Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH THIỂN THÍCH
 Hán dịch : Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Giảng giải : Tuyên Hóa Thượng nhân
Việt dịch : Thích Minh Cảnh

Mỗi bộ kinh có tên riêng và tên chung. Tên riêng thì chỉ đặc biệt bộ kinh ấy có; tên chung là tên phổ thông kinh nào cũng có.

Tên nêng là gì ?

Như tên "Phật thuyết A Di Đà" chính là tên riêng, chỉ có bộ kinh này được gọi thôi, còn những kinh khác thì không. "Kinh" là tên chung, tên chung này kinh nào cũng có.

"Chung" là chung của các kinh, "riêng" là chỉ riêng của kinh này.

Không nên xem thường bộ kinh này, vì nó là kinh thường tụng đọc vào thời khóa chiều trong tòng lâm, nhất là kinh này lại là của Phật nối.

Có năm hạng người có thể nói kinh : l/ Phật; 2/ Đệ tử Phật; 3/ Người trên trời; 4/ Tất cả người, trời; 5/ Người biến hóa ra.

Trừ kinh của Phật nói ra, kinh điển của bốn hạng người kia nói phải qua sự ấn chứng của Phật mới được gọi là kinh, nếu không thì không thể gọi là kinh được.

Kinh này là từ kim khẩu của Phật giảng nói lý vi diệu không cần phải thưa thỉnh. Các kinh điển khác phải có người thưa hỏi Phật mới nói ra; chỉ riêng Kinh A Di Đà này là không có ai thưa hỏi, Phật tự nói ra. Tại sao thế ? Vì nghĩa lý kinh này rất huyền diệu, trí huệ của hàng Thanh văn không thể đạt đến dược, tất cả hàng Bồ tát cũng không thể hiểu rõ, cho nên không có nhơn duyên người thưa hỏi về pháp môn Tịnh độ. Chỉ vì pháp môn này đáng được nói ra, cho nên Đức Phật xem thấy căn cơ thành thục bèn tự nói kinh này. Kinh này vì thế rất trọng yếu trong Phật giáo.

Tại sao kinh này lại rất trọng yếu ?

Khi Phật pháp sắp diệt, diệt trước nhất là Kinh Lăng Nghiêm, vì tất cả Ma vương đều rất sợ chú Lăng Nghiêm. Sau Kinh Lăng Nghiêm diệt, các kinh khác lần lượt diệt theo. Lúc bấy giờ dù có giấy đi nữa, nhưng trên giấy không có chữ.. Sau cùng chỉ còn Kinh A Di Đà lưu lại thế gian 100 năm để hóa độ vô lượng vô biên chúng sanh mà thôi Nhưng rồi Kinh A Di Đà cũng diệt đi, chỉ còn sáu chữ hồng danh "Nam mô A Di Đà Phật" lưu lại trên thế giới này hơn 100 năm nữa. Nhờ sáu chữ hồng danh này mà rất nhiều người được độ, có đến số vô lượng vô biên. Sau đó, trong sáu chữ hồng danh lại mất đi hai chữ "Nam mô", chỉ còn "A Di Đà Phật" lưu lại 100 năm nữa, sau đó Phật pháp mới diệt hẳn. Kinh này diệt sau cùng nên là kinh rất trọng yếu trong Phật pháp.

Phật là gì ?

Phật là bậc đại giác, giác ngộ tất cả pháp không có mảy may mê lầm.

Phật là bậc nghiệp hết tình không, không còn nghiệp chướng nữa, tình hoặc cũng rỗng không. Phàm phu là kẻ nghiệp nặng tình mê, đắm trước tình ái nên gọi là chúng sanh. Phật có đủ ba giác ngộ nên là baäc Đại giác. Ba giác ngộ là :

1. Bản giác : Vốn đã là giác ngộ.

2. Thỉ giác : Mới giác ngộ.

3. Cứu cánh giác : Giác ngộ đến cực điểm.

Ba giác ngộ này có thể nói là : Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên mãn. Hàng phàm phu chúng ta là bất giác, một ngày từ sáng đến tối tự cho là thông minh, nhưng kỳ thực là kẻ ngu si không biết gì cả. Cũng giống như tự cho mình là thầng bạc, nhưng sự thực là thua. Tại sao lại điên đảo như thế ? Tại vì quá mê lầm. Biết rõ việc ấy sai mà vẫn cứ làm, đó là vì quá mê vậy. Càng mê càng lún sâu, càng lún sâu càng mê thêm. Phải làm sao đây ?

Cần phải giác ngộ mới được.

Phật cũng là một phần tử trong chúng sanh, cũng là một chúng sanh, nhưng Ngài không mê. Ngài tự mình giác ngộ, đó là tự giác. Người tự giác không giống với phàm phu, cũng chính là người Nhị thừa : Thanh văn, Duyên giác. Người Nhị thừa là bậc tự ngộ, tự giác mà không giác tha, cho nên gọi là Thanh văn thừa. Giác tha chính là Bồ tát. Bồ tát không phải vì tự mình, không giống với hàng Nhị thừa là bậc tự liễu ngộ, tự mình giác ngộ rồi không muốn cho người khác cũng giác ngộ. Bồ tát phát tâm không giống như thế, Bồ tát phát tâm muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh mà không cần chúng sanh làm lợi ích cho chính mình. Đó là dùng phương pháp tự mình giác ngộ đem giáo hóa chúng sanh, khiến cho tất cả chúng sanh cũng đều giác ngộ không còn mê mờ nữa, đó là thực hành Bồ tát đạo.

Người Nhị thừa tu về Khổ Tập Diệt Đạo và 12 nhân duyên. Sao gọi là 12 nhân duyên ? Mười hai nhân duyên là Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên AÙi, AÙi duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão tử.

Mười hai nhân duyên này từ đâu mà có ? Từ Vô minh mà có. Nếu anh không có Vô minh thì 12 nhân duyên này không thể phát sinh tác dụng được. Tại vì anh có Vô minh nên cái này kéo theo cái khác mà có. Hàng Nhị thừa tu chính là những pháp này. Còn Bồ tát thì vượt qua giai đoạn này, các Ngài tu Lục độ vạn hạnh, như :

1. Bố thí độ xan tham : Nếu người muốn hết tham lam thì phải bố thí, bỏ không được cũng phải bỏ. Không bỏ chính là vì tham lam nên bỏ không được. Cho nên nói bố thí độ xan tham.

2. Trì giới độ hủy phạm.

3. Nhẫn nhục độ giận dữ : Nếu anh tánh tình hay giận, thì phải nên tu hạnh nhẫn nhục. Phàm gặp việc phải nhẫn nại, không nên cả ngày giống như A tu la, không nói được lời nào hòa nhã, nói ra thì mắt trợn trừng giống như mắt bò. Đó đều là cảnh giới của A tu la.

4. Tinh tấn độ giải đãi : Nếu giải đãi cần phải tu tinh tấn để đẩy lùi giải đãi đi.

5. Thiền định độ tán loạn : Nếu anh cứ vọng tưởng lung tung thì phải tu Thiền định. Nếu không có vọng tưởng thì tán loạn cũng không, điều cần nhứt là anh phải có trí huệ.

6. Trí huệ độ ngu si : Có trí huệ thì không còn ngu si nữa, nếu ngu si thời không có trí huệ. Ta trước nay không có trí huệ, mà nay có trí huệ, chính là độ ngu si đấy, như ánh sáng đẩy lùi bóng tối vậy. AÙnh sáng là trí huệ, bóng tối là ngu si.

Bồ tát tu Lục độ vạn hạnh, tự giác giác tha, khác với hàng Nhị thừa là chỗ này.

Giác mãn chính là Diệu giác, là Phật. Phật tự giác, cũng giác tha, cho nên Phật là Giác hạnh viên mãn. Phật nếu nói đầy đủ là Phật-đà-gia, vì người Trung Quốc thích nói gọn cho nên gọi tắt là Phật, người Tây phương nói Buddha cũng là nói tắt của Phật-đà-gia.

Nói tới nói lui có người lại nói : Tôi không hiểu.

Tôi xin nói cho anh biết : Anh chính là Phật đó !

Anh nói : Sao tôi không biết ?

- Anh không biết mình là Phật cũng phải. Chỉ vì Phật của anh không phải là Phật đã thành, mà là Phật chưa thành.

Nói đến đây anh mới hiểu : A ! Té ra Phật là người thành, vậy ai ai cũng có thể tu hành thành Phật được.

Người nếu giác ngộ chính là Phật; trái lại, bèn là chúng sanh.

Phật còn có ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông. Chúng ta là chúng sanh, dù có tánh Phật, đều có thể thành Phật, mà vì chưa chứng được quả Phật nên không có ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông này. Phật là từ phàm phu tu hành đến quả vị Phật mới đầy đủ những thứ kể trên. Cho nên có người nói : "Tôi đây chính là Phật", đó thiệt là ngu si quá mức ! Anh ta chưa được thành Phật mà lại nói ta đây là Phật, rõ ràng là dối mình dối người. Thật là kẻ đại ngu si trên thế giới. Tuy mọi người đều có thể thành Phật, nhưng ai nấy đều phải tu hành có đủ ba thân, bốn trí mới có thể thành Phật, chẳng phải chỉ có năm nhãn hoặc một ít thần thông mà thành Phật được.

Ba thân là : l/ Pháp thân, 2/ Báo thân; 3/ Hóa thân.

Bốn trí là : l/ Đại viên cảnh trí, 2/ Diệu quan sát trí, 3/ Thành sở tác trí; 4/ Bình đẳng tánh trí.

Sáu thông là :

l. Thiên nhãn thông : Cố thể thấy được tất cả hành động của trời và người.

2. Thiên nhĩ thông : Có thể nghe thấy những tiếng nói và thanh âm của người ở trên trời.

3. Tha tâm thông : Có thể biết được những ý tưởng trong lòng người khác.

4. Túc mạng thông : Chẳng phải chỉ biết hiện tại, mà cả đến quá khứ cũng biết nốt.

5. Thần túc thông (còn gọi : Thần cảnh thông) : Thứ thần thông này không thể nghĩ bàn, cảnh giới rất vi diệu.

6. Lậu tận thông : Giống như là dưới đáy bình có một lỗ hổng, nước dều từ lỗ hổng đó chảy ra hết. Nay đây không còn rịn chảy nữa, vì chỗ rò rỉ ấy đã bịt kín, nên gọi là Lậu tận.

Những gì là Lậu tận ? Tức là không có tâm dâm dục thì là không có lậu; không có tâm tham cũng là không có lậu; không có tâm si cũng là không có lậu. Tóm lại, tám vạn bốn ngàn những bịnh vặt vãnh đều không có, gọi là Vô lậu.

Năm nhãn là : l/ Thiên nhãn; 2/ Nhục nhãn; 3/ Huệ nhãn; 4/ Pháp nhãn; 5/ Phật nhãn.

Có bài kệ nói về năm nhãn như thế này :

l. "Thiên nhãn thông không ngại" : Thiên nhãn thông suốt không ngăn ngại, cho nên gọi là "thông không ngại". Người ấy có thể nhìn thấy các việc trong tám vạn đại kiếp, nhưng không thể thấy được việc ngoài tám vạn đại kiếp.

2. "Nhục nhãn ngại không thông" : Nhục nhãn có thể nhìn thấy cảnh tượng có chướng ngại. Trái lại, Thiên nhãn có thể nhìn thấy cảnh tượng không chướng ngại.

3. "Pháp nhãn chỉ quán tục" : Pháp nhãn là quán Tục đế, quán sát tất cả Tục đế ở thế gian, đạo lý thế tục.

4. "Huệ nhãn rõ chơn không" : Huệ nhãn còn kêu là Trí huệ nhãn, hay rõ rành Chơn không.

5. "Phật nhãn ngàn mặt nhật; Chiếu khác, thể lại đồng" : Phật nhãn không phải chỉ ở trên mặt Đức Phật mới có, mỗi chúng ta đều có Phật nhãn, chỉ có điều mở hay chưa mở mà thôi. Khi Phật nhãn mở ra, khác nào ánh sáng ngàn mặt trời, có thể chiếu soi vạn sự vạn vật, nhưng bản thể lại là đồng nhau.

Phật là người đủ ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông; nếu anh nói mình là Phật thì phải đủ những thứ trên mới có thể nói là thành Phật được, không như thế chỉ là phàm phu. Nếu muốn làm người tốt thì không nên gạt gẫm người khác.

Phật Thích Ca Mâu Ni là Giáo chủ của thế giới Ta Bà. Thế giới Cực Lạc mà Ngài nói đến có Giáo chủ là Phật A Di Đà. Cõi nước ấy rất trang nghiêm, mặt đất bằng vàng ròng.

Thế nào gọi là thế giới Ta Bà ?

Ta Bà là tiếng AÁn Độ, dịch sang tiếng Trung Quốc là Kham Nhẫn, có nghĩa là thế giới Ta Bà khổ như thế, chúng sanh khó làm cũng kham nhẫn thọ những khổ ấy. Thế giới Ta Bà chính là thế giới mà chúng ta đang ở, có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm Giáo chủ. Thích Ca là họ của Phật, Mâu Ni là tên của Phật. Những họ tên này đều là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung Quốc là Năng Nhơn. Sao gọi là Năng Nhơn ? AÁy chính là hay dùng lòng nhơn thương người để giáo hóa chúng sanh, cũng chính là lòng từ bi. Từ hay cho vui, Bi hay cứu khổ, hay dứt trừ nỗi khổ của chúng sanh mà ban cho họ những vui sướng.

Bi có ba thứ :

l. AÙi kiến bi : Lòng bi này phàm phu đều có đủ, đó cũng là một thứ tâm đồng tình, gọi là AÙi kiến đồng tình.

Sao gọi là AÙi kiến bi ?

Những người nào gần gũi anh thì anh yêu mến họ, thương xót họ; khi họ xa anh thì anh không yêu mến, không thương xót họ nữa. Những bạn bè thân thích anh đều có thể giúp đỡ họ, khi thấy họ đau khổ anh cố hết sức mình giúp đỡ họ, đó gọi là AÙi kiến bi. Nhưng khi họ xa anh, hoặc không liên can gì đến anh, khi họ có đau khổ, anh cũng bỏ mặc. Tại sao thế ? Tại vì đối với họ anh không có lòng yêu mến (ái). Có yêu mến anh mới có thứ Bi này. Hơn nữa, họ đồng loại với anh, anh mới có thứ AÙi kiến bi này, nếu không đồng loại anh sẽ không có lòng Bi ấy. Như đối với súc sanh : bò, dê, gà, ngỗng. . . anh không những không có ái kiến bi, mà còn muốn ăn thịt nó, cướp lấy sinh mạng nó để nuôi dưỡng sinh mạng của chính mình, đó là vì không có ái kiến bi. May mắn nhân loại còn không đến nỗi ăn thịt đồng loại của mình. Tuy ăn bò, dê, gà, ngỗng, cá... nhưng chưa có tình hình người ăn thịt người, cũng chưa thấy có một người nào ăn thịt người khác, như vậy còn khá hơn là hổ, báo, sói một tí. Nhưng hổ báo cũng không ăn thịt đồng loại của nó. Nhân đó, người không ăn thịt người mà chỉ ăn thịt súc vật, chỉ vì đối với súc vật không có lòng ái kiến bi mà ra.

2. Pháp duyên bi : Lòng Bi này của hàng Nhị thừa. Hàng Nhị thừa không chỉ có AÙi kiến bi mà còn có Pháp duyên bi. Họ quán tất cả pháp đều là từ nhân duyên sinh. Nhưng nhân duyên không có tánh, đương thể tức không, tức là ngay nơi bản thân của nhân duyên không có tự tánh nên "đương thể tức không". Hàng Nhị thừa quán pháp "Duyên không" mà sanh tâm Bi cho nên họ giáo hóa chúng sanh mà không dính mắc ở tướng chúng sanh, vì tất cả đều là không. Đó là Pháp duyên bi của hàng Nhị thừa.

3. Đồng thể bi : Chư Phật, Bồ tát còn có một thứ Bi nữa, tức là Đồng thể đại bi. Chư Phật, Bồ tát cùng chúng sanh đồng thể, nhơn vì Pháp thân của Phật cùng khắp tất cả chỗ, tâm tánh của Phật cũng cùng khắp tất cả chỗ, nên chúng sanh đều bao gồm ở trong tâm tánh của Phật. Chúng ta là chúng sanh trong tâm Phật, Phật là Phật trong tâm chúng sanh. Tâm chúng sanh cùng tâm Phật đều là "dọc cùng ba tế, ngang khắp mười phương" như nhau. Vì thế giữa Phật và chúng sanh là đồng thể, không có sai khác. Đây là Đồng thể đại bi.

Năng nhơn của Phật Thích Ca Mâu Ni đủ cả ba thứ Bi ở trên, nếu nói rộng ra thì là vô lượng vô biên. Mâu Ni là tên của Phật. Đây cũng là tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là Tịch Mặc. Tịch là lặng lẽ không lay động. Mặc là miệng không nói năng, chẳng những miệng không nói mà tâm cũng không nghĩ, đó là cảnh giới không thể nói dụ. Cho nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dù là nói pháp, nhưng nói mà chưa từng nói; dù chưa nói pháp cũng là chưa nói mà đã nói. "Nói mà không nói, không nói mà nói". Đó là tịch mặc, dù lặng lẽ không động mà lại cảm, mà bèn thông, dù cảm mà bèn thông lại hằng nhiên không động. Đó là tên đặc biệt Thích Ca Mâu Ni, chỉ có Đức Phật này có tên đó. Đức Phật khác thì không gọi tên này. Đây là tên riêng. Phật là tên chung. Hễ được thành Phật thì đều gọi chung là Phật.

Bây giờ giảng về chữ "Thuyết". Thế nào gọi là thuyết ? Vì sao cần phải thuyết ?

Về chiết tự, chữ "Thuyết" là chữ Ngôn nằm bên chữ Đoái. Hai chấm trên là chữ Nhơn có nghĩa là người, chữ Khẩu ở giữa có nghĩa là nói, còn chữ Nhơn ở dưới là người khác. Có nghĩa là một người nói chuyện với một người khác. Nói những chuyện gì ? Nói những lời anh muốn nói. AÁy là nói những điều vui thích trong lòng vậy, cũng chính là anh nói được những điều mình muốn nói anh sẽ vui thích vậy. Trái lại, nếu nói không được thì sẽ không vui thích. Cũng chính là vui thích những điều mình muốn nói, sướng khoái vì được nói ra những điều mà mình đã từng ôm ấp bấy lâu nay.

Phật Thích Ca Mâu Ni cùng mười phương chư Phật đều đã thành Phật, cho nên gọi các Ngài là bậc Tiên giác, tức là những người tỉnh thức trước trong gìấc mộng dài. Phàm phu còn ngủ say trong giấc mộng, Đức Phật chẳng những đã giác ngộ mà còn là bậc Đại giác ngộ nữa; vì thế đối với Phật không điều gì chẳúng biết, không điều gì chẳng thấy; do Phật biết cho nên biết tất cả, do Phật thấy cho nên thấy tất cả. Đức Phật giác ngộ là do tự mình tu hành mà được Chánh quả, là người đã đi qua, tức là các Ngài đã đi qua con đường ấy, rồi đem phương pháp tu hành để chứng được quả vị dạy lại cho tất cả chúng sanh khiến họ cũng chứng được Phật quả Bồ đề hoàn toàn rốt ráo như Ngài. Do đó Phật mới cần thuyết pháp cho chúng sanh nghe. Pháp mà Ngài cần nói đã nói rồi cho nên rất vui thích.

Đức Phật nói ra những gì ? Bấy giờ Ngài đang nói về Phật A Di Đà, tức là "Phật thuyết A Di Đà Kinh" (Kinh Phật nói về A Di Đà).

A Di Đà là tiếng AÁn Độ, Trung Quốc dịch là Vô Lượng Thọ, hoặc Vô Lượng Quang.

Sao gọi là Vô Lượng Thọ ?

Trong Kinh A Di Đà nói : "Đức Phật kia thành Phật đến nay đã muời kiếp". Mười kiếp là có số mục rõ ràng, vì sao lại nói là Vô Lượng Thọ ? Vô Lượng Thọ là phước đức của Ngài, do phước mà được sống lâu (Thọ), phước đức ấy vô lượng nên thọ cũng vô lượng.

Sao gọi là Vô Lượng Quang ?

AÙnh sáng (Quang) là chỉ cho ánh sáng trí huệ. AÙnh sáng trí huệ của Ngài vô lượng nên gọi Ngài là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang.

Đức Phật không phải chỉ có phước đức vô lượng, mà thần thông biện tài, tướng hảo, đạo tâm tất cả đều vô lượng, nói vô lượng tức là không có bờ không có mé để tính được. Nói vô lượng tức là vô biên, tức là không ở chỗ nào mà chỗ nào cũng có. "Không" do "một" mà có, nên nói "Một là vô lượng, vô lượng là một".

Có một vị giáo sư viết một quyển sách về số mục : "Như thêm một vòng tròn vào sau số mục thì số ấy liền thêm lớn, càng thêm nhiều vòng tròn thì số càng lớn gấp nhiều lần. Nếu thêm vòng tròn khắp cả thiên hạ thì số mục sẽ lớn không biết bao nhiêu". Cho nên số mục là vô cùng vô tận vậy.

Thọ mạng, công đức, trí huệ, pháp lực của Phật A Di Đà đều vô lượng vô biên, dù anh có thể vẽ không biết bao nhiêu vòng tròn cũng không thể tính được. Vì là vô lượng nên không có số lượng, về số học nó là không thể cùng tận; ngay nơi thái không, trong thái không còn có thái không nữa, nên số mục vẫn là vô tận. Phước đức, trí huệ của Phật A Di Đà đều vô lượng nên gọi là Phật A Di Đà. Phật A Di Đà cùng Phật Thích Ca Mâu Ni đều là từ con người tu hành mà thành Phật chớ không phải là từ trên trời rơi xuống hoặc từ dưới đất vọt lên. Vì thế Kinh A Di Đà chiếu theo sự phân loại của kinh Phật thì được liệt vào loại "quả nhân". Vì Phật A Di Đà là từ con người tu hành chứng thành quả Phật, cho nên xếp kinh này vào loại "quả nhân".

Tên chung : Kinh là Khế kinh. Sao gọi là Khế kinh ? "Khế" có nghĩa là hợp, tức là trên khế hợp với lý nhiệm mầu của chư Phật, dưới khế hợp với căn cơ của chúng sanh, đó gọi là Kinh. Kinh có năm nghĩa :

1. Kinh là bản ý của pháp, là căn bản của pháp, nên nói Kinh là gốc của pháp. Phật biết căn bản của tất cả pháp, cho nên cần phải nói ra giáo. Giáo là căn bản của pháp, dùng phương pháp "Tứ tất-đàn" để nói căn bản của pháp. "Tất" ìà cùng khầp, "Đàn" là bố thí, tức là bố thí cùng khắp cho tất cả chúng sanh. Bốn thứ Tất-đàn là :

  1. Thế gian tất-đàn : Nói pháp thế gian.
  2. Đối trị tất-đàn : Đối trị tất cả phiền não bịnh của chúng sanh.
  3. Vị nhơn tất-đàn : Vì tất cả chúng sanh mà nói pháp.
  4. Đệ nhất nghĩa tất-đàn : Đem Đệ nhất nghĩa thí cho tất cả chúng sanh.

Pháp vốn không thể nói được, nhưng vì bốn Tất-đàn mà Phật mới nói pháp.

2. Kinh là nghĩa pháp vi diệu : Pháp vi diệu là pháp rất vi tế, vì tất cả đạo lý huyền diệu sâu xa đều ở trong Kinh. Nếu không nói ra thì không ai biết. Cho nên Kinh là phát huy đạo lý vi diệu.

3. Kinh có nghĩa là suối nguồn. Như nước suối từ trong đất tuôn vọt lên khỏi mặt đất không ngớt, nên Kinh dụ cho suối nguồn.

4. Kinh có nghĩa là chừng mực. Xưa nay thợ mộc hoặc thợ đá lấy dây mực làm chuẩn. Từ trong hộp mực kéo ra sợi dây mực rồi khảy dây mực một cái, mực trên dây in lên gỗ hoặc đá, liền có một đương thẳng hiện ra. Cũng như viên quy (thước do), tức là một thứ quy củ, không quy củ thời không thể thành vuông tròn được. Kinh cũng thế.

5. Kinh có nghĩa là kết tràng. Dùng các thứ hoa kết thành một tràng hoa. Kinh điển cũng có nghĩa kết tràng như vậy.

Ngoài ra Kinh còn có nghĩa là "Xuyên suốt" , tức là xuyên suốt ý nghĩa của Kinh điển được nói ra. Lại có nghĩa "Nhiếp trì", tức là Kinh điển nhiếp trì chúng sanh được giáo hóa.

Lại, Kinh là pháp, từ xưa đến nay ai nấy đều dùng phương pháp này để tu hành, cho nên gọi Kinh là một thứ phương pháp. Lại, Kinh có nghĩa là thường, vì Kinh là thường hằng không biến đổi, một chữ không thể bớt đi hay thêm vào được, thiên ma ngoại đạo cũng không thể phá hoại được. Lại, Kinh là thẳng tắt, là con đường tắt của người tu hành, bất cứ ai đi bất cứ đâu đều phải nương theo đường mà đi; ví như muốn đến Newyork cần phải đi về hướng Đông, nếu đi thẳng qua hướng Tây thì không thể nào đến được. Đồng với lý này, muốn thành Phật ắt phải tiến theo con đường thành Phật, nếu không thì dù đi tới đi lui cũng không cách gì đến quả vị Phật được. Lại, Kinh là một thứ sách vở, có thể nương sách này đề tu hành. Lại, Kinh có thể nói là cái pháp của thế gian (thế sự). Lại, Kinh là một bộ Đại tự điển, bất cứ đạo lý nào cũng đều có thể tìm thấy trong bộ Đại tự điển này, bất cứ chữ nào không hiểu rõ cũng có thể tìm thấy ở đây. Kinh còn là hơi thở chân chánh cần thiết của mỗi con người; nếu người không thở nữa, tức gần đến cõi chết. Kinh là không khí chơn chánh trong hư không, học kinh tức là hớp một hơi không khí tươi mát, không ai có thể tách rời không khí tươi mát được. Như nói : "Tôi không học Phật pháp và kinh Phật, thì sẽ thở không được không khí này ư ?" - Nếu như không khí thường có trong hư không, anh học hoặc không học thì không khí vẫn thường có đó. Vả lại, giữa người và người thường có sự giao lưu trao đổi không khí với nhau. Người học Phật hít vào không khí tươi mát mà cùng với người khác có sự quan hệ liên đới lẫn nhau, khiến cho người kia cũng gián tiếp nhận được ảnh hưởng. Ngoài ra, Kinh cũng là món ăn tinh thần, lúc đương sầu muộn hoặc có điều không vừa ý, tụng một biến Kinh thì tinh thần sẽ sảng khoái ngay, sầu muộn tiêu tan cả, mà tâm tình thơ thới, thông đạt vô ngại.

Kinh là tên chung. A Di Đà là tên riêng. Tên riêng là tên chỉ Kinh này có, mà Kinh khác thì không. Kinh Phật là tài sản của Phật để lại nhiều vô lượng vô biên; nhưng nói chung không ngoài bẩy thứ tên đề. Kinh cũng là một thứ tên. Như người AÁn Độ có bốn thứ giai cấp không đồng, mỗi thứ đều có tên gọi đặc biệt, như các giòng họ Bà la môn, Sát đế lợi, Thủ đà la, Chiên đà la; nhân loại cũng có nhiều giống : vàng, trắng, đỏ, đen... Kinh có thề chia làm bẩy thứ lập đề như sau :

1. Chỉ lập đề theo người : Chỉ lấy người làm tên Kinh, như Phật Thuyết A Di Đà Kinh. Phật là người, A Di Đà cũng là người, người chứng quả nói về người chứng quả. Cho nên xếp vào loại chỉ nói người. Đây là dùng hai vị chứng quả làm tên Kinh.

2. Chỉ lập đề theo pháp : Chỉ lấy pháp làm tên Kinh, như Niết Bàn Kinh. Niết bàn là pháp bất sanh bất diệt, dùng pháp này để đại biểu cho tên Kinh.

3. Chỉ lập đề theo dụ : Chỉ dùng tỷ dụ để thuyết minh chơn lý vi diệu của Kinh. Nếu nói thẳng thì không cách gì để hiểu rõ bèn dùng tỷ dụ để thuyết minh thì mới hiểu được, như Phạm Võng Kinh. Phạm võng là màng lưới của Đại Phạm Thiên Vương. Lưới là lưới cá, nhưng mà dệt bằng thứ vật chất rất quý trọng. Lụa là lụa trùm trên đầu của Đại Phạm Thiên Vương. Chỗ đặc biệt của mạng lưới này là trên mỗi mắt lưới đều có kết một hạt bảo châu. Những hạt bảo châu ấy đều là Dạ minh châu sáng chói hơn đèn điện. Mỗi hạt bảo châu lại chiếu soi một hạt bảo châu khác, mỗi ánh sáng chiếu vào nhau, mỗi mắt lưới thông nhau, ánh sáng chói lẫn nhau nhưng không xung đột nhau. ánh sáng ấy không ganh ghét một ánh sáng khác cùng chiếu như mình. Không phải là chỉ cho tự mình phát sáng mà không cho người khác phát sáng. Giữa người với người, có lúc có thể phát sanh ý kiến, nhưng giữa ánh sáng và ánh sáng thì không có xung đột và đối nghịch nhau. Kinh này dùng lưới Phạm thiên làm tỷ dụ. Mỗi điều giới luật trong Kinh cũng như một hạt bảo châu phát ra ánh sáng vậy. Người xuất gia quy y Tam bảo giữ giới thanh tịnh, đối cảnh không động tâm, có thể vượt ngoài sự vật mà được thanh tịnh, giống như lưới báu của Đại Phạm Thiên Vương vậy.

4. Lập đề theo người và pháp : Như Văn Thù Vấn Bát Nhã Kinh. Văn Thù là bậc đại trí - người thông minh nhất trong hàng Bồ tát. Chỉ có vị Bồ tát thông minh nhất mới có thể hỏi được pháp Bát Nhã trí huệ to lớn nhất mà thôi.

5. Lập đề theo người và dụ : Như Như Lai Sư Tử Hống Kinh. Như Lai nói pháp như Sư tử rống. Sư tử là vua trong loài thú, một khi nó rống lên thì trăm thú đều sợ hãi, cho nên nói rằng :

Sư tử rống, nói vô úy

Trăm thú nghe đến đều nát óc

Hương tượng chạy càng mất cả uy

Trời rồng lắng nghe sanh mừng rỡ.

Hương tượng dù thuộc vào loại thú lớn, nhưng nghe Pháp vương nói pháp cũng phải cụp đuôi trốn chạy, mất cả uy phong thường nhật. Trời rồng bát bộ nghe pháp này cũng lặng yên, hoan hỷ tán thán sanh tâm rất mừng vui.

6. Lập đề theo pháp và dụ : Như Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Diệu pháp là pháp, Liên hoa là tỷ dụ, cho nên nói là theo pháp và dụ.

7. Lập đề với đủ eả người, pháp và dụ : Như Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Đại phương quảng là diệu pháp thành Phật, Phật là người ehứng quả, Hoa Nghiêm là tỷ dụ eho nhơn hoa của vạn hạnh trang nghiêm quả đức vô thượng. Đề kinh này đủ cả người, pháp và dụ.

Phật Thuyết A Di Đà Kinh, Phật tức là Phật Thích Ca Mâu Ni, mà Kinh A Di Đà là Kinh được Phật nói ra. Nhưng vì chúng sanh không biết có Phật A Di Đà phát nguyện nhiếp thọ chúng sanh, cho nên kim khẩu Đức Phật Thíeh Ca Mâu Ni nói ra là không thưa thỉnh mà tự nói.

Toàn bộ Kinh tạng của Phật giáo cộng chung có 12 bộ :

l. Bộ Trường hàng : Giữa một bản Kinh không có ngắt đoạn cho nên gọi là Trường hàng.

2. Bộ Trùng tụng : Lập lại ý nghĩa đã nói trong Kinh; nói lập lại văn Kinh trường hàng để cho dễ ghi nhớ.

3. Bộ Thọ ký : Trong Kinh điển đề cập đến việc Đức Phật trước thọ ký cho Đức Phật sau, ví như nói : "OÂng ở kiếp nào đó sẽ được thành Phật tên là gì ? Thọ mạng bao lâu ? Chúng sanh giáo hóa được nhiều ít ? ở trong quốc độ nào ?..." đều là dự báo trước, đó gọi là Thọ ký.

4. Bộ Nhơn duyên : Do các thứ nhơn duyên mà nói các thứ pháp.

5. Bộ Thí dụ : Dùng một sự vật nào đó, tỷ dụ cho một sự vật nào đó, để thuyết minh chỗ nhiệm mầu của Phật pháp.

6. Bộ Bổn sự : Hoặc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tự thuật việc tiền thân, hoặc thuật lại những sự tích tiền thân của một vị Phật hay một vị Bồ tát nào đó.

7. Bộ Bổn sanh : Nói về sự tích đời này của Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc việc đời này của một vị Bồ tát nào đó.

8. Bộ Phương quảng : Phương là bốn phương, Quảng là rộng khắp, biểu thị pháp được nói ra rất tinh vi rộng lớn.

9. Bộ Vị tằng hữu : Những điều này là từ trước đến đây chưa từng nói mà bây giờ mới nói.

10. Bộ Bất vấn tự thuyết : Như Kinh A Di Đà, do bộ Kinh này rất trọng yếu, tất cả hàng Thanh văn không thể hiểu được, cho đến các vị Bồ tát cũng chưa có thể đạt đến cảnh giới này, nhơn đó Đức Phật tự phóng ra ánh sáng chấn động cõi đất để diễn nói bộ Kinh này.

Thông thường người ta cho rằng pháp môn Niệm Phật là của mấy bà già, người có trí thì không cần đến, đây là ý nghĩ rất sai lầm. Nếu anh không niệm Phật thì anh luôn luôn vọng tưởng, hết tưởng Đông tưởng Tây đến tưởng Nam tưởng Bắc, tạp niệm lăng xăng, dục niệm khởi lung tung, có dùng được gì đâu ? Niệm Phật có thể trừ được những vọng tưởng này. Có một khắc niệm Phật thì có một khắc không vọng tưởng, cho đến từ sáng đến tối niệm niệm không lìa Phật, thì ngày ấy không vọng tưởng. Vọng tưởng không nổi lên tức là Diệu pháp, cho nên niệm Phật hay đối trị được các thứ bịnh vặt : Vọng tưởng, tán loạn, tham sân si...

Nhứt cú Di Đà vạn pháp vương

Năm thời, tám giáo phán tinh tường

Hành nhơn chỉ việc chuyên trì niệm

Sẽ nhập Tịch Quang bất động trường.

 

Bài kệ này tôi viết hồi năm 17 tuổi. Niệm Phật có thể dứt hết cuồng tâm, cho nên Kinh này là cảnh giới cao nhất, Bồ tát đều không thể thưa hỏi được, vì họ không biết đượe chỗ vi diệu của niệm Phật cho nên Đức Phật không đợi thưa hỏi mà tự nói ra pháp môn vi diệu này. Thế thì tự hỏi mà nói có phải là pháp môn vi diệu hay không ? - Đúng thế, đều là pháp môn vi diệu thậm thâm cả !

11. Bộ Cô khởi : Cũng gọi là Phúng tụng. Trong một bộ Kinh, đó là những kệ tụng đứng riêng một mình, không liên quan gì đến văn trước hay sau cả, hoặc nói ra riêng rẻ về đạo lý, như Kinh Kim Cang.

12. Bộ Luận nghị : Nghiên cứu luận nghị về nghĩa lý của một loại Phật pháp.

Có bài kệ về 12 bộ trên như sau :

Trường hàng, Trùng tụng và Thọ ký,

Cô khởi, Vô vấn mà tự thuyết,

Nhơn duyên, Thí dụ với Bổn sự,

Bổn sanh, Phương quảng, Vị tằng hữu,

Luận nghị cộng thành 12 bộ.

Bổn ý Kinh này là dạy người ta niệm Phật A Di Đà. Tại sao phải niệm Phật A Di Đà ? - Tại vì Đức Phật A Di Đà có nhơn duyên rất lớn đối với tất cả chúng sanh trong mười phương. Phật A Di Đà khi còn ở địa vị tu nhơn (trước lúc thành Phật, khi tu hành, Ngài tên là Tỳ kheo Pháp Tạng), Ngài từng phát 48 lời nguyện lớn, mỗi một nguyện đều muốn độ chúng sanh thành Phật, và phát nguyện lớn như thế này : "Tất cả chúng sanh trong mười phương, sau khi tôi thành Phật, nếu ai hay niệm danh hiệu tôi thì đều có thể thành Phật. Những người ấy nếu không thành Phật đạo thì tôi cũng không thành Phật".

Như Bồ tát Quan Thế AÂm đã nói trong Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni : "Bạch Thế Tôn ! Nếu các chúng sanh trì tụng thần chú Đại Bi mà rơi vào ba đường ác thì con thề không thành Chánh giác. Người trì tụng thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng Tam-muội biện tài thì con thề không thành Chánh giác. Người trì tụng thần chú Đại Bi mà ở trong đời hiện tại tất cả những điều mong cầu nếu không toại nguyện thì không phải là Đại Bi Tâm Đà-la-ni vậy".

Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ eủa Ngài, nếu một chúng sanh nào chưa được nhiếp thọ thì Phật A Di Đà cũng không nguyện thành Phât. Pháp môn niệm Phật là : "Ba căn khắp độ, lợi độn gồm thâu". Hễ ai xưng niệm danh hiệu của Phật thì đều có thể thành Phật. Ba căn là chỉ ba thiện căn thượng, trung và hạ. Không luận là người thiện căn lanh lợi, bình thường, cho đến quá ngu si, chỉ cần hay niệm Phật đều có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây, hóa sanh trong hoa sen, không có các khổ, chỉ thọ những điều vui, ở trong hoa sen thác sanh làm người, chớ chẳng phải như ở nhơn gian từ thai mẹ mà sanh ra.

Có người nói : "Niệm Phật chắc có thể thành Phật hay không ? Tôi không tin. Làm sao mà dễ dàng như vậy ?" - Niệm Phật mà có thể thành Phật là do nhờ sức đại nguyện của Phật A Di Đà mà được, chớ nói rằng không tin. Phật A Di Đà trước kia đã đoan chắc với ta rằng : "Sau khi ta thành Phật, chỉ cần anh niệm danh hiệu ta, anh cũng thành Phật". Cho nên người niệm Phật đều có thể làm Phật. Niệm Phật cũng là một loại thiện căn đấy.

Trước đây có một ông già khoảng chừng hơn 90 tuổi, già đến độ đi không muốn nổi, không biết ngày nào sẽ chết, cho nên muốn xuất gia sớm một tí, vì cho rằng xuất gia rất dễ dàng, hễ muốn xuất gia là xuất gia được ngay. Khi ông đến tinh xá Kỳ Hoàn, nhằm lúc Phật đi phó trai vắng, lúc ấy, đệ tử Phật có rất nhiều vị đã chứng quả A-la-hán, bèn dùngThiên nhãn quan sát nhơn duyên của ông lão này thì biết rằng ông ta trong tám vạn đại kiếp chưa từng gieo trồng chút căn lành nào, nên không cho ông xuất gia. Vì thế có câu :

"Chớ bảo xuất gia là dễ được,

Phải do nhiều kiếp có căn lành".

Chớ cho xuất gia là rất dễ dàng, vì việc ấy không đơn giản đâu.

OÂng lão ấy xin xuất gia, bị cự tuyệt, trong lòng không vui : "Tôi cho xuất gia rất dễ dàng, té ra lại khó thế ư ?" Vì thế tâm ý buồn bực, muốn nhảy xuống sông Hằng chết quách, may nhờ Đức Phật ở xa níu lại và hỏi nguyên do. OÂng lão đáp : "Tôi sống cũng không ích gì, Phật không có ở nhà, đệ tử Phật lại không cho tôi xuất gia, muốn đi làm mướn cũng không ai kêu, chi bằng chết quách cho xong !"

(Bấy giờ nhứt định là không có trợ cấp dưỡng lão, nếu có chắc ông lão này không muốn tự sát đâu).

Phật mới an ủi ông rằng : "OÂng không cần phải nhảy xuống sông làm chi, ta sẽ thâu ông làm đồ đệ".

OÂng lão hỏi : "OÂng là ai mà có quyền ấy ?'

- Ta là Phật Thích Ca Mâu Ni đây, ta thâu ông làm đồ đệ, đệ tử ta sẽ không phản đối đâu.

OÂng lão nghe nói bèn gạt lệ vui mừng theo Phật trở về và xuống tóc thọ giới. Sau khi nghe Phật khai thị, ông liền chứng được Sơ quả.

Tại sao ông có thể chứng được Sơ quả ? Tại vì trước kia ông muốn chết mà bây giờ cái chết ấy được khắc phục. Do lúc đầu chưa thỏa ý nguyện xuất gia mà khởi lên ý niệm nhảy xuống sông tự sát, còn bây giờ ông ta được xuất gia, không cần phải nhảy xuống sông nữa, cũng kể như là mình đã chết rồi thì còn có cái gì bỏ không đượe nữa ? Ngay lúc đó được đại tự tại mà chứng Sơ quả. Điều này làm cho các vị đại A-la-hán nghi ngờ : "Không có thiện căn làm sao có thể chứng quả được ?" Các Ngài bèn đảnh lễ chân Phật thưa hỏi về lý do này. Phật nói : "A-la-hán các ông chỉ có thể thấy được trong vòng tám vạn đại kiếp ông lão này không có thiện căn, nhưng những việc ngoài tám vạn đại kiếp các ông không thấy đươc. OÂng lão này trước tám vạn đại kiếp là một vị tiều phu, một hôm lên núi đốn củi, gặp một con cọp, bèn lật đật trèo lên cây trốn, con cọp này chạy rất nhanh, nhưng ông ta leo lên cây cũng không đến nỗi chậm, tưởng rằng sau khi trèo lên cây sẽ thoát nạn. Nào ngờ con cọp này rất thông minh, nó bắt đầu lấy hàm răng cạp thân cây, thân cây dầu lớn, nhưng cọp ta có hàm răng rất sắc, cạp bên này một miếng, cạp bên kia một miếng, chẳng mấy chốc cạp đến một nửa thân cây. Người tiều phu ấy sợ mất cả hồn vía, mắt thấy tánh mạng mình như ngàn cân treo sợi tóc, đột nhiên nhớ niệm Phật, bèn cất tiếng niệm lớn : "Nam mô Phật !" Tiếng niệm Phật lớn ấy làm cho cọp ta sợ quá cúp đuôi chạy mất. Nhưng người tiều phu ấy qua việc đó rồi không còn nhớ đến niệm Phật nữa, trong tám vạn đại kiếp lại cũng không có gieo trồng căn lành nào, nhưng nhơn lành gieo trồng từ trước đến nay đã thành thục, cho nên được gặp Phật mà có thể xuất gia thành đạo quả".

Đây chính là nhơn duyên xuất gia của ông lão này, do đó có thể biết xuất gia không phải là việc tùy tiện. Có một số người thường nói : "Tôi muốn xuất gia ! " Nhưng những người nói lời này vẫn còn tại gia, đó chính là căn lành của họ chưa thành thục.

Hôm nay có một Tỳ kheo ni đến đây, cô ta xuất gia ở Mã Lục Giáp, lại thọ giới ở Nhật Bản, cứ nghe cô ta nói là thọ 16 giới, 18 giới. Nhưng tôi cũng không biết đó là giới gì ?

Về sau cô ta thâu nhận hơn 100 nam đồ đệ. Theo quy củ của Đại tòng lâm ở Trung Quốc thì nam phái chỉ quy y với nam sư phụ, chớ không thể kính nữ phái làm Thầy. Hiện tại tôi có 5 vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni quốc tịch Mỹ sắp thọ giới Cụ túc, nhưag tôi chưa quan sát được trong tám vạn đại kiếp họ có căn lành hay không ? Sau khi qua một phen khảo sát, tôi mới cho họ thọ giới Cụ túc. Tôi chỉ thấy họ đã sửa đổi rất nhiều tập khí vặt vãnh, họ không còn hút thuốc, uống rượu, uống thuốc kích thích; tuy nhiên, sau khi quy y, họ vẫn phạm giới hút thuốc, rồi lại sửa đổi, cho nên tạm thời cho họ có một cơ hội cải hóa. Thời hạn ít nhất phải là một năm để theo dõi. Xưa nay vị Thầy thâu nhận đệ tử phải theo dõi đệ tử mình 3 năm, đệ tử phải học hỏi với Thầy 3 năm, cộng tất cả là 6 năm, rồi mới cho là hợp cách xuất gia. Nhưng bây giờ là thời đại nguyên tử, một năm cũng quá đủ rồi.

Có người hỏi : "Năm vị xuất gia này trong tám vạn đại kiếp có gieo trồng căn lành hay không ?"

- Bọn họ trong một năm tụng chú Đại Bi, niệm Phật, bái sám ... đã gieo trồng rất nhiều căn lành rồi, là nhơn thành Phật trong tương lai, nên hứa cho họ xuất gia. Sở dĩ người đã gieo trồng căn lành cần phải trân trọng giữ gìn cho thật kỹ, chớ để mất mát. Đừng nên giống như hành vi không đúng pháp của vị Tỳ kheo ni đã nói ở trên.

Sau đây xin nói về năm lớp huyền nghĩa của tông Thiên Thai :

l. Thích danh : Biết được tên mới có thể theo tên nghĩ đến nghĩa, rồi theo đó mà hiểu rõ về đạo lý của nó. Cho nên học Kinh, trước hết phải biết tên của Kinh. Như người ta đều phải có tên, nhơn đó người ta mới có tên gọi khác nhau, có người kêu Trương Tam, có người kêu Lý Tứ ...

2. Hiển thể : Sau khi biết tên, lại cần phải biết thân hình người ấy ra sao, gầy béo cao thấp thế nào ? Nếu không nhặn biết thì khác nào biết được tên người và hình dáng, mà chỉ thấy lưng chớ không thấy được mặt của người ấy, eho nên trước phải hiển bày về Thể.

3. Minh tông : Rõ đươc bản thể thì phải rõ về tông. Nếu không rõ về tông thì không thể rõ nghĩa lý, như người có chức nghiệp gì.

4. Luận dụng : Dụng là lợi dụng.

5. Phán giáo : Phê phán về Giáo tướng riêng khác của Kinh.

Kinh A Di Đà là lập đề chỉ theo người, là Kinh mà Đức Phật không ai thưa thỉnh, tự nói ra, lấy Thật tướng làm Thể, Thật tướng tức Không tướng, nhưng lại không chỗ nào chẳng có tướng. Nhơn Không tướng cho nên là Chơn không; lại không chỗ nào chẳng có tướng, tức là Diệu hữu; tất cả tướng đều Thật tướng, cho nên Thật tướng mới là Vô tướng mà không chỗ nào chẳng có tướng. Vô tướng cũng chính là không chỗ nào chẳng có tướng, tức không có một tướng hoặc không có tướng, cả hai đều không chấp trước. Kinh này lấy Thật tướng làm bản thể. Thật tướng tức Chơn như, cũng chính là Nhứt chơn pháp giới. Kỳ thực, Như Lai tạng tánh cũng chính là Chơn như thật tánh, chỉ có tên gọi khác nhau mà thôi.

Tín, Nguyện, Hạnh là ba thứ tư lương của người tu theo pháp môn Tịnh độ, như người trước khi đi xa cần phải dự bị lộ phí và lương thực. Anh muốn đi sang thế giới Cực Lạc cũng phải chuẩn bị ba thứ tư lương, trước tiên phải có lòng tin, nếu không thì sẽ không có duyên với thế giới Cực Lạc. Trừ việc tự tin nơi chính mình, cũng phải tin ở người khác, tin nhơn, tin quả, tin sự, tin lý.

Thế nào là tin ở chính mình ? Đó là tin ở tự mình quyết định có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây, đừng nên khinh thường tự mình mà nói : "Tôi tạo rất nhiều tội làm sao có thể sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây được ?" Nghĩ như thế tức là không tin ở chính mình. Không luận là anh gây tạo ác nghiệp như thế nào đi nữa, đều có thể có cơ hội đới nghiệp vãng sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây, nhưng mà nghiệp mang theo là nghiệp cũ chớ không phải nghiệp mới. Tội nghiệp đời trước có thể mang đi, nhưng chẳng thể mang đi ác nghiệp tương lai được. Những ác nghiệp gây tạo trước đây hiện tại đều cần phải sửa đổi; sau khi cải ác hướng thiện mới có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây. Nếu người sau khi niệm Phật, lại không chịu sửa lỗi, vẫn tiếp tục tạo nghiệp, chẳng những không thể đới nghiệp vãng sanh, mà ngay cả thế giới Cực Lạc phương Tây cũng không đi được. Cho nên niệm Phật, lạy Phật là gieo trồng nhơn lành để tương lai có thể thành Phật, chẳng phải là nói hiện đời được đi. Vì thế người tin theo Phật, chẳng nên biết rồi mà cố phạm. Khi chưa quy y Tam bảo và tin Phật, đã lỡ tạo ác nghiệp còn có thể tha thứ; nhưng sau khi tin Phật và quy y Tam bảo rồi mà còn gây tạo tội nghiệp thì tội ấy nặng thêm một bực, là do biết pháp mà còn phạm pháp. Cho nên phải tin nơi chính mình có khả năng "cải hóa tự tân", thì chắc chắn sẽ được vãng sanh thế giới Cực Lạc phương Tây.

Tin người khác là tin theo lời Phật nói, chắc chắn có thế giới Cực Lạc ở phương Tây cách đây 10 vạn ức cõi nước Phật. Cõi nước Phật này là do Tỳ kheo Pháp Tạng thuở xưa (tức Phật A Di Đà bây giờ) phát nguyện mà thành tựu. Tất cả chúng sanh ở mườỉ phương nếu muốn sanh về Tịnh độ này thì có thể vãng sanh như ý nguyện, đã không phí việc, lại không tốn tiền, chẳng hao sức, dễ dàng lại đơn giản, phương tiện mà viên dung, chỉ cần chuyên tâm niệm "Nam mô A Di Đà Phật" mà thôi. Đây quả là một pháp môn chí cao vô thượng. Tin như thế tức là tin người khác (Tín tha). Tin quả, tin nhơn. Chúng ta cũng cần phải tin vào ehính mình đã từng gieo trồng nhơn lành từ quá khứ, nhờ có căn lành nên đời hiện tại mới gặp pháp môn niệm Phật này. Ngoài ra, đời này cần phải vun trồng Tín, Nguyện, Hạnh, thì căn lành mới có thể thêm lớn mà thành tựu quả vị. Cho nên tin có nhơn quả là tự tin mình thuở xưa đã từng gieo trồng nhơn Bồ-đề và ở tương lai nhất định sẽ thành tựu quả Bồ-đề. Nhưng kết quả đó muốn đạt được thì phải kinh qua sự vun trồng và tưới tẩm mới có thể thêm lớn được.

Có người nói : "Tôi không biết mình có căn lành gì ?'

- Anh làm sao biết mình có hay không có căn lành ? Thường thường có người hỏi tôi : "Thầy xem tôi có căn lành không ?" Tôi trả lời : "Anh xem tôi có căn lành không ?" Người ấy nói : "Tôi không biết !" Tôi nói : "Anh không biết mình có căn lành hay không thì làm sao tôi biết được ? Nhưng mà tôi có cách biết. Nếu anh không có căn lành thì đời này sẽ không thể nào gặp được Phật pháp, cho nên anh phải tự hiểu về đạo lý này".

Người không biết được Phật pháp, hoặc có thể là không có căn lành, giả sử có gặp được, cũng không thể có duyên. Chỉ vì căn lành là phải được gieo trồng, nếu không gieo trồng thì hoàn toàn không có căn lành; cho nên có căn lành hay không việc đó không quan trọng, quan trọng nhất là đời này mình phải nương theo Phật pháp mà tu hành, vun bồi tưới tẩm căn lành của chính mình. Chớ nói Phật pháp dạy người không nên uống rượu mà anh lại đi uống rượu bạt mạng, cho đến phạm cả những tội sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối nữa. Sau khi tin Phật rồi, đã biết rõ mà cố phạm, cho đó là những lỗi vặt không hề chi. Chính vì ý nghĩ "không hề chi" đó mà người ta phải sa vào địa ngục, làm ngạ quỷ, chuyển thân súc sinh. Tất cả đều nhơn cái hại của câu nói "không hề chi" này. Cho nên phải tin vào chính mình đời nay gieo trồng căn lành, đời sau mới có quả lành.

Tin lý, tin sự. Tin rằng Đức Phật A Di Đà cùng chúng ta có nhơn duyên lớn, tương lai nhất định có thể tiếp dẫn chúng ta thành Phật. Đây tức là Sự. Tại sao nói Đức Phật A Di Đà có nhơn duyên lớn đối với chúng ta ? Nếu không có nhơn duyên thì đời nay chúng ta dâu gặp được pháp môn Tịnh độ. Tất cả chúng sanh tức là Phật A Di Đà, Phật A Di Đà tức là tất cả chúng sanh. Phật A Di Đà nhơn niệm Phật mà thành, tất cả chúng sanh nếu hay niệm Phật, cũng có thể thành Phật, đây tức là Lý. Người nương Sự Lý mà tu hành như tông Hoa Nghiêm đã lập, tức "Sự vô ngại pháp giới, Lý vô ngại pháp giới, Lý sự vô ngại pháp giới, Sự sự vô ngại pháp giới".

"Lý sự vô ngại pháp giới" cùng Tự tánh Phật A Di Đà căn bản là một. Cho nên chúng sanh đều có tư cách thành Phật. Sao gọi là Sự lý ? - Xin đưa ra một việc dễ hiểu, phàm sự tướng đều có sự biểu hiện của nó, như cây gỗ có thể làm nhà, đây tức là Lý, làm thành phòng nhà rồi, tức là Sự; đó là nghĩa Sự Lý. Chúng ta hiện tại có Lý thành Phật này, mà cũng có Sự thành Phật nữa. Chúng ta nếu có : Tín, Nguyện, Hạnh, Trì danh, thì tương lai sẽ đạt đến sự thành Phật.

Phật A Di Đà là Phật A Di Đà trong tâm chúng sanh, chúng sanh cũng là chúng sanh trong tâm Phật A Di Đà, sự quan hệ này cũng có sự và lý, nhưng đạo lý này cần phải có lòng tin và sự thực hành không được biếng trễ. Ví như niệm Phật phải mỗi ngày một tăng lên, không nên mỗi ngày một ít đi. Khi chúng ta niệm "Nam mô A Di Đà Phật", thì trong nước Bát công đức của ao thất bảo nơi thế giới Cực Lạc phương Tây sẽ mọc lên một hoa sen. Niệm Phật càng nhiều thêm thì hoa sen càng lớn dần, nhưng vẫn chưa nở. Đợi đến lúc chúng ta mạng chung thì đương nhiên chúng ta sẽ sanh vào trong hoa sen ở thế giới Cực Lạc. Sở dĩ chúng ta muốn biết phẩm vị của mình cao hay thấp, là Thượng phẩm thượng sanh, Trung phẩm trung sanh hay Hạ phẩm hạ sanh, thì phải xem công phu niệm Phật của chúng ta nhiều hay ít. Anh càng niệm Phật nhiều thì hoa sen càng nở lớn ra. Anh niệm Phật ít đi thì hoa sen nở nhỏ lại. Nếu không niệm, hoặc có lúc niệm rồi không niệm nữa, thì hoa sen kia sẽ khô rụi đi. Cho nên điều cần thiết là anh phải tự tranh thủ lấy quả vị của chính mình : Niệm Phật càng nhiều, trì danh, tin sâu không dời đổi, nguyện thiết tha, thực hành mãi không biếng lười. Không nên nói ngày nay ngủ nhiều một tí, ngày mai sẽ tu tiếp. Việc này không thể nào chấp nhận được. Tu hành thì không thể biếng lười, mà phải siêng năng tinh tấn thì mới có thể thành công.

Thế nào gọi là nguyện ? - Nguyện là ý nguyện, tức là chỗ ý hướng đến, tâm nghĩ đến điều gì đó rồi phát ra lời nguyện. Nguyện có bốn thứ, tức là :

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Chư Phật cùng Bồ tát thuở quá khứ; chư Phật, Bồ tát ở hiện tại; chư Phật, Bồ tát trong tương lai cũng đều y theo bốn hoằng thệ nguyện này mà tu hành chứng quả. Bốn hoằng thệ nguyện này là y theo bốn đế mà phát ra. Bốn dế là : Khổ đế, Diệt đế, Tập đế và Đạo đế.

Y theo Khổ đế thì phát ra lời nguyện "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ"; y theo Tập đế thì phát ra lời nguyện "Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn"; y theo Đạo đế thì phát ra lời nguyện "Pháp môn vô lượng thệ nguyện học"; y theo Diệt đế thì phát ra lời nguyện "Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành". Hơn nữa, bốn hoằng thệ nguyện cũng là chiếu theo ba khổ : Khổ khổ, Hành khổ, Hoại khổ của chúng sanh mà phát ra. Khổ khổ chính là những nghèo cùng khốn khổ của chúng sanh. Hoại khổ chính là chúng sanh dù được giàu sang, nhưng sự giàu sang đó hư hoại đi. Hành khổ chính là đã không phải bị khổ sở vì nghèo thiếu, cũng không phải là giàu sang bị hư hoại, mà là hành khổ của vô thường biến đổi. Từ nhỏ đến lớn, từ lớn đến già, từ già đến chết, suốt cả một đời niệm niệm đổi dời, cho nên có ba khổ.

Tám khổ : Sanh, già, bệnh, ehết, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh. Sanh là khổ, già là khổ, có bệnh là khổ, lúc chết lại càng khổ, sanh gỉà bệnh chết đều là khổ; Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhơn nhìn thấy khổ sanh già bệnh chết liền phát tâm xuất gia, tu hành. AÙi biệt ly khổ là nỗi khổ đối với người mình yêu thích mà vì hoàn cảnh nào phải xa lìa. Yêu mà phải xa lìa là một thứ khổ, mà không yêu lại thường hội tụ ở một chỗ cũng là một thứ khổ, đó gọi là Oán tắng hội khổ. Ví dụ : Anh không thích người ấy, ở một nơi nào đó lại chạm mặt với người ấy và cùng làm việc chung với họ, nỗi khổ ấy gọi là Oán tắng hội khổ. Lại có một thứ gọi là Cầu bất đắc khổ, nghĩa là không được toại lòng mong muốn, mong muốn được mà không thể được. Khi chưa được thì lo lắng cho được, khi đã được rồi thì lại sợ mất mát. Nhưng cái thứ khổ lo được lo mất không kể gì lợi hại, chính là Ngũ ấm xí thạnh khổ. Ngũ ấm là Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm thứ này giống như là ngọn lửa cháy bừng bừng. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, năm ấm này giờ giờ khắc khắc đều đi theo trên thân thể chúng ta khiến cho nhận lấy vô vàn sự thống khổ.

Ngoài tám khổ ra còn có vô lượng vô biên khổ nữa. Tại sao có quá nhiều khổ như vậy ? Đó là vì chúng ta trong đời quá khứ gieo trồng quá nhiều nhơn khổ, cùng làm bạn bè với chúng mà không muốn xa lìa, vì thế gieo trồng nhơn duyên của khổ này mà nhận lấy khổ quả. Cho nên nói : "Muốn biết nhơn đời trước, hãy xem đời nay nhận quả gì" (Cái mà anh nhận lấy đời này chính là do những việc làm của anh từ đời trước). "Muốn biết quả đời sau, hãy xem đời này gieo nhơn gì ". (Đời này anh làm việc gì, thì đời sau sẽ kết thành quả đó).

Vì thế, anh gieo trồng nhơn lành thì sẽ hưởng kết quả lành, anh gieo trồng nhơn ác thì sẽ nhận kết quả ác, đương lúc quả thành thục thì lòng rất sợ hãi. Bồ tát thì sợ nhơn chớ không sợ quả; còn chúng sanh thì sợ quả chớ không sợ nhơn. Sợ tức là sợ hãi. Bồ tát thì sợ nhơn chớ không sợ quả, cho nên cẩn thận, dè dặt, không trồng nhơn khổ, vì thế các Ngài không có quả khổ. ÔÛ thời quá khứ, khi chưa rõ ràng, các Ngài cũng gieo trồng nhơn khổ; hiện tại quả khổ đến, các Ngài vui vẻ tiếp nhận, vì hiểu rõ rằng thọ khổ thì hết khổ, hưởng phước thì hết phước. Nhưng chúng sanh sợ quả mà không sợ nhơn, khi gieo trồng nhơn bất kể là nhơn tốt hay xấu, nhơn thiện hay ác, cứ cho là việc nhỏ không ăn thua gì, cho nên mặc tình gây tạo, không để tâm cẩn thận một tí nào. Nhơn gì cũng gieo, nên khi thọ khổ thì thọ hoài không hết, rồi than van rằng : "Sao mà gặp cái thứ hoàn cảnh trớ trêu như vầy ?" Đã sợ nhận lấy quả khổ, thế thì trước kia đừng gieo trồng nhơn khổ có hơn không ? Sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây thì không có các khổ, chỉ thọ các điều vui. Không có một chút khổ nào là vì người ở đó đều thanh tinh, không có tâm tranh đua, tham dục, si mê và ba ác đạo. Vì không có ba độc tham sân si cho nên không có ba thứ ác đạo. Ba ác đạo là do ba độc biến hiện ra. Phật độ tất cả ehúng sanh mà không thấy một chúng sanh nào được diệt độ, đó chính là phát tâm khiến cho tất cả người tu Bồ tát đạo, khiến tất cả người lìa khổ được vui, khiến tất cả người đều được thành Chánh giác. Dầu độ chúng sanh nhưng không có tướng độ chúng sanh. Độ sanh lìa tướng, lìa tướng độ sanh, không dính mắc vào tướng, nói : "Chúng sanh này là của tôi độ, chúng sanh kia cũng của tôi độ, độ 1 người, ... 10 người, tôi độ được 10 chúng sanh". Độ chúng sanh phải là không tính số, có tính số thì có chấp trước, không tính số thì không chấp trước. Độ mà không độ, không độ mà độ, đó mới thiệt là độ chúng sanh. Chúng sanh bên ngoài dĩ nhiên là đáng độ. Chúng sanh trong tự tánh cũng phải đáng độ. Trong tự tánh có 84.000 chúng sanh, càng cần phải độ cho nó tu hành thành Phật, nhập Niết bàn. Độ chúng sanh, có độ là độ phiền não của chúng sanh, không độ thì chúng sanh vẫn còn phiền não, mà phiền não có 84.000 thứ ... Hàng Nhị thừa dứt được Kiến hoặc và Tư hoặc, nhưng vẫn còn Trần sa hoặc. Bồ tát có Vô minh hoặc. Vô minh là thứ nặng nề nhứt. Chúng sanh trừ được Kiến tư hoặc, Trần sa hoặc, nhưng vẫn còn Vô minh hoặc. Bồ tát Đẳng giác dứt được Trần sa hoặc, khi sắp thành Phật, hãy còn một phần Sanh tướng vô minh rốt sau, cũng giống như 84.000 sợi lông chỉ còn thừa lại một sợi, chỉ cần nhổ được sợi lông đó là xong. Bồ tát Đẳng giác dứt được Sanh tướng vô minh, liền chứng Diệu giác, tức thành Phật.

Sao gọi là Kiến hoặc ? - Kiến là đối cảnh khởi tâm tham ái. Đối cảnh giới khởi tâm tham cùng tâm ái, không thấy rõ cảnh giới này mà nhận rằng tất eả là thật có . Vì nhận cho là thật nên ăn cơm cũng là thật, ngủ nghỉ cũng là thật, không có bạn bè cũng cho là thật, đó chính là không rõ ràng. Thấy (kiến), cho là tốt đẹp, rồi sanh ra tham ái vô cùng vô tận, không bao giờ biết đủ biết chán, đó chính là Kiến hoặc, đối cảnh khởi tâm tham ái.

Sao gọi là Tư hoặc ? - Tư hoặc chính là mê lý khởi phân biệt, đối lý không rõ ràng mà khởi ra phân biệt. Không biết vị Pháp sư đó giảng có đúng không ? Có chỗ nào hay không ? Có lợi ích gì eho mình không ? Không ích lợi thì không muốn làm. Việc mình làm nhất đinh phải có lợi ích, chỉ thấy trước mặt 3 tấc, mà chẳng thấy được trước mặt 4 tấc. Chỉ thấy cảnh trước mắt mà chẳng thấy được nơi chốn xa xôi kia. Đó đều là Tư hoặc.

Tư hoặc chính là những tư tưởng không rõ ràng, mơ mơ hồ hồ. Không đúng cho là đúng. Vừa rồi tôi nói nhận cho ăn cơm là thật, mặc áo cũng là thật, nếu không phải là giả thì anh thấy cái gì là thật ư ? Mặc áo, ăn cơm, ngủ nghỉ đều là quá trình của đời người. anh không cần chấp trước phải nhận chân là thế nào. Nếu anh không chấp trước thì có thể nhẹ nhàng tự tại. Còn nếu anh chấp trước thì sẽ bị thống khổ. Nếu anh cho là tất cả đều không thật, thì sẽ không có tham ái, giống như trong chiêm bao làm những việc lung tung. Nghĩ ra như thế anh sẽ buông bỏ hết, mọi sự tình rồi sẽ qua đi. Nếu anh bỏ không được thì có chấp trưởc, mọi sự tình sẽ không qua được. Đó là Kiến hoặc. Có 88 phẩm Kiến hoặc và 81 phẩm Tư hoặc. Phá được Kiến hoặc trong ba cõi thì chứng được Sơ quả A-la-hán. Kiến hoặc không phá được thì không thể nào chứng quả được. Đối với tất cả cảnh giới anh có tâm ái không ? Có tâm tham không ? Đối vời cảnh có khởi tâm tham ái không ? Đối với cảnh giới vừa lòng có khởi tâm tham ái không ? Đối với cảnh giớì không vừa lòng có khởi tâm giận ghét không ? Anh có thể trừ bỏ được tâm tham ái không ? Nếu anh thiệt không có, thì rốt cuộc nó sẽ không còn tồn tại. Làm sao biết "anh không có tham ái ?" Nhơn vì anh còn biết có chính mình trong đó cho nên anh nói không tham không ái, nhưng mà lại còn có cái Ngã ở trong, vì chưa chứng Sơ quả nên chưa phá được. Việc đó không phải nói không là không một cách dễ dàng.

Ngũ lợi sử là : Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến, Kiến thủ kiến, Giới cấm thủ kiến. Sao gọi là Lợi ? - Lợi là đến nhanh chóng, trái với Độn là đến chậm chạp.

1. Thân kiến : Chấp trước đây là thân thể của ta. Thân thể của ta gầy đi, cảm thấy ăn không ngon, mặc không vừa ý, ở không thoải mái. Thân thể ta như thế thì làm sao an toàn được? Suốt ngày từ sáng tới tối cứ lo nghĩ về mình.

2. Biên kiến : Chính là chấp đoạn chấp thường. Chấp đoạn thì cho rằng người ta chết đi trở về với hư không, không còn gì nữa, như dầu hết đèn tắt. Chấp thường thì cho là con người chết đi, thì sao ? Vẫn làm người nữa; chó mãi mãi làm chó, mèo cứ làm mèo hoài; người luôn luôn làm người, chớ không đổi làm chó mèo được. Những kiến chấp như trên lạc vào nhị biên nên gọi là Biên kiến, không hợp với Trung đạo. Đời nay làm người, đời sau vẫn làm người. Cỏ vẫn là cỏ, cây vẫn là cây, người không thể làm súc sanh, cũng không thể làm quỷ. Đó chính là Biên kiến.

