Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
LINH THOẠI BỒ ĐỀ ĐẠT MA

 

Tổ Ðạt Ma cỡi sóng qua Ðông Ðộ.  

Tổ Ðạt Ma vào đất Ngụy, đường đường như một kiếm khách chốn bải tần.  

Tổ Ðạt Ma “đơn dao trực nhập” triều đình Lương Võ Ðế nói pháp như chuyển sóng. 

Tổ Ðạt Ma chín năm trầm hùng ngồi nhìn vách đá chùa Thiếu Lâm.  

Tổ Ðạt Ma kỳ diệu ban phép an tâm.  

Tổ Ðạt Ma cỡi bè lau về Thiên Trức.  

Tổ Ðạt Ma xách một chiếc dép phi hành trên ngọn Thông Lãnh.  

Tổ Ðạt Ma... và Tổ Ðạt Ma...

 Bao nhiêu là câu chuyện truyền kỳ kết hào quang đưa nhà sư mắt biếc đất Hồ (Bích nhãn Hồ tăng) vào Huyền Sử.

oOo

 Từ Tung sơn, sừng sững bên vách đá chùa Thiếu Lâm, bóng Người ngả dài suốt lịch sử đông phương như một tượng trưng thuần túy của Ðạo. Ngót mười lăm thế kỉ nay, lòng người còn nghe đồng vọng tiếng Người nói ; chốn già lam còn nghe vang dội bước Người đi.

 Người đi qua không gian hiển hiện như chưa-từng-có.  

Người đi qua thời gian, hiển hiện như chưa-từng-không.  

Người đi thẳng vào sự thực, dẫm nát dư luận.  

Người đi thẳng vào lòng người, không mặt nạ.  

oOo

 Ðối vởi Người, sự thực là sự thực, không được trả giá. Trả giá với sự thực là kí kết với ma. Con người đang đi xuống quá rồi , thế đạo đang nghiêng ngửa quá rồi giữa sắc tướng ; cần cấp thời chận đứng cái đà tuột giốc ; cần vươn mình lên mở lấy một con-đường-không-đường , cần nhảy thẳng vào tâm điểm của cuộc sống, của giác ngộ. Căn bịnh đã quá trầm trọng, cần bạo tay thọc thẳng mũi đao vào tròng ung thư. Trong tinh thần vô úy ấy Người đã thét giữa những con người bé nhỏ chúng ta chơn lí tối hậu : hoát nhiên vô thánh.  

Từ huyền sử, Người trang nghiêm tô lại khung đời bằng nét đạo tâm linh.  

Sống là đạo, ngoài ra không có đạo nào khác. Ðạo nào khác đều tìm thánh mà bỏ phàm, đều ham ngộ mà ghét mê, đều bỏ đời mà cầu đạo, đều tự trói buộc mình :  

Bất dữ phàm chánh đồng triền

Siêu nhiên danh chi viết tổ

(Chẳng cùng phàm thánh sánh vai

Vượt lên mới gọi là tổ)  

Cho nên bất cứ phương diện nào của cuộc sống cũng là đạo. Bắt nguồn tự vách núi Tung Sơn, đạo sống Thiền thấm nhuần khắp giải đất Á Ðông, nung sanh lực cho mấy ngàn năm văn hóa.  

Cho nên uống trà cũng là đạo, trà đạo : trà Thiền nhất vị. Võ thuật cũng là đạo, nhu đạo : đạo lấy mềm thắng cứng. Cắm hoa, viết chữ, bắn cung cũng là đạo : đạo luyện phép vô tâm, để cho sự vật tự nó sắp xếp lấy một cách viên mãn nhứt.  

Cho đến xách nước, bửa củi cũng là đạo :  

Bửa củi là diệu dụng

Xách nước ấy thần thông

(Bàng Uẩn)

           Mà rồi im lặng cũng là đạo nốt :

Ði cũng Thiền, ngồi cũng Thiền

Nói im động tịnh thảy an nhiên

(Huyền Giác)

oOo

 

Sau khi Tổ viên tịch, “vấn đề” giải thoát được nêu lên với tất cả tinh thành của hàng đệ tử. Người ta tự hỏi nhau : “Tổ truyền gì cho Huệ Khả ? Bí quyết của pháp Phật là gì ? Huyết mạch của đạo Thiền là gì ? Thực chất của giác ngộ là gì ? v.v...”  Bao nhiêu là câu hỏì nóng hổi đặt dài theo bước chân người cầu đạo suốt mười lăm thế kỉ nay, và có thể đúc kết lại trong câu hỏi độc đáo sau đây của phép tu Thiền :  

Như hà thị Tổ Sư tây lai ý ?”

(ý nghĩa tối yếu của việc Tổ Sư qua Tàu là gì ?) 

Người ta mang câu hỏi sống chết ấy đến gõ cửa các Thiền sư. Ðáp lại tấc lòng tinh thành ấy, người ta nhận được những câu trả lời quái dị như sau: 

Sư Hương Lâm nói : ngồi lâu thấm mệt ;

Sư Cửu Phong nói : một tấc lông rùa nặng chín cân ;

Sư Triệu Châu nói : cây bách ở trước sân, v.v...  

oOo

 

Lối nói ngược ngạo đó gọi là công án. Trong số 1700 công án Thiền, riêng về câu hỏi trên chiếm đến trên trăm câu, thế đủ biết Tổ Ðạt Ma luôn luôn có mặt ở khắp nẻo Thiền. Nên một ông sư Phù Tang nói :

“Người nào lấy hư không làm giấy, lấy sóng trùng dương làm mực, lấy núi Tu Di làm bút, viết được năm chữ “Tổ Sư tây lai ý” thì sãi tôi xin trải tấm tọa cụ ra mà đảnh lễ dưới chân.”  

oOo 

Sở dĩ vậy vì người nào hiểu được, chẳng hạn, câu nói “cây bách ở trước sân” (đình tiền bách thọ tử) của Triệu Châu là cùng một lúc hiểu tất cả câu nói khác, tất cả đạo Thiền, tất cả pháp Phật. Một công án là một hột bồ đề, xâu chung với vô số hột khác thành một chuỗi bồ đề vô tận; cho nên đập bể một hột bồ đề là toàn xâu cbuỗi bung ra; nắm được một công án là nắm trọn, là thông suốt tâm Phật ý Tổ. 

oOo 

Tuy nhiên, muốn hiểu được “ý nghĩa của Tổ Sư qua Tàu” không phải suy luận mà được, mà cần phải sống chết với nó, mang nó trong thịt da như Tôn Hành Giả mang cái niệt kim cô quanh đầu. Khi Tôn vê tròn xong công quả thì cái niệt đau khổ kia bỗng chốc hóa thành không; cũng vậy, khi người tìm đạo “quán” được một công án thì công án ấy, cũng như vô số công án khác, bỗng hóa thành vô nghĩa, thừa thải, như một trò đùa rẻ tiền. 

oOo

 Dầu vậy, suốt thời gian chưa quán được thì công án là một mũi tên oan nghiệt bắn thẳng vào mạng sống, nhổ không ra mà muốn chết quách cũng không chết được Ðó là tâm trạng cùng quẫn, thai nghén cho biến cố ngộ đạo. Tâm trạng ấy được ví như tâm trạng của người  

leo lên cây cao, miệng cắn vào một cành cây, hai tay buông thỏng giữa hư không, hai chơn không vịn được vào đâu hết. Tình cờ dưới gốc cây có người hỏi vọng lên : “ý của Tổ Sư qua Tàu là gì ?”. Người trên cây không trả lời thì không được mà trả lời thì rơi chết hốt xương.

(theo vô môn quan)  

Người kể câu chuyện cổ quái trên đặt câu hỏi : Chính trong hoàn cảnh ấy, chính người ấy, phải làm sao ?  

oOo 

Phải làm sao ?” 

Ðó là bí thuật của Thiền Ðông Ðộ, mà Đạt Ma là Sơ Tổ : một linh thoại của muôn đời.

(Phật tử Mỹ đánh máy lại từ tạp chí Tư Tưởng Đại Học Vạn Hạnh Số 2 & 3)

http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/bo-de-dat-ma.htm

 


Vào mạng: 1-11-2001

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang