Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Mấy ghi nhận sau khi đọc "Linh Mục Trần Lục – Thực Chất Con Người & Sự Nghiệp" của Bùi Kha và Trần Chung Ngọc. Hoa Kỳ: Giao Điểm, 1999.
Nguyễn Văn Hóa

Ghi nhận một: đối thoại là cuộc chạy đua về lý luận

Theo các từ điển Hán Việt đã xuất bản, từ "đối" trong đối thoại có một định nghĩa chung là sự đáp lại, trả lại, một cặp, một đôi; "thoại" là lời nói, nói chuyện. Trong ngôn ngữ Anh Mỹ, danh từ dialogue (đối thoại) ý nghĩa được mở rộng ra là một cuộc trao đổi hay tranh luận giữa những người có ý kiến khác nhau.

Nếu đang là một cuộc tranh luận, đối thoại chưa hẳn sẽ đi tới kết luận chung cuộc là ai đúng, ai sai; nhưng ít ra nó cũng trình bày cho những người tham dự hay chiếu cố tới cuộc đối thoại những sự kiện, lý lẽ, chứng minh một lập luận để tìm ra chân lý (sự thật). Tuỳ theo tính chất của các cuộc đối thoại, lập luận ở mỗi phía sẽ tạo ra những tiền đề và tổng hợp đề khác nhau; nhưng tổng hợp đề này vẫn nằm trong phạm trù tư duy, lý luận. Sử học không dừng lại ở phạm trù tư tưởng, bởi mỗi một biến cố lịch sử là tác động do con người tạo nên. Tác động ấy là kết quả từ tư tưởng, và cũng có thể là nguyên nhân cấu tạo tư tưởng. Nghiên cứu lịch sử còn là sự khảo sát các biến cố ấy: nguyên nhân, sự kiện và hậu quả của nó.

Đọc trong Kinh Thánh Cựu Ước có đoạn : "Chúa trời là người đàn ông của chiến tranh. Gia Vê là tên của ông ta. Bàn tay phải của Người, ôi Gia Vê, xé tan từng mãnh quân thù" (Moses, Exodus 15: 3,6-7). Nếu chỉ nghiên cứu về tư duy tôn giáo thuần tuý, đoạn Kinh Thánh này vẫn còn thuộc phạm trù lý luận; nhưng nếu nghiên cứu sự hình thành và phát triển của đạo GiaTô La Mã (lịch sử tôn giáo), buộc lòng người nghiên cứu phải liên hệ các biến cố lịch sử đẫm máu của đạo này tạo nên, có quy luật biện chứng nào không giữa tư duy (Kinh thánh) và các biến cố cụ thể (lịch sử). Do đó nghiên cứu sử học trước hết là truy tầm về sự thật của quá khứ.

Vậy thì những người viết sử mà không tôn trọng sự thật, không biết hoặc là cố tình không dùng đến các phương pháp, phương tiện để khảo sát sư kiện, không có bằng cớ, chứng tích của sự thật thì không thể gọi là những nhà sử học. Tệ hơn nũa, có người viết sử lại bóp méo sự thật, dùng một phần của sự thật để xuyên tạc, biện minh cho sự bất chính của quá khứ, mong cầu cho một tương lai vô minh, người ta đã nôm na gọi họ là những nhà nguỵ sử.

Sử học không thể là "một môn học lý giải và tiên liệu mọi biến chuyển của xã hội, từ quá khứ qua hiện tại, suốt đến tương lai" (Đỗ Thái Nhiên, "Người trí thức", Nhân Văn tháng 8/1991, tr.16). Nếu sử học là một môn học lý giải các biến cố, sự kiện do con người tác động, người ta có thể lý giải các biến cố, sự kiện ấy từ xấu thành tốt, từ bất chính thành chính nghĩa, từ phản dân hại nước thành những kẻ có công với đất nước.

"Cụ Sáu" Trần Lục là một nhân vật xuất thân từ Phát Diệm miền Bắc Việt Nam, một linh mục Gia Tô giáo, kẻ đã hộp tác với thực dân Pháp, với Giáo hội Mẹ (Vatican) để chống lại những người yêu nước bằng các hành động cụ thể (mà hầu như một học sinh trung học hay đại học Việt Nam có học đến sử Việt, đều biết đến ít nhiều) – giờ đây được tuyên dương là một vĩ nhân của dân tộc là một việc làm phản lại sử học. Cuốn sách "Trần Lục" (một tuyển tập của 22 nhà trí thức GiaTô, từ khoa bảng cho đến các chức tôn giáo, xuất bản năm 1996 ở hải ngoại) đã làm công việc phản sử học này.

Cho nên khi đọc "Linh mục Trần Lục..." của hai tác giả Bùi Kha và Trần Chung Ngọc, tôi không cho đó là một cuộc đối thoại giữa sự khác biệt về tư duy và chính kiến, mà là một vạch trần xuyên tạc sự thật lịch sử.

Ghi nhận hai: một phương pháp không mới, nhưng rất khoa học trong vấn đề viết sử

Sau khi đi sâu vào nội dung của "LM Trần Lục: Thực chất...", tôi rút ra được một số phương pháp mà hai tác giả của cuốn sách này đã áp dụng như sau:

+ Sử dụng nguồn tài liệu có giá trị

Thế nào là một tài liệu sử có giá trị ? Theo tôi, tài liệu đó phải xuất phát từ nhiều liên hệ tới biến cố lịch sử trong thời điểm xảy ra. Tựu trung có ba lập trường chính: một, của phe liên hệ (trong trường hợp này tài liệu xuất phát từ Gia Tô giáo); hai, phe đối nghịch (là tài liệu sử của Cộng Sản, của triều Nguyễn và các phong trào Văn Thân, Cần Vương, của Phật Giáo [thật ra Phật Giáo không có tinh thần đối nghịch với Gia Tô, trái lại Gia Tô coi Phật Giáo như kẻ thù, nên tạm xếp vào đây], của những phong trào kháng chiến nhưng không có màu sắc Cộng Sản); phe khách quan (không có lập trường chính kiến, nhưng tôn trọng sự thật lịch sử). Giá trị còn được chứng thực không chỉ riêng ở các công trình nghiên cứu được thử nghiệm qua thời gian, mà còn ở tiểu sử, công trình nghiên cứu và sự nghiệp của chính tác giả.

+ Yếu tố thời điểm lịch sử và bối cảnh xã hội

Thời điểm mang tính thống nhất trong biến cố lịch sử, vì cùng một biến cố không thể có hai sự kiện khác nhau. Nếu thời điểm là mô hình, xương sống của các sử gia, thì bối cảnh xã hội chung quanh thời điểm đó là những cơ phận để tạo nên nhân dáng hoàn chỉnh, trung thực.

+ Phương pháp đối chiếu và tổng hợp

Đối chiếu là sử dụng mọi nguồn tài liệu dẩn chứng để so sánh sự kiện (biến cố), tính chất (phong trào quần chúng, cách mạng), vấn đề (tôn giáo, hiện tượng xã hội). Thẩm định sự đối chiếu có giá trị hay không tuỳ thuộc vào yếu tố sử dụng nguồn tài liệu có giá trị hay không. Từ đó, qua đối chiếu sự tổng hợp sẽ đưa tới một kết luận chân xác.

Tác giả Bùi Kha sau khi đưa ra sáu nguồn sử liệu để so sánh và phân tích về nhân vật Trần Lục đã đưa tới kết luận bảy tội của Trần Lục đối với dân tộc Việt Nam. Trần Chung Ngọc đã đưa ra năm tội. Tựu trung, tính chất của các tội này mang những tính chất rất giống nhau, mặc dầu hai tác giả đã làm việc trong hoàn cảnh riêng lẻ. Điều đó chứng minh có một điểm chung (common ground) khi người ta đứng trên lập trường dân tộc để nhìn vào lịch sử.

+ Phương pháp loại suy

Ba yếu tố nói trên sẽ là trụ chống cho phương pháp loại suy. Tác giả trần Chung Ngọc đã sử dụng phương pháp này một cách chặt chẻ, khúc chiết: Nếu bạn đọc đã đọc xong cuốn sách "Trần Lục" (của 22 tác giả Gia Tô), thấy còn lấn cấn về các suy nghĩ như: Trần Lục thưcự là một vĩ nhân ? Thế nào là một vĩ nhân ? Vĩ nhân nhờ vào thành quả: công trình kiến trúc xây nhà thờ Phát Diệm, một linh mục nhưng được triều đình nhà Nguyễn phong đến bốn tước vị; người đã đóng góp tích cực vào việc truyền đạo, mở mang nước Chúa ở miền bắc Việt Nam, thì hai tác giả Bùi Kha và Trần Chung Ngọc (trong "LM Trần Lục: thực chất con người & sự nghiệp" đã chứng minh cho thấy các yếu tố TL là một vĩ nhân, yêu nước, đạo đức đã bị loại trừ (exclusive); để chỉ còn phơi bày thực chất Trần Lục là tu sĩ phản quốc, kẻ gây đại họa cho dân tộc.

Xét về Trần Lục như một "anh tài" văn học: Tài văn học của Trần Lục được các tác giả Gia Tô dựa trên "ba tác phẩm lớn": Hiếu Tự Ca (1085 câu), Nữ Tắc Thường Lễ (1016 câu), Nịch Ái Vong Ân (440 câu). Nội dung ba tác phẩm lớn này là những bài vè làm theo thể lục bát. Vì là những bài vè dông dài như vậy, cho nên tôi chỉ nêu ra một số câu tiêu biểu mà tôi cho là hay nhất trong số vài ngàn câu trên:

"Phần hồn thì Chúa sinh ra
Xác này Chúa phó mẹ cha sinh thành..."

Để răn dạy phụ nữ Gia Tô:

"Đường kim mũi chỉ đàn bà
Nhiều khi đã thấy như là đỉa ngôi
Thôi thì học lấy cho rồi
Khéo người làm thợ, vậy tôi vá quần..."

thật là khó cho tôi không biết phải diễn tả thế nào cho phải về "anh tài văn học" của ông Trần Lục qua ba tác phẩm nói trên. Vậy xin nhờ nhà lý luận văn học Nguyễn Hưng Quốc, hiện ở nước Úc, kẻ từng gây "chấn động" giới văn học hải ngoại và trong nước qua tài biến bài thơ "Con Cóc" thành bài thơ hay, may ra tài văn học của Trần Lục sẽ được thể hiện.

Tóm lại, với phương pháp loại suy trong tác phẩm LMTL, đã đặt yếu tố con người thành hai vế đối nghịch và người đọc đã có thể dễ dàng chọn lựa câu trả lời chân xác (có yếu tố này thì không thể có yếu tố kia)

Hèn mọn/ Vĩ nhân
Tiểu tốt/ Anh tài
Phản quốc/ Yêu nước
Sát nhân/ Đạo đức
Giảo hoạt/ Chân thật
Kẻ cuồng tín ngu muội/ Yêu Chúa sáng suốt.

Ghi nhận ba: trí thức Gia Tô và "vết lăn trầm"

Mặc cảm là một khái niệm của phân tâm học. Freud đã khai triển khái niệm này và phân chia thành hai loại: Mặc cảm Oeudipe và mặc cảm Electra. Mặc cảm của con người là khởi động xuất phát từ một "ẩn ức sinh lý", mặc cảm Oeudipe là mặc cảm của con trai yêu mẹ ghét cha được Freud triển khai trong vở kịch Hamlet của Shakespeare; hay mặc cảm Electra là mặc cảm của con gái yêu cha ghét mẹ. Theo khái niệm mặc cảm phổ quát, các nhà tâm lý học phân chia mặc cảm có hai cực: tự tôn (superior complex) và tự ti (inferiority complex). Mặc cảm tự tôn và tự ti là hai trạng thái tâm lý rất khó phân biệt, dễ lẩn lộn, nên có nhiều "thức giả" đã sử dụng nó để gán ghép cho người khác nhiều khi không đứng đắn và chính xác. Thí dụ sau khi chế độ miền Nam sụp đổ, người ta đã cho rằng các cán binh, dân chúng miền Bắc do mặc cảm tự ti vì sự quê mùa, nghèo nàn và lạc hậu qua cách ăn bận, cử chỉ, vóc dáng... của họ nên đâm ra thù ghét dân chúng miền Nam... Mặt khác, các thành phần lãnh đạo ở miền Bắc vì tự tôn qua chiến thắng, nên trong các bài tham luận diễn văn, lúc nào cũng dùng danh từ đao to búa lớn: đánh cho Mỹ cút, Nguỵ nhào v.v... Người nghèo có mặc cảm tự ti về sự thua kém kinh tế. Người giàu có tự tôn về sự giàu sang...

Có người (phần nhiều là thành phần trí thức Gia Tô) cho rằng Phật Giáo vì mặc cảm "thua kém" quyền lực, giàu sang, địa vị xã hội, học vấn...(họ thí dụ như các tu sĩ Phật Giáo "ít học", không biết chữ Tây, chữ La Tinh, toán học, âm nhạc...[sic] như các tu sĩ Gia Tô) nên đố kỵ và thù ghét với đạo Gia tô La mã. Dư luận này rất gần gủi với tinh thần của cựu giáo sư khoa trưởng Lê Hữu Mục trong cách phân tích hạ nhục phong trào Văn Thân và Cần Vương và đề cao ông "cụ Sáu" Trần Lục mà Trần Chung ngọc đã vạch ra. Đây là đề tài chỉ sợ giới đồng bào bình dân lầm lẫn thôi, cho nên cho phép tôi được nhắc lại rằng tinh thần Phật giáo là tinh thần "vượt ngã", tự thắng lấy bản thân của mình. Những lời Phật dạy chỉ là phương tiện để đạt tới chân lý. Và sự đánh mất mặc cảm (tôn hoặc ti) chỉ là nổ lực nhỏ, bước đầu trong chiều dài nổ lực để tự thắng lấy bản thân. Dĩ nhiên những người trí thức Gia tô không chấp nhận con đường tự thắng như vậy, bởi họ không thể đạt được nổ lực tự thắng bản thân nếu không có sự "hiệp thông" qua ý muốn của Thiên chúa hay nhận được ân sủng ban phát của mẹ Maria. Vậy nhìn qua phạm trù con-người-phổ-biến (trong đó bao gồm trí thức Gia tô), không có năng động để tự thắng mình, ta có thể gọi con người trí thức Gia tô là con người hội tụ của mặc cảm tự ti lẫn tự tôn, như một bàn tay sấp ngữa, không có ranh giới phân định.

Tinh thần mặc cảm này được thể hiện qua thực tính (nói theo ngôn ngữ triết học) và lý luận:

+ Mặc cảm tự ti về nguồn gốc (nghèo khổ, bần cùng). Theo đạo có gạo mà ăn là một sự kiện lịch sử chứ không phải là chuyện dèm pha, bôi bác.

+ Phản dân, hại nước: Theo đạo còn là hình thức tôn sùng các linh mục truyền giáo (cha cố) nước ngoài như thành phần lãnh đạo của mình (phần hồn lẫn phần xác), mà các linh mục này với đội quân đi xâm chiếm đất đai chỉ là một, dù hai bên có công tác và mục tiêu khác nhau; do đó sự hợp tác giữa thành phần theo đạo bản xứ với đội quân xâm lược là điều không thể tránh khỏi. Triều đình nhà Nguyễn chống lại quân xâm lược Pháp (là việc hiển nhiên) và chống luôn cả đạo Gia tô (có lý lẽ lịch sử khác nữa) đã làm cho hành động theo Pháp chống lại triều đình nhà Nguyễn và chống luôn những người yên nước (như Văn Thân, Cần Vương, Kháng chiến...) của người Gia tô là có "chính nghĩa" theo lý lẽ riêng của họ.

+ Đánh mất căn tính dân tộc: Đạo Phật truyền bá đến Việt Nam từ bên ngoài. Tư tưởng Lão, Khổng cũng vậy. Tuy vậy tính chất tôn giáo và căn nguyên lịch sử rất khác biệt với Gia tô giáo. Điều quan trọng là tính chất của "Tam giáo" ấy là căn tính của văn hóa dân tộc, gọi là dân tộc vì nó đã trở thành "xương thịt" của con người Việt Nam. Như vậy tính chất dân tộc không xác định từ yếu tố tôn giáo truyền bá từ ngoài hay không, nhưng từ bản chất và nội dung của tôn giáo ấy. Tính chất thờ phượng, tôn kính, giáo lý của đạo Gia tô làm cho họ (nhất là thành phần trí thức) luôn luôn cảm thấy con người đích thực của chính mình bị đánh mất. Con người thực của mình không còn, thì văn hóa dân tộc (Việt) trở thành yếu tố ly tâm .

+ Mặc cảm thua trận: Nếu tất cả chúng ta đều đồng ý một cách dễ dãi rằng – chỉ có đạo Gia tô mới chống Cộng [thật ra đây là một lầm lẫn từ hệ quả lịch sử] thì người Gia tô Việt Nam chính là những kẻ thua trận. Mặc dầu đây là sự kiện lịch sử bi hài hết sức, nhưng nó ẩn và động trong chiều sâu tiềm thức của trí thức Gia tô (điều này không thể lầm lẫn: đa số các chức vụ trọng trách trong hai chế độ chống Cộng miền Nam đều nằm trong tay các tín đồ Gia tô: hành chánh, quân sự, chuyên môn). Thua Cộng sản có nghĩa là mọi giá trị "tự tôn xưng" của họ bị sụp đổ trước một giá trị mà họ cho là "ngu dốt, ma quỷ, tàn ác..." Chạy ra nước ngoài, thế lực Gia tô càng thành công về mặt vật chất thì càng cay đắng về mặt tinh thần. Ở đất người, Chúa ổ cận kề, sao vẫn thấy u uất, đắng cay khao khát về một quê hương cho chính xương thịt và tâm hồn mình (!). Có lẽ đây là niềm đau lớn nhất của chất xám Gia tô.

+ Mặc cảm tự tôn: Sự tự ti nếu không bộc lộ ra bên ngoài, nó lại được che đậy qua ngôn từ, dưới dạng ẩn dấu trong tiềm thức. Trái lại sự tự tôn như một trái banh xì hơi, nó tuôn ra hết ở bên ngoài. Sự tự tôn của người Gia tô đến từ một thực thể: từ nghèo hèn đã trở thành những kẻ giàu sang, từ thất học (hoặc không thể học) đã trở thành những trí thức khoa bảng : tiến sĩ, giáo sư, khoa trưởng, bộ trưởng, tổng thống...Phú quý sinh lễ nghĩa. Sự tự tôn của trí thức Gia tô gia tăng, chồng chất theo trọng lượng vật chất tích lũy. Chất xám Gia tô bỗng dưng tự cưu mang cho mình một trọng trách về tinh thần: xóa bỏ triệt để hết nguồn gốc, dấu vết lịch sử không đáng nhớ, cố mang thêm một bộ áo văn hóa dân tộc vào lớp da bọc của mình. Nhìn thấy được hiện tượng này, chúng ta sẽ không còn thảng thốt qua những câu văn như "chỉ tiếc một điều đạo Công giáo chưa kịp ăn sâu vào lòng dân tộc như đạo Phật, cho nên các nhà văn chưa viết được một cuốn "Hồn Bướm Mơ Tiên" thứ hai"... (1), hay bộc lộ một mặc cảm lịch sử vô phương cứu chữa "Người dân Phát Diệm nào cũng mang trong lòng dòng máu hai hình ảnh quê hương: một quê hương của Lê Lợi, Quang Trung và một quê hương của Trần Lục, Lê Hữu Tù, Hoàng Quỳnh và Nguyễn Minh Luân"... (2).

Trong tâm cảm "tìm về dân tộc", hay khát khao một biểu tượng anh hùng dân tộc, người trí thức Gia tô có thể vấp phải những cái mâu thuẫn, dấm dớ, đôi khi lố bịch... vì Dân tộc, Anh hùng Dân tộc là những thứ họ thiếu hoặc không thể có. Tận đáy lòng của một người Việt Nam, chúng ta sẵn sàng tha thứ, bởi có những đau thương đẫm máu mà qua thời gian vẫn có thể xóa nhòa, độ lượng với nhau, huống chi là những đoạn văn vụng về, những ý tưởng bơ vơ, lạc loài. Nhưng chúng ta không thể chấp nhận sự vụng về, lố bịch ấy bỗng một ngày biến thành một hệ thống tư tưởng nhằm sửa đổi lịch sử, đổi trắng thay đen, biến tội ác trở nên lương thiện, biến phản quốc trở thành yêu nước, biến một kẻ tầm thường, tiểu tốt trở thành vĩ nhân của dân tộc !

Nguyễn Văn Hóa
9/2000

Ghi chú

(1,2) Nguyễn Trọng, Phát Diệm là gì ? tr. 197, Kỷ Yếu Phát Diệm 1891- 1991, tuyển tập, Nguyệt san ĐMHCG phát hành 1992, Hoa kỳ.

http://www.buddhismtoday.com/viet/diemsach/009-TranLuc.htm

 


Cập nhật: 24-8-2000

Trở về mục "Điểm sách"

Đầu trang