3. Tà kiến là thế nào ? - Tà kiến là cho rằng làm lành không có quả báo lành, làm ác cũng không có quả báo ác. Họ bác không nhơn quả, hoàn toàn không nhơn không quả. Họ không tin làm lành được phước, làm ác phải tội.

4. Giới cấm thủ kiến : Dạy người giữ giới bò, giới chó. Giữ giới bò là bắt chước theo bò ăn cỏ. Tại sao thế ? Nhơn vì họ thấy biết sai lầm, thấy bò được sanh lên trời cho nên bắt chước theo bò, thấy chó được sanh lên trời cho nên bắt chước theo chó.

Giới kiến : Không phải nhơn chấp là nhơn, cũng là giới thủ. Người xuất gia giữ giới có tâm chấp trước này, họ chấp rằng ta hay giữ giới, giới này là giới của ta giữ, có một thứ tâm hay giữ giới và những giới được giữ. Họ không biết rằng bản thể của giới xưa nay vốn là rỗng không, không nên chấp trước. Hễ có chấp trước thì biến thành Giới thủ.

5. Kiến thủ kiến : Không phải quả chấp là quả. Không phải là quả rốt ráo, họ cho đó là quả rốt ráo. Họ cho Tứ Thiền Thiên và Tứ Không Xứ là Niết bàn, đó gọi là "không phải quả chấp là quả".

Tứ Thiền : Sơ thiền thiên, Nhị thiền thiên, Tam thiền thiên, Tứ thiền thiên.

Người tọa thiền lên đến cảnh giới Sơ thiền có thể không còn thở nữa, không có sự hô hấp. ÔÛ cảnh giới này tuy không còn hô hấp nhưng vẫn có một niệm động, một khi phát sanh nỉệm động này thì hô hấp sẽ trở lại. Đó là Sơ thiền.

Nhị thiền là mạch đứt rồi, khí hô hấp không còn nữa thì mạch cũng ngừng luôn, gỉống như người chết. Tuy mạch ngừng đập nhưng không phải chết. Đó là cảnh giới của Nhị thiền

Tam thiền là ngồi cho đến ý niệm cũng ngừng bặt. ÔÛ Sơ thiền, Nhị thiền không còn hô hấp nữa, mạch cũng ngừng đập, nhưng lại còn có ý nỉệm, đến Tam thiền thì ý niệm đó cũng không còn nữa vì thường ở trong định.

Đến Tứ thiền thì chỉ còn thức mà thôi. Tam thiền không có ý niệm là không có ý niệm thô, nhưng ý niệm tế vẫn còn; đến Tứ thiền cả ý niệm tế cũng dứt luôn. Cảnh giới này chỉ là con đường cần phải kinh qua của người tu Thiền, chớ không phải là quả chứng. Không chỉ nói Tứ thiền, mà ngay cả Tứ không xứ : Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng chẳng qua chỉ là một thứ định, chớ không phải là quả chứng; nếu có chấp lấy (Kiến thủ) thì có thể cho cảnh giới này là Niết bàn và cho là chứng đắc quả A-la-hán thứ tư. Như Vô Văn Tỳ kheo cho Tứ thiền là Tứ quả, đó là vì anh ta không hiểu. Những Kiến hoặc... ở trên là Ngũ lợi sử.

Tư hoặc... là Ngũ độn sử. Độn tức là đến chậm chạp. Ngũ độn sử là tham, sân, si, mạn, nghi. Tại sao người ta có phiền não ? - Đó là vì có vô minh. Sau khi Vô minh sanh ra thì có Trần sa hoặc. Trần sa hoặc còn gọi là Vô minh hoặc, tức là không có hiểu biết đúng đắn. Tư hoặc cũng có thể gọi là Vô kiến hoặc, tại vì sau khi Vô minh sanh ra bèn có Tham, anh nghĩ ra phải có được cái gì đó, bèn sanh ra tâm tham, rồi sanh ra các thứ phiền não; phiền não một khi sanh ra, sẽ sanh ra tâm Sân; tâm Sân một khi sanh ra thì chỉ biết về mình mà chẳng biết có người khác. Vì chỉ biết có mình, cho nên khi tâm sân hận sanh ra thì muốn hạ thấp giá trị của người khác. Có thứ tâm này chính là ngu si, không phân biệt được phải quấy trắng đen, bất kể tất cả. Nguyên do chính là không biết đạo lý, ngay đến ngu si, phải quấy, cong ngay, đen trắng đều không nhận ra. Vì có ngu si mới sanh ra tâm kiêu mạn. Vì có tâm kiêu mạn nên lại sanh ra một thứ nghi, nên không tin đạo lý do bất cứ ai giảng giải. Thiệt cũng không tin, giả càng không tin nữa. Sanh ra mọi thứ hoài nghi, đó chính là Tư hoặc. Do Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa hoặc mà thành các thứ Vô minh phiền não. Cho nên các thứ phiền não vô cùng vô tận không có lúc nào hết. Trước tình hình này người tu hành phải nương vào Tứ đế mà phát lời thệ nguyện : "Phiền não vô tận thệ dứt trừ".

"Pháp môn vô lượng thệ nguyện học", nghĩa là người tu hành cần phải hiểu rõ các thứ pháp môn. Các thứ pháp môn nhiều vô lượng vô biên, cũng chính là một thứ pháp môn để tu hành. Nếu anh không rõ biết phương pháp thì anh không thể tu hành được, vì muốn tu hành thì phải rõ phương pháp. Phương pháp này rất nhiều, nhiều đến vô lượng vô biên, cho nên phải nương theo Đạo đế mà phát nguyện lực : "Pháp môn vô lượng thệ nguyện học".

Sao gọi là pháp môn vô lượng ? Vô ]ượng pháp môn từ đâu mà có ? - AÁy là : Phật nói tất cả pháp nhơn vì tất cả tâm của chúng sanh. Nếu không tất cả tâm, thì cần gì tất cả pháp ? Tất cả pháp đều do tâm chúng sanh mà có, vì tâm chúng sanh có ngàn sai muôn khác, các thứ không giống nhau, tâm của mỗi con người đều không giống nhau, cho nên pháp môn cũng có nhiều thứ không đồng. Tóm tắt lại pháp có ba thứ : Phật pháp, tâm pháp và chúng sanh pháp. Ba pháp này sanh ra Tứ đế, Lục độ, 12 nhơn duyên, 37 phẩm Trợ đạo... Cho nên nói : "Pháp môn vô lượng thệ nguyện học".

Pháp môn có rất nhiều, giống như chúng ta giảng kinh này xong lại giảng đến bộ kinh khác, đó không phải là vô lượng hay sao ? Chúng ta hiện tại giảng kinh cũng như một giọt nước trong biển cả mà thôi ! Chớ không phải là tất cả nước trong biển cả đều được hết. Chúng ta học Phật pháp để làm gì ? Tại sao phải học Phật pháp ? Nhơn vì học Phật pháp chính là muốn được thành Phật.

Nhưng thành Phật có phải là vọng tưởng không ?

Thành Phật không phải là vọng tưởng đâu, tại vì quả vị Phật là quả vị xưa nay sẵn có của chúng ta, mọi người đều có thể thành Phật, vì thế chúng ta phải nhanh một bước để sớm thành quả Phật, và y theo Diệt đế mà phát lời nguyện : "Phật dạo vô thượng thệ nguyện thành".

Diệt đế chính là đạt đến Niết bàn, đạt đến quả vị rốt ráo thanh tịnh bất sanh bất diệt, cho nên nói là "Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành". Chúng ta đối với sự kiện thành Phật không cần phải hoài nghi nữa; nhưng nếu anh có hoài nghi, cũng có thể thành Phật, duy có điều chậm một chút mà thôi. Nếu anh không có tâm hoài nghi thì sẽ thành Phật sớm hơn. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể làm Phật, nhưng không thể nói : "Tất cả chúng sanh đều là Phật". Nếu chịu tu hành thì mới có thể thành Phật, nếu không chịu tu hành thì tất cả chúng sanh vẫn chỉ là chúng sanh mà thôi, không thể thành Phật được. Làm Phật là lý, nhưng cũng có một cái "Đạo thành Phật", với điều kỉện anh phải nương theo pháp tu hành. Nếu anh không nương theo pháp tu hành thì các tâm Tham, sân, si, mạn, nghi đều không từ bỏ được, không thể nào mau thành Phật được. Vì thế nên phải phát bốn hoằng thệ nguyện. Chúng ta bất luận là làm việc gì cũng cần phải phát lời nguyện trước, rồi sau mới theo lời nguyện mà thực hành. Có thế mới đạt đến mục đích, hy vọng mới có thể thành tựu được.

Nói đến đây, tôi nhớ lại một công án : Có một lần đức Phật Thích Ca Mâu Ni mang theo rất nhiều đệ tử đến một nước nọ để giáo hóa chúng sanh. Người trong nước này thấy Phật đến liền đóng cửa lại, không có ai chịu bố thí, cũng không ai đến cung kính chào hỏi. Phật đã đến nước ấy rồi, không có ai ra đón rước, vì không có duyên với các đại thần và nhơn dân ở đó. Nhưng khi ngài Mục Kiền Liên đến thì cả quốc vương, đại thần và nhơn dân đều hướng về Ngài cung kính đảnh lễ, tranh nhau đến cúng dường. Các đệ tử Phật thấy thế, nhưng không biết tại sao, bèn đem hỏi Phật : "Tại sao Phật đến nước này không ai chịu cúng dường cả, mà Ma ha Mục Kiền Liên, đệ tử Phật, đi đến đây lại được mọi người tranh nhau cúng dường ?" Phật đáp : "Đó là do nhơn duyên đời trước".

Từ vô lượng kiếp về trước, Mục Kiền Liên cùng Phật ở chung một chỗ, Mục Kiền Liên lên núi đốn củi, còn Đức Phật xuống dưới núi sửa đường và rất ghét bầy ong, mà Mục Kiền Liên lại rất thích chúng. Đức Phật Thích Ca lúc ấy, khi còn tu nhơn, thường lấy khói hun đốt chúng, mà Mục Kiền Liên lại bị chúng đốt đau nhức. Tuy bị đau nhức, nhưng Mục Kiền Liên không dùng lửa để hun đốt, trái lại còn phát nguyện : "Về sau tôi đắc đạo sẽ độ trước bọn ong có nhiều tánh Tu-la này". Đời đời kiếp kiếp về sau, bọn ong này biến thành ra người trong một nước. Ong chúa là vua, các ong thợ là dân. Ngày xưa Phật Thích Ca nhơn vì ghét chúng, từng dùng khói hun đốt chúng, nên bây giờ đến nước ấy không có ai ra đón tiếp; quốc vương, đại thần, nhơn dân cũng không chịu cúng dường Ngài. Trái lại, ngài Mục Kiền Liên phát nguyện sau khi đắc đạo sẽ độ bọn ong này, cho nên đời này gặp lại nhau thì quốc vương và nhơn dân nước ấy tranh nhau đến cúng dường. Do đây chúng ta biết rằng nhơn quả rất trọng yếu, vì thế nhất định phải phát nguyện.

Kinh này lấy Tín, Nguyện, Trì danh làm tông. Tại sao gọi là Trì danh ? - Trì danh chính là trì niệm danh hiệu của Phật A Di Đà, cũng giống như hạt thanh châu bỏ vào nước đục, thì nước đục sẽ trong ngay. Niệm danh hiệu Phật cũng giống như hạt thanh châu bỏ vào nước đục nước sẽ lóng trong ngay vậy. Chúng sanh vọng tưởng lăng xăng không biết là bao nhiêu, không lúc nào dừng nghỉ, giống như sóng trào ở biển cả không có lúc nào dừng. Khi Phật hiệu vào trong tâm loạn thì tâm loạn cũng trở thành tâm Phật. Vì niệm một tiếng Phật, trong tâm sẽ có một niệm Phật. Anh niệm Phật, Phật cũng niệm anh, cũng như cùng đem danh hiệu A Di Đà Phật đánh vào một Vô tuyến điện báo, đó kêu là "Cảm ứng đạo giao". Anh không niệm Phật, thì Phật sẽ không thâu nhận được, cho nên cần phải Trì danh.

Trì danh niệm Phật là một pháp môn rất trọng yếu trong thời Mạt pháp, cho nên có rất nhiều người niệm Phật. Nhưng chớ nên xem thường pháp môn niệm Phật này.

Ngài Vĩnh Minh Thọ Thiền sư khi niệm một tiếng Phật, lúc ấy người có ngũ nhãn lục thông, thấy từ miệng Ngài hiện ra một hóa Phật, cho nên công đức niệm Phật thật không thể nghĩ bàn. Hơn nữa, khi anh niệm Phật, trên đầu sẽ phát ra ánh sáng. Một khi ánh sáng phát ra thì yêu ma quỷ quái sẽ co giò chạy xa. Cho nên công đức niệm Phật thật là không thể nghĩ bàn. Đó là Trì danh niệm Phật.

Trì tức là Chi trì, giữ lại, cũng chính là thọ trì, cũng chính là như trong sách Trung Dung nói : "Toàn quyền phục ưng". Tâm tâm niệm niệm ghi nhớ. Trì danh hiệu nào ? Trì danh hiệu A Di Đà Phật, tức là niệm danh hiệu Phật A Di Đà.

Pháp môn niệm Phật có bốn cách : l/ Quán tưởng niệm Phật, 2/ Quán tượng niệm Phật, 3/ Trì danh niệm Phật, 4/ Thật tướng niệm Phật.

- Quán tưởng niệm Phật : Chính là quán tưởng toàn thân sắc vàng của Phật A Di Đà tướng hảo quang minh không sánh ví, toàn thân của Phật A Di Đà phóng ra ánh sáng sắc vàng. Tướng hảo là thành tựu công đức viên mãn, đầy đủ 32 tướng 80 vẻ đẹp, ánh sáng của Ngài không sánh ví. Xem thấy tướng sáng lông trắng giữa chặn mày của Phật A Di Đà to lớn xoay quanh như năm hòn núi Tu Di. Mắt của Ngài to như bốn biển lớn, cho nên quý vị làm sao thấy được thân to lớn của Phật A Di Đà ?

ÔÛ trong ánh sáng của Phật A Di Đà hóa hiện ra rất nhiều Phật. Chẳng những hóa ra hình tượng của Phật mà còn hóa hiện ra hình tượng của Bồ-tát nữa. Phật A Di Đà có 48 lời nguyện cứu độ tất cả chúng sanh khiến cho đều lên chín phẩm sen vàng được giảí thoát.

Chín phẩm có Thượng thượng phẩm, Thượng trung phẩm, Thượng hạ phẩm; Trung thượng phẩm, Trung trung phẩm, Trung hạ phẩm; Hạ thượng phẩm, Hạ trung phẩm, Hạ hạ phẩm. Hoa sen ở mỗi phẩm lại chia làm 9 phẩm, thành ra 9 x 9 = 81 phẩm. Có được 81 phẩm, khiến cho tất cả chúng sanh sanh đến bờ kia. Đó là Quán tưởng niệm Phật.

- Quán tượng niệm Phật : Đó là cúng dường một tôn tượng Phật A Di Đà. Niệm Phật cách này chính là quán nhìn tượng Phật A Di Đà, càng lâu càng kỹ mới được thành công.

- Thật tướng niệm Phật : Chính là niệm mà không niệm, không niệm mà niệm. Anh muốn không niệm cũng không được. Nó giống như giòng nước, tự mình ở trong đó thì niệm ra Phật; niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, miên miên mật mật, đạt đến cảnh giới ấy chính là Niệm Phật Tam-muội, cũng chính là Thật tướng niệm Phật.

- Trì danh niệm Phật : Tức là chuyên niệm Phật A Di Đà, mở miệng ngậm miệng đều niệm Phật A Di Đà. Niệm cần phải niệm cho rõ ràng, lỗ tai phải nghe cho rõ ràng, tâm cũng phải nhớ cho rõ ràng; ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh niệm Phật, tâm không vọng tưởng. Miệng không có 4 điều ác : Mắng chửi, nói thêm, nói láo, nói đâm thọc. Thân không có 3 điều ác : Sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Đó là dùng ba nghiệp thanh tinh để niệm Phật. Niệm thanh tịnh mà niệm Phật thì niệm niệm thanh tịnh, niệm niệm Phật. Đó gọi là :

Tâm thanh nước hiện trăng

YÙ tịnh trời sạch mây.

Niệm cho đến được Niệm Phật Tam-muội, nghe thấy gió thổi cũng là Nam mô A Di Đà Phật, nghe tiếng mưa rơi cũng là Nam mô A Di Đà Phật, nghe mọi thứ âm thanh cũng đều là tiếng niệm Phật, đó là "Nước chảy, gió rung, diễn Ma-ha"; tiếng nước chảy, tiếng gió rung đều là Nam mô A Di Đà Phật cả. Vì thế Tô Đông Pha có câu :

Tiếng khe đều là quảng trường thiệt

Màu núi khắp cùng thanh tịnh thân.

AÂm thanh, nước khe róc rách đều phát xuất từ tướng lưỡi rộng dài (quảng trường thiệt), đó là vô tình thuyết pháp. Núi cùng màu sắc đều là thanh tịnh thân. Đó là : "Non xanh, mây trắng, hoa vàng, trúc biếc" đều là Pháp thân hiển hiện. Đây chính là được Niệm Phật Tam-muội vậy. Niệm không gián đoạn nghĩa là suốt ngày từ sáng tới chiều đều là niệm Phật, niệm Di Đà.

Trước đây tôi có viết một bài kệ tụng :

"Niệm Phật niệm hoài không gián đoạn

Hồng danh đóng khối tại tâm can

Tạp niệm không sanh, Tam-muội được

Vãng sanh Tịnh độ có phần sang

Trọn ngày chán nản Ta Bà khổ

Tâm niệm hồng trần dứt sạch quang

Cầu sanh Cực Lạc luôn trong ý

Nhiễm niệm dứt trừ, Tịnh niệm toàn".

Đây là tu tập pháp môn niệm Phật, được Niệm Phật Tam-muội thì anh chắc chắn có hy vọng vãng sanh được Tây phương Cực Lạc. Anh đã dứt hết lòng trần của thế gian, không còn có tâm dâm dục, cũng không có tâm tranh danh đoạt lợi, tất cả tâm duyên bên ngoài thế giới này đều buông bỏ hết, xem tất cả đều là giả dối, buông bỏ nhiễm tâm quy về Tịnh độ, bài kệ tụng này chính là thuyết minh đạo lý niệm Phật đấy. Trì danh niệm Phật giống như là cầm một vật gì, phải luôn cầm chắc trong tay mới được. Cho nên mỗi ngày đều phải niệm "Nam mô A Di Đà Phật" để xua đi những tạp niệm của chính mình. Niệm Phật là pháp môn lấy độc trị độc, vọng tưởng là một thứ độc, trì danh niệm Phật cũng là một thứ vọng tưởng, đó là lấy vọng tưởng để ngăn vọng tưởng, việc đó cũng giống như trong quốc gia dùng binh đội để ngăn binh đội, dùng chiến tranh để dứt chiến tranh. Nếu muốn diệt hết vọng tưởng thì phải thường niệm Phật, khi vọng tưởng diệt hết thì sẽ được Niệm Phật Tam-muội. Đây là lớp thứ ba "Trì danh làm tông" trong năm lớp Huyền nghĩa.

Thứ tư là Lực dụng. Bộ Kinh này có những lực lượng gì ? Đó là Bất thối. Bất thối có tác dụng gì ? - Chính là vãng sanh; được vãng sanh thì có thể được bất thối chuyển. Tu các pháp môn khác đều không được an toàn lắm, vì không có bảo hiểm. Giống như anh trì chú, trì được mấy năm, cảm thấy không có thành tựu gì rồi thôi không trì nữa; đó là thối lui đấy. Hoặc giả anh niệm Phật đã mấy năm, cảm thấy không có tiến bộ chi, lại lui sụt đi. Hoặc giả anh đời này không lui sụt mà đời sau lại lui sụt. Đời này anh rất tinh tấn niệm kinh, trì chú, nhưng chưa thành công, đến đời sau lại không tinh tấn mà bỏ xuôi đi. Tại sao thế ? - Bởi vì "La-hán còn có mờ mịt khi trụ thai, Bồ-tát còn có mê khi cách ấm", đừng nói chi đến anh là một tên phàm phu trơn, La-hán một khi trụ thai cũng có thể quên mất thần thông đã có; Bồ-tát một khi đầu thai cũng còn bị mê đi, nếu gặp được thiện tri thức chỉ điểm cho phương pháp tu hành bèn có thể khai ngộ; nếu không gặp dược thiện tri thức chỉ điểm cho, thì đời này sẽ bị lui sụt, đời sau càng lui sụt thêm nữa, sẽ không dễ gì lại phát được tâm Bồ-đề. Nhưng nếu anh vãng sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây thì không còn bị lui sụt nữa, chỉ có một mực tiến tới thôi, có thể được đến bốn thứ Bất thối (không lui sụt) : Vị bất thối, Hạnh bất thối, Niệm bất thối và Cứu cánh bất thối.

l. Vị bất thối : Khi anh sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây sẽ chứng được quả vị Phật. Anh sanh về nước kia, hóa sanh trong hoa sen; khi hoa nở sẽ thấy Phật nghe pháp, chứng nhập Vô sanh pháp nhẫn, không còn bị đọa lạc nữa.

2. Hạnh bất thối : Có một số người đời nay tu hành tinh tấn, đời sau lại biếng nhác, đó là tu hành không có tâm trường viễn. Nhưng sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây thì sẽ không có biếng trễ nữa, mà chỉ có sự tinh tấn dõng mãnh tiến lên mà thôi.

3. Niệm bất thối : Ví như người tu hành ở thế giới Ta Bà, hôm nay nghĩ đến việc tu hành đã qua phát sanh niệm tinh tấn, tinh tấn dược một thời gian cảm thấy khổ cực quá, chẳng bằng nghỉ ngơi cho được tự tại, rồi không tinh tấn nữa mà nảy sanh ý niệm lười biếng. Hạnh dầu không thối, nhưng niệm đã thối rồi. ÔÛ trong quá trình mấy mươi năm ngắn ngủi này, tâm biếng lười nhiều hơn tâm tinh tấn, niệm làm sao không thối chuyển được ? Khi anh sanh về thế giới Cực Lạc phương Tây, ở đó ngày đêm sáu thời đều nghe thuyết pháp thì không thể nào có ý niệm thối thất tâm Bồ-đề được.

4. Cứu cánh bất thối : Khi sanh về thế giới Cực Lạc được hóa sanh trong hoa sen, thì bất cứ lúc nào cũng không thể lui sụt được. Không lui sụt là không lui rớt về địa vị phàm phu hoặc quả vị Tam thừa.

Một khi sanh về thế giới Cực Lạc thì sẽ được bốn thứ Bất thối, cho nên lớp huyền nghĩa thứ tư là lấy "Vãng sanh bất thối" làm lực dụng của kinh này.

Lớp huyền nghĩa thứ năm là Phán giáo. Phán là bình luận, phê phán. Kinh A Di Đà thuộc về Tạng nào ? - Trong ba tạng Kinh, Luật, Luận, Kinh này thuộc về Kinh tạng. Kinh có nghĩa là thường, vì hằng thường không biến đổi. Bộ kinh này, khi Phật pháp diệt hết, vẫn còn lại trên thế gian hơn 100 năm để độ thoát vô lượng vô biên chúng sanh, đó cũng là điểm khác nhau giữa kinh này và các kinh khác. Căn cứ vào ba thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát mà phê phán thì kinh này thuộc về Bồ-tát thừa, cơ duyên được độ đều là Bồ-tát có đủ căn tánh Đại thừa.

Sau khi đã biết kinh có năm lớp Huyền nghĩa, bảy thứ Lập đề rồi, chúng ta có nhận thức rõ về giá trị của bộ kinh này.

Đời Dao Tần , ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch.

Dao Tần là thời điểm ấy. Dao Tần, Phù Tần không giống với Dinh Tần. Dinh Tần là thời đại Tần Thủy Hoàng. Phù Tần là thời của Phù Kiên, Dao Tần là thời của Dao Hưng. Vào thời Phù Tần, Khâm Thiên Giám nóì với Phù Kiên rằng : "Hiện tại nên có một người đầy đủ trí huệ đến trong nước để giúp dỡ việc chính trị". Phù Kiên nói : "Nếu kể về bậc đại trí, phải cỡ như ngài Cưu Ma La Thập".

Lúc bấy giờ ở AÁn Độ người ta đều sùng bái ngài La Thập phi thường, vì Ngài là người có trí huệ.

Tại sao ngài La Thập có trí huệ ? - Cưu Ma La Viêm, cha ngài Cưu Ma La Thập là con của vị Thừa tướng. Đúng ra ông phải kế thừa chức vị Thừa tướng của cha, nhưng ông lại không thích, mà đi đến nơi khác để học đạo. Lúc bấy giờ tu hành không nhứt định phải là xuất gia hay tại gia, khi ông đến nước Quy Tư, em gái của Vua nước này nhìn thấy ông, đem lòng thương, rồi nói việc này với anh mình. Vua bèn đem em gái gả cho Cưu Ma La Viêm. Sau đó Cưu Ma La Thập ra đời. Khi Cưu Ma La Thập còn trong thai mẹ, cũng giống như là ngài Xá Lợi Phất giúp mẹ biện luận thắng hơn mọi người. Bấy giờ có một vị A-la-hán nói : "Đứa bé trong thai bà này nhứt định là một người đại trí huệ".

Lúc ngài La Thập lên 7 tuổi, có một lần theo mẹ lên chùa lễ Phật, La Thập dù chỉ 7 tuổi, không suy nghĩ, dở cái đảnh để trước Phật đội lên đầu, rồi lại nghĩ : "Một cậu bé như ta làm sao dở nổi một vật nặng như thế ?" Vừa nghĩ tới đó thì không duy trì nổi, cái đảnh liền rơi xuống đất. Từ đó ngài được khai ngộ về lý : "Tất cả duy tâm tạo". Rồi Ngài theo mẹ xuất gia. Sự xuất gia của mẹ Ngài cũng có nhiều điều đáng nói. Trước kia cha Ngài là người tu hành, nhưng vì đối với vợ có tình sâu nặng quá nên không còn muốn tu hành nữa. Bây giờ, chính bà lại muốn đi tu, ông ấy bèn cản ngăn, bà mẹ La Thập liền tuyệt thực, không ăn không uống liên tục đến ngày thứ sáu. ông Cưu Ma La Viêm thấy sinh mạng bà như chỉ mành treo chuông, mới ưng thuận cho bà xuất gia và bảo bà ăn uống trở lại.

Bà nói : "Nhứt định phải mời Pháp sư đến cạo tóc cho tôi, tôi mới chịu ăn".

