt, vầng tròn không có trước đèn.

Chúng sanh nước kế cận không chung quốc độ nên những hiện tượng bất thường không có.

Như Lai Thế Tôn, vì không vọng kiến vô thỉ, nên thấy "pháp giới bất nhị". Như Lai tàng thanh tịnh "nhất châu".

Chúng sanh bị nhận thức sai lầm vô thỉ, cái thấy trở thành các bệnh: Ngã, nhân, bỉ, thử, thủ, xả thân, sơ… Đó là trần lao, là vô minh bụi bặm. Chúng che lấp mất cái bản thể vốn thanh tịnh của Chơn tâm thường trú.

Ngày nào chúng sanh xa rời vọng kiến sẽ nhận thức rõ pháp giới nhất chân. Chúng sanh trong mười phương đồng một tâm tánh nhiệm mầu. Hiện tượng vạn hữu chỉ là "vật trang trí" từ thường trú chơn tâm biểu hiện.

Do vậy, Như Lai nói: tánh thấy trong khi thấy, tánh thấy đó không phải tánh thấy bản thể. Tánh thấy đó còn cự ly với tánh thấy bản thể. Tánh thấy đó chưa là tánh thấy bản thể vốn thanh tịnh bản nhiên…

Lời dạy thậm thâm của Phật, nhưng thiết tưởng không có gì vượt quá tâm thiền định tư duy của người hành giả đệ tử Như Lai.

 

*

* *

 

TÁNH THẤY NGOÀI HAI NGHĨA: HÒA HỢP VÀ KHÔNG HÒA HỢP

 

Phật bảo: A Nan ! Dù ông đã ngộ tâm tánh bản giác nhiệm mầu sáng suốt, không phải nhân duyên, không phải tự nhiên, nhưng ông còn chưa rõ tâm tánh sanh ra do hòa hợp hay không hòa hợp.

A Nan ! Ông nghĩ kỹ xem, tánh thấy nhiệm mầu thanh tịnh của ông nó hòa với ánh sáng hay hòa với tối ? Hòa với thông hay hòa với ngăn bít ? Nếu hòa với sáng, hiện nay ông thấy sáng, tánh thấy hòa chỗ nào: Tánh thấy và tướng sáng có thể nhận được, còn cái hình trạng "hòa" ra sao ? Nếu tướng sáng ngoài tánh thấy, làm sao thấy được sáng ? Nếu tướng sáng là tánh thấy, hóa ra thấy được tánh thấy, hóa ra thấy được tánh thấy, còn gì vô lý bằng ? Với tướng tối, tướng thông và tướng bít cũng vậy.

Lại nữa, A Nan ! Hiện nay tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt của ông, nó hợp với sáng hay hợp với tối ? Hợp với thông hay hợp với bít ? Nếu hợp với sáng, đến khi tối tướng sáng mất đi rồi, tánh thấy không còn hợp được với tối, làm sao thấy được tối ? Nếu không hợp với tối mà thấy được tối, khi hợp với sáng lẽ ra không thấy được sáng ! Đã không thấy được sáng, làm sao hợp với sáng và biết được sáng không phải là tối ? Với tướng thông, tướng bít cũng vậy.

A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Nay tôi lại nghĩ: Tánh thấy nhiệm mầu đối với trần cảnh và các tưởng niệm nhớ nghĩ không hòa hợp chăng ?

Phật bảo: Nay ông lại nghĩ: rằng tánh thấy không hòa hợp với sáng hay không hòa hợp với tối ? Không hòa với thông hay không hòa với bít ? Nếu không hòa với sáng thì giữa tướng sáng và tánh thấy phải có lằn ranh. Ông hãy xét kỹ: Chỗ nào là tướng sáng, chỗ nào là tánh thấy ? Chỗ nào là ranh giới giữa hai thứ kia ? A Nan ! Nếu trong tướng sáng không có tánh thấy, tướng sáng và tánh thấy không đến nhau, tất nhiên tánh thấy sẽ tối, tướng thông và tướng bít cũng vậy.

 

*

* *

 

 

 

TRỰC CHỈ

 

Tánh thấy là nhân duyên sanh hay tự nhiên sanh đã được Phật hướng dẫn quá rõ ràng. Nêu hai vấn đề: Biệt nghiệp vọng kiến và đồng phận vọng kiến ở đoạn trước, cũng nhằm chỉ rõ tánh chất sai hại của tánh thấy, khi tánh thấy bị nhận thức sai lầm.

… "Tánh kiến giác minh, kiến tinh minh giác, thanh tịnh bản nhiên chu biến pháp giới, tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện". Nhận rõ tính chất thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới của tánh thấy thì những vấn đề: nhân duyên, tự nhiên hay phi nhân duyên, phi tự nhiên; hòa, hợp hay phi hòa hợp tất cả đều trở thành hí luận !

 

*

* *

 

BỐN KHOA BẢY ĐẠI VỐN LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG

 

A Nan ! Ông còn chưa rõ, tất cả tướng phù trần hư huyễn đều là vật huyễn sanh huyễn diệt trong bản thể Như Lai tàng. Các huyễn vọng gọi là tướng, tánh thực của tướng là thể giác minh mầu nhiệm (Diệu giác minh thể). Năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, nhân duyên hòa hợp vọng gọi là sanh, nhân duyên chi ly vọng gọi rằng diệt. Chúng sanh không biết sự sanh diệt đi lại, chỉ là sự vận hành biến dịch mầu nhiệm của Như Lai tàng. Sự vật hiện tượng luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau. Trong Như Lai tàng tìm cho ra tử sanh mê ngộ đến đi, không thể được.

 

*

* *

 

NĂM ẤM LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG

 

    1. Sắc ấm:
    2. A Nan ! Sao gọi năm ấm là tánh chân như mầu nhiệm biểu hiện của Như Lai tàng ?

      A Nan ! Ví như có người dùng mắt trong sáng nhìn hư không thanh tịnh, chỉ thấy hư không trong suốt không có gì khác. Mắt người kia bỗng dưng đờ đẫn mỏi mệt, trông hư không thấy hoa đốm lăng xăng, các tướng huyễn hư rối loạn. Sắc ấm cũng như vậy.

      A Nan ! Các hoa đốm không phải từ hư không đến, không phải từ con mắt ra. Nếu từ hư không đến, hư không chẳng còn là hư không nữa. Nếu tứ mắt ra, ắt phải có lúc trở vào. Nếu vậy, khi ra thành hoa đốm làm mờ loạn hư không, lúc vào tại sao không thấy con mắt ?

      Sắc ấm là hư vọng không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên.

    3. Thọ ấm
    4. A Nan ! Ví như có người tứ chi an ổn, cơ thể điều hòa, không bị vui buồn tác động, tịch tĩnh như quên mình. Bỗng nhiên người kia đưa hai tay lên không xoa nhau, sanh cảm xúc: nóng, lạnh, trơn, rít… Thọ ấm cũng như vậy.

      A Nan ! Những cảm xúc hư vọng kia, không phải từ hư không đến. Không phải từ bàn tay ra. Nếu từ hư không đến sanh cảm xúc nơi bàn tay, sao không sanh cảm xúc ở thân thể ? Không lẽ hư không biết lựa chỗ để sanh cảm xúc ?

      Thọ ấm là hư vọng không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên.

    5. Tưởng ấm
    6. A Nan ! Ví như nghe nói quả mơ chua, miệng người kia tươm nước bọt. Nghĩ đứng chỗ chênh vênh, lòng bàn chân cảm nghe ghê rợn. Tưởng ấm cũng như vậy.

      A Nan ! "Mơ chua", vốn là một âm thanh, nó không phải từ quả mơ, không phải từ miệng vào. Nếu do mơ ra, quả mơ tự nói, sao phải đợi người ta nói. Nếu do miệng vào, lẽ ra miệng tự nghe, cần chi đến lỗ tai ! Nếu riêng lỗ tai nghe, sao nước bọt không chảy lỗ tai lại tươm ra miệng ? Nghĩ đứng chỗ chênh vênh cũng vậy.

      Tưởng ấm là hư vọng, không phải nhân duyên không phải tự nhiên.

    7. Hành ấm
    8. A Nan ! Ví như dòng nước dốc cuồn cuộn tương tục tuôn tháo. Dòng nước không nhân hư không sanh, không nhân nước có. Nó không phải tánh nước nhưng không ngoài hư không và nước. A Nan ! Nếu nhân hư không sanh, mười phương hư không vô tận, nước vô tận, thế gian này chìm đắm cả rồi sao ? Nếu nhân nước có, dòng nước dốc không là nước sữa. Bởi vì, ai cũng có thể chỉ tướng của nước và dòng nước khác nhau.

      Hành ấm là hư vọng, không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên.

    9. Thức ấm

 

A Nan ! Ví như có người lấy cái độc bình to bịt miệng, trong có đựng đầy hư không, đi xa ngoài nghìn dặm, tặng cho một nước khác. Hư không đó, chẳng phải đến từ bên nước kia, cũng không phải đưa vào nước bên nầy. Vì, nước được tặng, hư không chẳng dôi thêm ra. Nước đem cho không vì vậy, hư không vơi bớt.

Thức ấm là hư vọng, không phải nhân duyên cũng không phải tự nhiên.

*

* *

 

 

 

TRỰC CHỈ

Bốn khoa bảy đại chỉ là hiện tượng trong Như Lai tàng. Như Lai tàng là bản thể của tất cả chủng tử của hiện tượng vạn hữu.

Vấn đề "Hiện tượng vạn hữu do gì sanh", cho đến thế kỷ 20 này vẫn còn là một vấn đề chưa ngã ngũ. Một vấn đề mà loài người sẽ nói mãi, có lẽ không bao giờ có sự nhất trí với nhau.

Bảo rằng hiện tượng vạn hữu do "đấng tạo vật sanh", ở vào thời đại văn minh nầy, người ta cho đó là quan niệm ngây thơ ấu trĩ. Bảo rằng do "tự nhiên sanh" đó là một thứ tri kiến của người không tri kiến tí nào. Bởi vì trước mắt mọi người, không có cái gì "tự nhiên" cả.

Với nền giáo lý Phật, trong những năm dài thuyết giáo, Phật thường dạy cho các đệ tử: rằng "vạn pháp do nhân duyên sanh"… Cái chân lý đó, càng ngày càng rạng rỡ. Thế kỷ 20 nầy, loài người tiến đến đỉnh cao của trí tuệ, của khoa học văn minh người ta đã chứng minh được rằng một nguyên tử, hạt cơ bản của nguyên tử cũng chưa phải là một đơn vị "tự nhiên" mà nó còn kết hợp bởi những tính… và chất… mà người ta chưa tìm ra ngôn từ tương xứng để xưng gọi. Sự gặp gỡ đó, ta có thể tự hào và kết luận rằng: giáo lý "nhân duyên"…. Của Phật giáo là niềm vui hãnh diện của những người đệ tử có lòng tín mộ tôn thờ Đức Phật làm vị "Bổn sư" mình.

Vậy mà ở kinh Thủ Lăng Nghiêm nầy. Đức Phật thẳng thắn nói với ông A Nan: rằng giáo lý "nhơn duyên" mà Như Lai nói chưa phải thứ giáo lý "Liễu nghĩa". Quả là một tiếng sấm lưng trời ! Nói "đấng tạo vật" sanh, bị Phật rầy; nói "thần ngã" sanh, bị Phật trách; nói "Phạm Thiên" sanh, bị Phật chê; nói "tự nhiên" sanh, bị Phật bác; nói "đấng A La" sanh, Phật không chịu; nói "hòa hợp" sanh, bị Phật nạn,; nhớ lời Phật dạy, nói "nhân duyên" sanh, nay cũng không xong ! Vậy thì:

A ? Cái gì sanh vũ trụ vạn hữu ?

Người học Phật cần tư duy, phải tư duy sâu sắc, nhà Phật gọi là "tham thiền". Người ta thường thắc mắc, khi tham thiền phải tham những gì ? Thì đây chính là "thoại đầu" là một đề tài lớn để cho người đệ tử Phật "tham" và "tọa":

"Vũ trụ vạn hữu do gì sanh ?"

Tham cho đến khi trí tuệ bừng sáng, tháo gỡ hoàn toàn cái gút thắt của vấn đề, chừng đó, hành giả chợt thấy:

"Bát nhã hoa khai vạn pháp, tức tâm, tức Phật"

"Bồ đề quả thục Nhất chân phi sắc phi không".

(HÁN BỘ HẾT QUYỂN 2)


Tựa tập I | Mục lục I | I. 1-2 | I. 3a | I. 3b | Tựa tập II | Mục lục II | II. 4 | II. 5 | II. 6

 


Cập nhật: 1-5-2001

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang