Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
Hình ảnh "CHỊ TÔI" TRONG THI CA VIỆT NAM

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang.
(Hàn Mạc Tử)

 

Sau mẹ, có lẽ hình ảnh chị là hình ảnh đẹp nhất trong thi ca Việt Nam. Mẹ thì ai cũng có, nên những bài thơ, điệu nhạc nói về mẹ luôn làm mọi người rung động. Còn chị, nếu ai không có chị mà đọc mấy câu thơ trên của Hàn Mạc Tử, chắc cũng sẽ ... mượn đại một cô hàng xóm nào đó làm “chị tôi”. Kể cũng tiện !

Có điều, nhiều người thường trách cứ sao trong thơ hay nói về mẹ mà ít nói đến cha. Ở đây hoàn toàn không có chuyện tình mẹ nặng hơn tình cha. Thơ không làm cái chuyện cân đong đo đếm. Cảm hứng thi ca bao giờ cũng có sự chắc lọc, mà sự chắc lọc này không thuộc công việc của lý trí. Nguyên lý mẹ – Huyền Tẫn – chất mẫu thân luôn bàng bạc giữa đời sống, và sự rung động bất chợt là khi con người cảm được cái tính Huyền Tẫn ấy, nó cũng là mẹ đẻ của thi ca.

Điều này cũng giải thích vì sao người ta thích nói về chị hơn là anh. Nếu nói về cha hoặc anh là nói về một biểu tượng, một chuẩn mực, thường thì chúng có một mẫu số chung; trong khi thi ca lại là ngôn ngữ của những rung động sâu kín, mơ màng và không có gì chắc thật. Do vậy sau mẹ, chị lại luôn là cảm hứng rào rạt của thi ca.

Trong văn học Việt Nam, thơ nói về chị không nhiều lắm, nhưng tôi dám chắc rằng câu thơ nào nói về chị cũng thường khiến người ta rung cảm. Người chị luôn là một người mẹ sẽ thành, và hình ảnh chị rất gần gũi, rất nên thơ. Chị chia xẻ với ta những rung cảm đầu đời, chị là gạch nối giữa mẹ và ta. Chị lại là con gái, như bao người con gái ta yêu. Ngôn ngữ Việt Nam – nhất là phương ngữ Nam - Trung bộ có sự phân biệt rất rõ ràng giữa hai tiếng “thương” và “yêu”. Mẹ thì thương và người tình thì yêu. Còn đối với chị thì cả thương và yêu hòa quyện.

Tiếng “chị” xuất hiện trong thi ca Việt Nam tự lúc nào không rõ. Nhưng có lẽ đến Truyện Kiều thì hình ảnh chị được tô hồng rõ nét nhất. Điều đáng nói ở đây là một người chị Việt Nam, khác xa một người chị Trung Hoa hay một dân tộc nào khác. Người chị của Trung Hoa là một đối tượng mà em phải giữ lễ, phải hiếu để với chị. Mặc dù Nguyễn Du diễn Nôm Truyện Kiều từ một tác phẩm Trung Hoa, nhưng những câu thơ sau đây lại hoàn toàn là của người Việt :

                       “Cậy em em có chịu lời
                        Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa".

Hay :

“Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han
Cơ trời dâu bể đa đoan
Một nhà để chị riêng oan một mình”...

Tục ngữ Việt Nam có câu "Chị ngả em nâng", nhưng chưa bao giờ tình cảm chị em lại cảm động như hình ảnh hai chị em nường Thúy của Nguyễn Du suốt mấy ngàn câu thơ của Đoạn Trường Tân Thanh. Ta bắt gặp bút pháp "thấu cả cõi âm" của Tố Như Tử trong những lời Kiều dặn em mình trước lúc chia tay :

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”.

Sau Nguyễn Du, phong trào Thơ Mới lại bùng lên phá vỡ mọi ngăn cách lễ giáo thâm căn cố đế. Thơ tiền chiến hẳn nhiên không còn những hình ảnh khiên cưỡng như "Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa" trước nữa. Ta bắt gặp một người chị của Hoàng Cầm :

                    “Mai chị về em gửi gì không
                    Mai chị về nhớ má em hồng
                    Đường đi không gió lòng sao lạnh
                    Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong”.

Chị gần gũi hơn về tình, chị dịu dàng hơn về nết. Chị là chị của em, nên thơ và đằm thắm. Chị là hiện thân của nỗi khát vọng, của một mối tình chưa thỏa. Chị luôn là người chinh phụ, nhưng không còn là kẻ ngồi giữa buồng khuê trông chờ như trong Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm. Chị đã chia xẻ với em niềm trông mong ấy, trong khói sương bàng bạc của đất trời, chị nhờ em dõi mắt trông theo bóng tình quân muôn dặm ruổi. "Mòn Mỏi" là bài thơ tôi thích nhất của Thanh Tịnh, nhà thơ nói lời của chị :

         “Em ơi nhẹ cuốn bức rèm tơ
         Tìm thử trong mây khói tỏa mờ
         Có bóng tình quân muôn dặm ruổi
                     Ngựa hồng tuôn bụi cõi xa mơ ...
                                    Xa nhìn bên cõi trời mây
                  Chị ơi em thấy một cây liễu buồn”.
              ..
            “Tên chị ai gieo giữa gió chiều
            Phải chăng em hỡi tiếng chàng kêu
         Trên dòng sông lặng em nhìn thử
         Có phải chăng người của chị yêu”…

Thanh Tịnh làm bài thơ này phỏng theo chuyện Barbe bleue của Perrault, nhưng đúng như Hoài Thanh từng nhận định : "Thanh Tịnh đã tạo ra một không khí rất Á Đông". Chị e thẹn, đầy cảm tính, mặn mà với em, xao xuyến với chinh phu và thổn thức với đời sống phiêu bồng :

            Này lặng em ơi lặng lặng nhìn
            Phải chăng mình ngựa sắc hồng in
            Nhẹ nhàng em sẽ buông rèm xuống
            Chị sợ trong sương bóng ngựa chìm”.

Đến Nguyễn Bính, chị lại là hiện thân của nghiệp dĩ, của thân phận con người. Nguyễn Bính vẫn là ông tổ của việc đưa ca dao dân ca vào thi ca hiện đại, cho nên người chị của Nguyễn Bính mãi là người chị của chúng ta trong nhịp cầu tương ứng luân lưu giữa tình quê và nghiệp cảm. Khi Hàn Mạc Tử viết : "Chị ấy năm nay còn gánh thóc", chị ấy là chị nào không rõ, nên xem là chị mình cũng được. Còn Nguyễn Bính viết Lỡ Bước Sang Ngang để nói về một người chị có thật, hay viết Xuân Tha Hương để "Gửi chị Trúc", một người chị có tên có tuổi đàng hoàng, ta vẫn có cảm giác ấy là chị mình, đó là điểm đặc biệt của thơ Nguyễn Bính, mà cũng là hình của ảnh  "chị tôi" Việt Nam. Ai  mà không thấy xúc động khi đọc mấy câu :

                        “Tết này chưa chắc em về được
                        Em gửi về đây một tấm lòng
                        Ôi ! Chị một em, em một chị
                        Trời làm xa cách mấy con sông”.
                                               
                        Tết này chưa chắc em về được
                        Em gởi về đây một tấm lòng
                        Vườn ai thấp thoáng hoa đào nở
                        Chị vẫn môi son vẫn má hồng
                        Áo rét ai đan mà ngóng đợi
                        Còn vài hôm nữa hết mùa đông” ...

Hay :

            "Rượu say nhớ chị hồi con gái
            Thương chị từ khi chị lấy chồng
            Cố nhân chẳng biết làm sao ấy
            Rặt những tin đồn chuyện bướm ong” ...

Có chép hết bài Xuân Tha Hương dài bốn trang giấy vào đây hẳn người đọc cũng không chán. Chị ở đây gần gũi quá, đầm ấm quá ! Thi nhân có thể đem hết tình cảm cũng như thói hư tật xấu của mình để kể cho chị nghe, chứ với mẹ thì chắc không dám thế. Chị thông cảm và chia xẻ, cùng lắm là mắng yêu hoặc dặn dò thắm thiết :

            Chắc chị đời nào quên nhắc nhở
            Xa nhà rượu uống có say không ?”

Ở bài Lỡ Bước Sang Ngang, hình ảnh chị lại ngậm ngùi hơn bao giờ hết. Hình như hình ảnh người con gái bao giờ cũng bi đát khi đi lấy chồng, những thành ngữ như "Lỡ bước sang ngang", "Con sáo sang sông", "Mười hai bến nước"... bao giờ cũng là những thành ngữ đặc trưng tả về sự bèo dạt mây trôi của người con gái theo chồng. Ca dao vẫn thường khoét sâu tâm trạng người chị : “Chiều chiều ra đứng ngõ sau, trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Nguyễn Bính thì viết :

“Em ơi em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
Cậy em em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn mẹ già em thương ...

Dù tình cảm có khắn khít dường nào, dù sự đời có được báo trước như một bi kịch bất kham, người chị vẫn nhắm mắt đưa chân như định mệnh, như thân phận con gái phải là như thế :

“Dù em thương chị mười phần
Cũng không ngăn nổi một lần chị đi”.
                                                                       
“Úp mặt vào hai bàn tay
Chị tôi khóc suốt ba ngày ba đêm”.
                                               
“Tuổi son má đỏ môi hồng
Bước chân về đến nhà chồng là thôi” ...

Ở đây người viết không có ý nói đến thân phận người phụ nữ trong xã hội. Ở đây chỉ muốn điểm lại hình ảnh chị tôi trong thi ca Việt Nam. Cũng giống như mẹ, mẹ vĩ đại nhờ mẹ đã đau khổ nhiều, dường như không có thơ tả bà mẹ giàu sang phú quý, sung sướng từ nhỏ đến lớn. Cái chất trữ tình bao giờ cũng đi kèm với một thực tại đau khổ, có lẽ đó là cái chất của cuộc đời và của thơ. Nụ cười và giọt  lệ đều làm đẹp cho chân trời nghệ thuật, đã có thi nhân từng quỳ xuống đưa hai tay lên chỉ để xin nâng một giọt lệ êm đềm, suối lệ nguồn thương của chị cũng thực và đẹp xiết bao ! Người ta hô hào giải phóng phụ nữ, mẹ phải sung sướng, chị phải hạnh phúc, nhưng mãi đến ngày nay, bài thơ điệu nhạc làm người ta rung động vẫn là hình ảnh người chị bất hạnh, buồn và buồn. Nhưng ai biết trong những giọt lệ êm đềm kia chẳng có niềm hạnh phúc ? Gần đây có hai bài nhạc "Chị tôi", một của Trọng Đài phổ thơ Đoàn Thị Tảo, một của Trần Tiến, bài nào cũng làm ta cảm động về một người chị đẹp, nên thơ và đau khổ. “... Ngày chị sinh trời cho làm thơ, vấn vương với sợi tơ trời, tình riêng bỏ chợ, tình người đa đoan ...”, hay “Ngày chia tay bến sông thấy chị buồn mà thương í a …, chị tôi chưa lấy chồng ...”. Có lẽ khi nào con người chưa thoát khỏi sự ràng buộc của ái ân, thì hình ảnh của chị trong thơ vẫn còn u uẩn và buồn triền miên như thế !

Tôi đã  đọc được nhiều truyện ngắn viết về chị, những bi kịch trong cuộc đời, tất cả đều đáng thương và đáng cho ta suy ngẫm. Nhưng truyện ngắn hay truyện dài gì cũng chỉ là chuyện, chuyện thì phong phú nhưng hạn cuộc. Còn thơ, hình ảnh của chị trong thơ rất mờ, rất nhẹ, nhưng lại có thể khái quát hết tất cả các người chị trong đời, nhỏ nhưng vô cùng. Đó là cái mà chỉ có thơ  mới làm được. Nói là “chị tôi” mà thực ra chị nào cũng của tôi cả. Ai có chị sẽ thấy điều này rõ hơn hết.

*   *    *

Mẹ tôi  mất, cha già yếu, chị tôi thay mẹ nuôi nấng cả gia đình. Mấy đứa em đã dựng vợ gả chồng, hai đứa học xong đại học, còn một đàn em dại nữa, một tay chị tôi lo tất. Bao nhiêu người đến dạm hỏi, chị bảo thương đàn em còn non dại ... “Chị tôi trông dễ thương bán rau chợ cầu Đông í a..., chị tôi chưa lấy chồng ...” (Trần Tiến). Chị  ơi ! Vu Lan này em không viết về mẹ, em cũng không dám viết riêng về chị. Niềm thương yêu chất ngất, em không đủ can đảm dìm cảm xúc để viết hết một bài văn về chị, chị đã hóa thành mẹ, chị đã hóa vô cùng, nhưng lại rất gần, rất thật. Viết riêng về chị em sẽ bật khóc mất, ai sẽ viết tiếp cho em đây ! Em biết chị cũng rất thích thơ, em xin mượn vài hình ảnh thi ca để riêng tặng chị, người chị của em, người chị của một đàn em, người chị thi ca, người chị bát ngát, muôn trùng ...

            Sài Gòn một chiều mưa hạ.

http://www.buddhismtoday.com/viet/vulan/chi_toi.htm

 


Vào mạng: 1-11-2001

Trở về mục "Vu-lan-bồn"

Đầu trang