Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Mười tôn phái Phật Giáo ở Trung Hoa
HT. Thích Thiện Hoa

8.- TAM LUẬN TÔN (TÁNH KHÔNG TÔN)


I.- DUYÊN KHỞI LẬP TÔN

Tôn này căn cứ vào ba bộ luận sau đây mà thành lập, nên gọi là Tâm Luận tôn.

1.- Bộ Trung luận, gồm có bốn quyển, do Ngài Bồ tát Long Thọ làm ra, mục đích chính phá chấp của Tiểu Thừa và kèm một phần phụ đã phá sai lầm của ngoại đạo.

2.- Bộ Bách luận, gồm có hai quyển do Ngài Bồ tát Đề Bà làm ra, mục đích chính là phá chấp của ngoại đạo và kèm một phần phụ phá chấp của Tiểu Thừa.

3.- Bộ Thập Nhị Môn luận, gồm có một quyển, cũng do ngài Long Thọ làm ra, mục đích phá cả Tiểu Thừa và ngoại đạo.

Tóm lại, ba bộ luận trên đây, đều phá sự thiên chấp sai lầm của Tiểu Thừa và ngoại đạo và mục đích cuối cùng là làm sáng tỏ nghĩa lý sâu xa, mầu nhiệm của Đại Thừa.

Tôn này được thạnh hành ở Trung Hoa trong đời Dao Tần do công đức hoằng dương của ngài Cưu Ma La Thập, và trong đời Đường do công đức của ngài Đại sư Gia Tường.

II.- TÔN CHỈ VÀ GIÁO LÝ CĂN BẢN

Như chúng ta đã thấy trong nội dung của ba Bộ luận căn bản nói trên, chủ trương của tôn này là phá các điệu tà chấp, nêu bày chánh lý.

Theo Tam luận tôn, là chấp có bốn loại:

1. Tà chấp của ngoại đạo: ngoại đạo tức là những học phái hay tôn giáo khác với Đạo Phật. Ngoại đạo vị không thấu rõ lý ngã không và pháp không, nên theo chấp chặt tà kiến, như tà nhơn, tà quả, không nhơn mà có quả, có nhơn mà không quả...những cái chấp nầy cần phải đả phá.

2. Chấp trước của Tiểu Thừa Tỳ đàm tôn: Tiểu Thừa Tỳ đàm tôn tức là Câu xá tôn. Tôn này chủ trương lý ngã không, pháp hữu, nghĩa là cho rằng cái ngã nơi thân người là không có, nhưng các pháp là có. Quan niệm sai lầm về pháp hữu ấy cần phải phá trừ.

3. Chấp trước của Thành thật tôn: Tôn này, tuy chủ trương ngả pháp đều không, nhưng lại chấp cái "không" ấy là thật "có" ( thật có một cái không), chứ không biết rằng cái "không " ấy cũng không hoàn toàn là không, cho nên cần phải phá trừ.

4. Chấp trước của người tu về Đài thừa: Người tu về Đại Thừa không còn những chấp trước mê lầm về ngã, pháp của ngoại đạo và Tiểu Thừa,đã đoạn trừ những thành kiến chấp có, chấp không, chấp đoạn, chấp thường, nhưng còn có một số người ôm chặt cái sở đắc của mìmh, nghe nói "có" thì sa vào có, nghe nói "không " thì trệ vào không, nghe nói "trung đạo" thì chấp trước về trung đạo. Cho nên cần phải phá trừ những chấp trước ấy.

Có người hỏi: Tam luận tôn chủ trương phá tà như trên, có thể gọi là đầy đủ lắm, nhưng còn phần hiển chánh thì như thế nào?

- Xin thưa: Phá hết tà, tức là hiển chánh. Phá cũng tức là lập. Trừ mê tức là ngộ. Như vậy tà chấp đã bị phá, thời chánh lý tự bày, ngoài sự phá tà, không có chánh lý nào riêng nữa.

Trong bộ "tam luận huyền nghĩa" có nói: Sự phá tà hiển chánh phân làm bốn loại:

1. Phá mà không thâu, nghĩa là trước một đối thủ nói không hợp đạo, thì chỉ phá mà không thâu.

2. Thâu mà không phá, nghĩa là đối với người chủ trương hợp với chân lý thì chỉ cần thâu mà không phá.

3. Cũng phá mà cũng thâu, nghĩa là đối vơi người học đạo mà còn đầy lòng mê chấp, thì phải phá trừ chỗ mê chấp và thâu lại giáo nghĩa mà họ đã hiểu lầm.

4. Không thâu mà cũng không phá, đây là trường hợp khi đã tiêu trừ ba loại nói trên, quy về một chơn thật tướng: đến đây thì đã xa lìa nói phô, bặt dứt niệm lự, không thể nói rằng phá, không thể nói rằng thâu.

Chủ trương phá phá tà hiển chánh trên này có thể cô đọng trong bốn chử sau đây:"Trung đạo bát bất".

Trung đạo tức là đao lý viên dung cũng gọi là đệ nhứt nghĩa đế, nghĩa là cái chơn lý cùng tột, không gì hơn.

Bát bất tức là tám cái "Bất" ( chẳng phải):

Bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất xuất. Hiểu rõ tám cái "Bất" ấy, tức là nhận chân được nghĩa lý cảu Trung đạo. Chúng ta hãy nghe bài kệ sau đây trong "Trung đạo" thì rõ:

Bất sinh, diêbất diệt
Bất thường, diệc bất đoạn
Bất nhất, diệc bất dị
Bất lai, diệc bất xuất
Năng thuyết thị nhân duyên
Thiện diệt chư hý luận
Ngã khể thủ lễ Phật
Chư thuyết trung đêhất

Giảng rộng đoạn văn trên này, ông Phan Văn Hùm, trong quyển Phật Giáo triết học đã viết như sau:

"Nhất thiết vạn hửu trong hiện giới đều sinh diệt vô thường". Sinh diệt vô thường như thế, nguyên là vì không có tự tánh, mà bởi nhân duyên mê vọng nên sinh ra giả hữu.

Thế tục vì vọng kiến, nên chấp lấy cái giả hữu đó. Chân trí thời phủ định giả hữu mà nhận thấy là không ...siêu việt được tất cả hữu và vô là cái quan niệm tuyệt đối ấy, phải biết rằng chư pháp đều do nhân duyên sinh ra.

Chư pháp tuy là hữu nhưng mà là phi thường hữu. Hữu, mà phi thường hữu là giả hữu. Giả hữu tuy là hữu mà phi hữu. Hữu mà phi hữu, thời cùng với vô có khác gì? Cho nên chư pháp tuy là vạn hữu, nhưng uyển nhiên là không .

Lý thể của chân như, tuy là không tịch, bất sinh diệt, mà bởi nó sanh ra chư pháp, cho nên nó là căn của giả hữu. Đã là căn của gỉa hữu, thời mặc dù lý thể của chân như là không, thật ra nó là phi không. Như thế, chân như là không mà không thật là không cho nên cùng với hữu có khác gì? Vì thế, rôlại, chân như tuy là không tịch, mà nó uyển nhiên là hữu.

Hữu, không, hai cái toàn nhiên cùng nhau hỗn hiệp.

Trung đạo ra ngoài chổ chấp hữu cùng chấp không.

III.- BA THỜI GIÁO LÝ

Trong phần tôn chỉ và giáo lý căn bản nói trên, chúng ta thấy Tam-luận tôn bác tất cả các tôn phái của Tiểu Thừa và một phần của Đại -thừa. Nhưng dù Tiểu Thừa hay Đại -thừa, cũng là dựa trên Giáo lý của Đức Phật cả. Vậy, bác các tôn phái trong các đạo Phật, tức là gián tiếp, bác giáo lý của Phật chăng?

Thật ra, không phải thế. Tất cả lời dạy của Đức Phật chỉ có một chất chung là sự giải thoát, như tất cả nước đại dương chỉ có một mùi vị là mặn. Phật nói ra các pháp môn, đều để đối trị những phiền nảo của chúng sanh. Người lương y dõi tùy theo chứng bịnh mà cho thuốc, thuốc không cao cấp, lành bịnh là hay. Cũng thế, căn cơ chúng sanh không đồng nhau, cho nên pháp môn cũng tùy theo đó mà có sai biệt.

Theo Tam-Luận tôn, thì giáo lý của Đức Phật chia làm ba thời kỳ:

-Thời kỳ thứ nhứt, tại vườn Lộc-Giả vì các bậc căn trí hẹp hòi, Phật nói pháp Tiểu Thừa, tâm cảnh đều có. Trong thời kỳ này vì cần phải phá cái chấp về tự tách, thần ngã của ngộ đạo, nên Phật nói "pháp duyên sanh", xác định là thật có.

-Thời kỳ thứ hai, Phật vị các bậc căn trí bậc trung, nói "pháp tướng Đại -thừa", chỉ rõ đạo lý Duy-thức "cảnh không tâm có" (thế giới hiện tượng không thật có nhưng tâm thức thật có). Cũng trong thời kỳ này, Phật lần hồi phá trừ chổ chất của Nhị-thừa về lý duyên sanh thật có, mà nói lý duyên sanh ấy chỉ là giả dối như tuồng có mà thôi, vì họ sợ về chổ chơn không , nên phải để "giã hữu" lại đễ dìu dắt họ.

-Thời kỳ thứ ba, Phật vị các bậc thượng căn thượng trí nói ra giáo lý "vô tướng Đại -thừa ", biện bạch tâm cảnh đều không, một mực bình đẳng là chơn liểu nghĩa. Đến thời kỳ này mới thật là chổ rốt ráo của Đại -thừa, chủ trương duyên sanh ấy tức là tánh không, một mực bình đẳng, viên dung cả hai đế (chơn đế, tục đế) không ngại.

Tóm lại, thời ký thứ nhất, phá trừ ngoại đạo, chỉ dạy Tiểu-thừa với giáo lý tâm cảnh đều có. Thời kỳ thứ hai, thông cả Tiểu-thừa và một phần của Đại -thừa, (Tam thừa) với giáo lý cảnh không, tâm có. Thời kỳ thứ ba, chỉ có Nhất thừa, với giáo lý tâm cảnh đều không, nhưng cái không đây tức là chơn "chơn không, diệu hữu".

IV.- PHƯƠNG PHÁP TU-HÀNH

Chúng ta đã thấy ở các phần ở trên, chủ trương của Tam-luận tôn là phá tà, và do chổ phá tà ấy là hiển chánh. Vậy thì phương pháp tu hành của tôn này là làm sao nhận rõ được những chổ sai làmm chấp trước của ngoại đạo là các tôn phái khác, tức là chứng ngộ. Muốn vậy, tức phải thực hành pháp quán "bát bất trung đạo".

Bát bất tức là: Bất sinh, bất diệt; Bất đoạn, bất thường; bất nhứt, bất dị; bất khứ, bất lai. Không ngộ được tám món ấy tức là không rõ chơn đế và tục đế; mà không rõ được chơn đế và tục đế thì cũng không thể nào nhận thấy được ý nghĩa của trung đạo.

Pháp quán này có nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn quán về một phần của "bát bất "; chẳng hạn giai đoạn thứ nhứt quán về "bất sinh, bất diệt"; giai đoạn thứ hai quán về "bất đoạn, bất thường..." .

Trong mỗi giai đoạn như thế phải quán năm câu:

1.- Câu thứ nhứt: "thật có sinh, thật có diệt". AṠlà giả thiết thật có sanh diệt như thế gian thường chấp, để mà bát. Chấp như thế gọi là đơn tục ( đứng riêng về mặt thế tục), tức nhiên là thiên chấp (chấp một bên), chưa hiệp với trung đạo.

2.- Câu thứ hai: "không sanh không diệt". AṠlà chấp không sanh không diệt làm thật, để mà bát. Chấp như thế gọi là đơn chơn, cũng là thiên chấp, không hiệp với trung đạo.

3.- Câu thứ ba: "giả sanh giả diệt". Aṍ là giả lập có sự sanh diệt phát xuất từ nơi bất sanh bất diệt. Đây tức là trung đạo về thế tục.

4.- Câu thứ tư: "giả bất sanh giả bất diệt". Nếu sanh diệt đã giả, thời sự bất sanh bất diệt cũng là giả. AṠlà trung đạo về chơn đế.

5.- Câu thứ năm: "không phải sanh diệt, mà cũng không phải là không sanh diệt". Đây là dung hiệp cả tục đế và chơn đế mà tìm ra lý trung đạo. Thật vậy, thật tướng của pháp giới không sanh diệt , mà cũng không phải không sanh diệt. Đến đây là băﴠdứt lời nói phô, tâm niệm lự, mà chỉ nhờ trực quan mới đạt tới.

Trong năm câu này, thì ba câu cuối ( từ câu thứ ba đến câu thứ năm) thường gọi là tam trung (ba lý trung đạo). Vì thế cho nên trong pháp qúan này, người ta thường nói: dùng năm câu và ba lý trung đạo để quan sát.

Trên đây là chỉ đưa ra một số thí dụ về một giai đoạn trong pháp "pháp trung đạo bát bất". Sau khi quán hết giai đoạn thứ nhất "bất sinh, bất diệt", hành giả tiếp tục giai đoạn thứ hai là "bất đoạn, bất thường". Và cứ như thế mà quán cho đến hết tám cái "bất".

Đây là pháp quán riêng biệt của tam luận tôn. Ngoài ra trên đường tu hành, hành giả còn tùy theo căn cơ mà tu các pháp môn khác như Lục độ vạn hạnh.

V. QUẢ VỊ TU CHỨNG

Giáo lý đã có phân chia thành chơn đế và tục đế, thì quả vị tu chứng cũng đứng về hai phương diện mà xét.

1. Chơn đế: Nếu đứng về phương diện chơn đế mà xét thì không có vấn đề chứng hay không chứng, thành Phật hay không thành Phật, vì mê ngộ vốn không, nhiễm tịnh đều bình đẳng, hết thảy chúng sanh xưa nay là Phật rồi.

2. Tục đế: Nếu đứng về phương diện tục đế, thì căn cơ chúng sanh không giống nhau, nên sự tu chứng cũng có chậm có mau. Với những căn cơ rất lanh lợi, thì trong một niệm có thể thành tựu "chánh quán bát bất", chứng được quả Phật. Trái lại, với những căn cơ chậm lụt, thì trải qua ba đại kiếp tu hạnh lục độ vạn hạnh, mới được thành Phật. Nếu tuần tự mà tiến thì phải trải qua 52 quả vị. Trong các tôn khác quý độc giả cũng thường nghe nói đến 52 quả vị, nhưng chúng tôi chỉ nêu danh mà không nói rõ nội dung, đến Tam luận trong này, nên chúng tôi tưởng nên trình bày rõ một lần về các quả vị ấy, và để sau nầy, khi qua các tôn khác, nếu quý độc giả có gặp lại 52 quả vị này, cũng sẽ không còn bỡ ngỡ. 52 quả vị ấy là:

Thập tín (mười bậc lấy đức tin làm gốc):

1. Tín tâm 2. Tinh tấn tâm

3. Niệm tâm 4. Định tâm

5. Huệ tâm 6. Thí tâm

7. Giới tâm 8. Hộ tâm

9. Nguyện tâm 10. Hồi hướng tâm

Thập trụ: Trụ là an trụ. Các vị Bồ tátkhi mới phát tâm, an trụ nơi mười bực này mà tu hành, trên cầu chứng được quả Phật, dưới hóa độ chúng sanh. Thập trụ là:

1. Pháp tâm trụ 2. Trị địa trụ

3. Tu hành trụ 4. Sanh quý trụ

5. Phương tiện trụ 6. Chánh tâm trụ

7.- Bất thối trụ 8. Đồng chơn trụ

9. Pháp vương tử trụ 10. Quán đảnh trụ

Thập hạnh: Mười bực này chú trọng tu hạnhlục độ nhiều hơn các hạnh khác,. Nên gọi là hạnh. Mười hạnh là:

1. Hoan hỷ hạnh 2. Nhiêu ích hạnh

3. Vô nhuế hạnh 4. Vô tận hạnh

5. Ly si loạn hạnh 6. Thiện hiện hạnh

7. Vô trước hạnh 8. Tôn trọng hạnh

9. Thiện pháp hạnh 10. Chơn thiện hạnh

 

Thập hồi hướng: Hồi nghĩa là xoay về, Hướng tức là xu hướng. Hành giả đem mười hạnh này mà quy hướng về ba nơi sau đây:

a/ Xoay sự về lý, lấy chơn như thật tế mà làm chỗ chứng.

b/ Xoay nhơn về quả, lấy đạo vô thượng Bồ đề làm chỗ sở cầu.

c/ Xoay mình về nơi người, một lòn bình đẳng, phổ độ chúng sanh.

Mười hồi hướng là:

1- Cứu độ chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng; nghĩa là cứu giúp chúng sanh mà không chấp trước về sự cứu giúp.

2- Bất hoại hồi hướng; nghĩa là không bao giờ thối tâm cứu giúp chúng sanh.

3- Dẳng chư Phật hồi hướng: nghĩa là lòng từ bi cứu giúp chúng sanh cúng bằng chư Phật.

4- Chí nhứt thế xứ hồi hướng; nghĩa là lòng cứu giúp chúng sanh mỗi việc đều chu đáo.

5- Vô tận công đức tạng hồi hướng; nghĩa là chất chứa công đức vô tận.

6- Tùy thuận nhứt thiết kiên cố thiện căn hồi hướng; nghĩa là thuận theo hết thảy căn lành bền chặt.

7- Đẳng tâm tùy thuận nhứt thế chúng sanh hồi hướng; nghĩa là đem tâm bình đẳng tùy thuận hết thảy chúng sanh.

  1. - Như tướng hồi hướng; nghĩa là các công đức hồi hướng về tự tánh chơn như.
  2. - Vô trước vô phược giải thoát tâm hồi hướng; nghĩa là không chấp trước không ràng buộc, một lòng giải thoát.
  3. - Pháp giới vô lượng hồi hướng; nghĩa là hướng về pháp giới không cùng tận.

Bốn mươi quả vị trên này ( Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng) nói về thơig gian tu tập tùy thuộc vào Kiếp A-tăng kỳ thứ nhứt.

Thập địa: Mười bực này, vì tóm thâu các công đức hữu vi và vô vi, dùng làm tự tánh, cùng làm chỗ nương dựa chắc chắn hơn cả cho sự tu hạnh, nên gọi là Địa. Mười địa là:

1. Hoan hỷ địa 2. Ly khổ địa

3. Pháp quan địa 4. Diệm huệ địa

5. Nan thắng địa 6. Hiện tiền địa

7. Viễn hành địa 8. Bất động địa

9. Thiện huệ địa 10. Pháp vân địa

Trong thập địa, mỗi địa còn có ba tâm: Nhập, Trụ, Xuất. Khi vừa bước vào một bực nào, gọi là nhập tâm. Trong lúc ở yên trong bực ấy mà tu, gọi là trụ tâm. Sau khi tu tập lâu rồi, cần bước qua bực khác gọi là xuất tâm. Batâm ấy đều phải trải qua trăm ngàn số kiếp. Từ khi nhập tâmvề sơ địa (tức Hoan hỷ địa) đến Thất địa (tức Viễn hành địa) phải trải qua suốt một kiếp A-tăng kỳ thứ hai. Từ Bát địa ( tức Bất động địa) đến Thập địa (tức Pháp vân địa) thuộc về kiếp A-tăng kỳ thứ ba.

Đẳng giác: Khi đã mãn quả Thập địa thì gọi là Đẳng giác, là địa vị đã gần đến quả Phật.

Diệu giác: Tức là Phật quả, tự mình đã giác ngộ, lại giác ngộ cho người, trí giác ngộ và công phu tu hành đều được đầy đủ, không thể nghĩ bàn nên gọi là Diệu gíac. Bực này vì các lậu nghiệp đã hết sạch và không còn pháp gì phải học nữa, nên gọi là Vô-học đạo.

VI.- KẾT LUẬN

Như chúng ta đã thấy ở các phần trên, Tam-luận tôn chủ trương "lấy phá làm tập", phá tất cả những sự chấp trước của đạo ngoại, của Tiểu-thừa Tỳ-đàm, của thành Phật tôn và của cả một số người tu theo Đại -thừa. Nhận chân được những sự sai lầm ấy tức là ngộ rồi đấy. Con đường đi đến chân lý không đâu khác hơn con đường mình đi. Nhưng muốn khỏi lạc đường và chậm bước, thì phải dẹp tất cả những hình bóng phỉnh-phờ và những chướng ngại vật trên đường đi ấy. Một khi sự phá dẹp hoàn thành thì chân lý tự nhiên hiện bày.

Theo thiển kiến chúng tôi. Tam luận tôn không phải là một con đường Tu như các tôn khác, mà đúng hơn là một cữa ANhững hành-giả muốn đi từ Tiểu-thừa hay Đại -thừa Đốn giáo, hay Viên giáo thì phải đi ngang cữa Ải Tam luận tôn. Đến cửa Anày, hành-giả bị lục soát một cách kỹ lưỡng, nếu ai còn mang theo một món hành lý "chấp trước" gì, thì không thể qua cửa Anày được. Hành-giảkhi đi qua cửa Anày là phải thông suốt các vấn đề: có, không, sanh, diệt, thường, đọan, nhất, dị v.v...

Vậy chúng tôi mong mỏi quý vị Phật-tử muốn đi xa vào thế giới Trung-đạo hay Viên giáo thì hãy nghiên cứu cho kỹ Tam luận tôn.

Chúc quý độc giả thánh công.


 


Cập nhật: 1-11-2000

Trở về thư mục "Triết học Phật giáo"

Đầu trang