Bà xuất gia không bao lâu bèn chứng Thánh quả. Cưu Ma La Thập cũng xuất gia theo mẹ, một ngày tụng thuộc lòng rất nhiều kinh và kệ tụng, hễ qua mắt là không quên sót. Do đó, đương thời có rất nhiều ngoại đạo và các đại luận sư đến biện luận với Ngài; 36 thứ Bàng môn, 72 thứ Tả đạo đều bị Ngài biện luận chiết phục cả. Cho nên ở AÁn Độ tiếng tăm La Thập Pháp sư rất lớn, ai ai cũng đều bội phục Ngài, cả đến Phù Kiên cũng nghe thấy. Lúc bấy giờ Phù Kiên bèn sai đại tướng Lữ Quang đem mấy vạn binh mã sang đánh nước Quy Tư, với mục đích rước ngài La Thập về nước mình. Ngài La Thập mới nói với Vua nước Quy Tư rằng : "Trung Quốc đem binh đến, Vua không cần phải đánh họ làm chi. Họ có yêu cầu điều gì nhà vua cứ đáp ứng cho họ là được".

Nào ngờ nhà vua không chịu nghe theo, mà cùng với Lữ Quang giao chiến và bị thua trận, Vua bị Lữ Quang giết chết, Pháp sư La Thập cũng bị rước đi.

Trên đường trở về nước, qua một địa phương bèn nghỉ đêm ở một địa điểm nọ, đó là một dải đất thấp ở dưới sơn cốc. Pháp sư La Thập vì có Tha tâm thông, biết rằng tối nay sẽ có nước lớn bèn nói với Lữ Quang : "Không nên đóng quân ở đây, chỗ này sẽ có nguy hiểm".

Lữ Quang không tin La Thập chút nào, nghĩ thầm : "OÂng mà biết cái gì?", rồi vẫn đóng quân tại địa phương đó. Ngay đêm hôm ấy, mưa lũ ào ạt, nước trên núi đổ xuống như trút, năm vạn quân mã bị dìm chết quá nửa. Từ đó về sau Lữ Quang mới biết Pháp sư La Thập là "Người không thể nghĩ bàn".

Đội quân mã tiếp tục lên đường, nhưng lại nhằm lúc trong nước Phù Tần phát sinh chánh biến. Phù Kiên bị lật đổ, Dao Trành lên làm Hoàng đế, Lữ Quang không nghĩ đến việc trở về nữa, bèn ở lại giữa đường tự xưng độc lập. Dao Trành làm Vua mấy năm rồi băng hà, con là Dao Hưng lên thay ngôi Hoàng đế, phái người đến thỉnh Pháp sư La Thập về Trung Quốc để phiên dich Kinh điển. Bấy giờ có hơn 800 vị Tỳ-kheo tụ hội về đây dể trợ glúp việc phiên dịch.

Pháp sư La Thập trước khi viên tịch nói với mọi người rằng : "Trong đời tôi dịch được khá nhiều Kinh điển, cũng không biết là đúng hay sai ? Nếu dịch đúng thì sau khi tôi viên tịch, dùng lửa trà-tỳ, đầu lưỡi sẽ còn nguyên vẹn. Nếu dịch không đúng, thì lửa cháy tiêu hết không còn gì". Nói xong thì viên tịch. Sau khi viên tịch, đem nhục thân Ngài trà-tỳ, quả nhiên đầu lưỡi vẫn còn nguyên vẹn, do đây chứng minh rằng những Kinh điển mà Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch ra là chính xác.

Lại còn một chứng minh nữa là : Đời Đường, ngài Đạo Tuyên Luật sư hỏi Tiên nhơn Lục Huyền Sát : "Tại sao Kinh điển của Pháp sư La Thập dịch ra ai nấy đều thích đọc như vậy ?" - "Pháp sư La Thập là Thầy dịch kinh của bảy Đức Phật thời quá khứ".

Cho nên những Kinh điển của Pháp sư dịch ra rất là chính xác.

Tam tạng là Kinh, Luật, Luận. Kinh tạng thuộc về Định học, Luật tạng thuộc về Giới học, Luận tạng thuộc về Huệ học. Kinh, Luật, Luận tức là Giới, Định, Huệ.

Pháp sư nghĩa là lấy pháp (Phật pháp) làm thầy. Lại có nghĩa là đem pháp để bố thí cho mọi người. Pháp sư có nhiều hạng : Pháp sư đọc tụng kinh điển, Pháp sư thọ trì kinh điển, Pháp sư thơ tả kinh điển và Pháp sư giảng kinh thuyết pháp.

Cưu Ma La Thập là tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là Đồng Thọ, có nghĩa là đồng tử này về sau nhứt định sẽ sống rất lâu (thọ). Lại nói : Đồng tử ấy dầu tuổi còn nhỏ, nhưng trí huệ, đức hạnh và biện tài đều rất cao siêu, sở dĩ tuổi nhỏ mà có đức lớn, có đức hạnh của người cao tuổi cho nên gọi là Đồng Thọ.

Mỗi bộ kinh có thể chia làm ba phần : Phần tựa, phần chánh tông và phần lưu thông.

Phần tựa là trình bày ý nghĩa đại khái của bộ kinh. Phần chánh tông là giảng nói về sự việc, đạo lý chính đáng của bộ kinh. Phần lưu thông là hy vọng người sau theo đó mà làm rộng ra, thêm vào cho đầy đủ, giống như là dòng nước chảy đến bất cứ chỗ nào.

Phần tựa giống như là cái đầu của người. Phần chánh tông ví như là thân thể của người, trong thân có ngũ tạng lục phủ. Phần lưu thông ví như là hai chân có thể đi đứng hành động.

Phần tựa còn gọi là Tựa trước kinh, vì nó ở phần trước hết của kinh. Còn gọi là Tựa sau kinh. Tại sao gọi là Tựa trước kinh mà còn gọi là Tựa sau kinh? Điều đó có mâu thuẫn không ?

- Gọi là Tựa sau kinh, là vì khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói kinh, không có đoạn văn này. Sau đó, khi Tôn giả A Nan và Ca Diếp kiết tập Kinh tạng, thêm nó lên trên kinh, gọi là Tựa phát khởi, tức là nhân duyên phát khởi kinh. Còn gọi là Tựa chánh tín, do phần Tựa này chứng minh rằng kinh văn là đáng tin cậy.

ÔÛ trong phần Tựa có đủ sáu thứ thành tựu :

1. Tín thành tựu : Như thị.

2. Văn thành tựu : Ngã văn.

3. Thời thành tựu : Nhất thời.

4. Chủ thành tựu : Phật.

5. Xứ thành tựu : Vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc.

6. Chúng thành tựu : 1.250 vị Tỳ-kheo tăng.

Kinh điển có sáu thứ thành tựu này mới có thể đáng tin cậy được.

"Như vậy tôi nghe, một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc, cùng với chúng đại Tỳ-kheo 1.250 vị".

Tại sao gọi là Như vậy ? - "Như vậy" là Tín thành tựu. Pháp đúng như vậy là pháp đáng tin. Pháp không đúng như vậy là pháp không đáng tin. Cho nên "Như vậy" là lời chỉ cho pháp. Chỉ là chỉ bày Phật pháp của anh, "như" là tịnh, "thị" là động. "Như" mới "thị", không "như" thì không "thị". Sao gọi là "thị"? - Không có chẳng thị mới kêu là "thị", vì tuyệt đối không có phi. Sao gọi là "Như" ? - "Như" là vắng lặng không động.

"Như" chính là "chơn không". "Thị" chính là "diệu hữu", cũng chính là diệu hữu không ngoài chơn không, chơn không cũng không rời diệu hữu, cho nên gọi là "không hữu bất nhị, tức không tức hữu, phi không phi hữu". Thứ pháp này mới là đáng tin cậy. "Như vậy tôi nghe", bốn chữ này là bốn chữ mở đầu của các kinh Phật, "Như" mới "thị", "thị" mới "như". Không "như" thì cũng không "thị", không "thị" thì cũng không "như", đạo lý này là như thế đó, cho nên pháp "như thị" là đáng tin.

"Tôi nghe" là ngài A Nan chính tai nghe. Ngài A Nan chứng quả Thánh, đã vô ngã, tại sao còn nói tôi nghe ? - Cái tôi này là cái tôi vô ngã, cho nên ngài A Nan nóì "tôi nghe". Nhân vì người đời đều có cái tôi, nên ngài A Nan dù là vô ngã, nhưng cũng tùy theo thế tục mà nói ra đạo lý này. "Tôi nghe" là Văn thành tựu. Có nghe mới có tin. Không nghe thì làm sao tin được ? Bốn chữ "Như vậy tôi nghe", khi Phật sắp nhập Niết-bàn mới chỉ dạy, nói với đại chúng : "Giữa đêm nay Như Lai sẽ nhập Niết-bàn".

Ngài A Nan nghe Phật sắp nhập Niết-bàn, bèn khóc ngất lên, giống như trẻ thơ thiếu mẹ. A Nan vừa khóc vừa thưa : "Xin Phật đừng nhập Niết-bàn, xin Phật đừng bỏ chúng con".

Đầu óc của ngài A Nan lúc đó đang bối rối, không còn tỉnh táo nữa, chỉ có khóc là hơn hết. Lúc đó có một người mù (Tôn giả A Na Luật), người mù này không giống với bao người mù khác; ông ta dù không có mắt thịt nhưng lại có thiên nhãn. Vì không có mắt thịt nên ông không cần phải ngó Đông ngó Tây, không có chút vọng tưởng nào, mà tâm thủy rất lắng trong. OÂng ấy nói với ngài A Nan : "Thưa Tôn giả, tại sao Ngài thương tâm khóc lóc quá đỗi như thế ?"

Ngài A Nan đáp : "Đức Phật sắp nhập Niết-bàn mà Ngài bảo tôi không khóc sao được ?"

Người mù nói : "Ngài khóc có ích gì đâu ? Bây giờ còn có rất nhiều việc phải thưa hỏi Phật".

- Có việc gì nào ? Phật sắp Niết-bàn, còn có việc gì cần thiết nữa đâu ?

- Có bốn việc rất quan trọng, nếu ngài không hỏỉ rõ không biết sẽ phải làm sao ! Việc thứ nhất là : Khi kiết tập Kinh tạng, ở đầu kinh phải bắt đầu bằng những chữ nào ?

- Đúng thế ! Việc đó rất quan trọng. May được ngài nhắc đến, nếu không tôi quên mất. Việc thứ hai, thưa Tôn giả ?

- Khi Phật còn tại thế, chúng ta tôn Phật làm Thầy. Khi Phật nhập Niết-bàn, chúng ta sẽ tôn ai làm Thầy ?

- Phải đấy. Khi Phật đã nhập Niết-bàn, chúng ta sẽ tìm ai làm Thầy đây ?

- Khi Phật còn tại thế, chúng ta nương Phật mà ở. Lúc Phật đã nhập Niết-bàn, chúng ta nương theo đâu mà ở ?

- Còn việc thứ tư, thưa Tôn giả ?

- Khi Phật còn tại thế, các thầy Tỳ-kheo có tánh xấu (tức là những người không giữ quy củ, không hòa hợp với chúng, tánh tình ưa tranh giành hơn thua giống như A-tu-la), Phật có thể điều phục. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, những Tỳ-kheo và những cư sĩ tánh xấu kia đều kiêu mạn, lấn hiếp người, nói rằng : "Các ông không bằng tôi, các ông không bằng tôi phát tâm". (Trên thực tế, chính tại vì anh mà người ta không phát tâm). Rồi phải làm sao ?

Ngài A Nan nghe nói, biết là vấn đề này rất hệ trọng, phải đem thưa hỏi với Phật, mới lật đật lau nước mắt, đến trước Phật thưa : "Bạch Thế Tôn, hiện con có bốn việc muốn thưa hỏi Thế Tôn, xin Phật từ bi chỉ dạy cho".

Phật đáp : "Được, có vấn đề gì cần hỏi, ta sẽ giải đáp cho".

Ngài A Nan thưa : "Những Kinh điển mà Phật nói ra rất nhiều, khi kiết tập Kinh tạng phải dùng chữ gì để ở đầu kinh ?"

Phật nói : "Mười phương ba đời tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai đều dùng bốn chữ Như vậy tôi nghe để ở dầu kinh".

A Nan lại hỏi : "Khi Phật còn ở đời, chúng con nương theo Phật làm Thầy; Phật

nhập Niết-bàn rồi chúng con nương theo ai làm Thầy ? Có phải là nương theo ngài Đại Ca Diếp không ?"

Phật nói : "Không phải đâu ! Ta nhập Niết-bàn rồi, các ông nên lấy Ba-la-đề-mộc-xoa (Giới) làm Thầy".

Cho nên người xuất gia phải thọ giới, đó là căn cứ theo lời dạy của Phật, khi Phật không còn ở đời phải lấy Giới làm Thầy.

A Nan lại hỏi : "Việc thứ ba là khi Phật còn ở đời, những Tỳ-kheo chúng con cùng Phật trụ một chỗ. Bây giờ Phật nhập Niết-bàn, những Tỳ-kheo như chúng con đây phải trụ vào đâu ?"

Phật đáp : "Sau khi ta vào Niết-bàn, thì các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu bà tắc, ưu bà di phải trụ vào bốn Niệm xứ".

Bốn niệm xứ là gì ? - Tức là niệm Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

1. Quán thân bất tịnh : Nhìn thấy thân thể chính mình là không trong sạch thì không thể đối với người khác sanh ra tâm niệm luyến ái; vì không tâm ái nên không chấp trước. Không có chấp trước thì sẽ được tự do.

2. Quán thọ là khổ : Những cái mà anh tiếp thọ đều là khổ. Khổ thọ, Lạc thọ đều là nhân khổ.

3. Quán tầm vô thường : Niệm niệm đổi dời.

4. Quán pháp vô ngã.

Ngài A Nan hỏi : "Việc thứ tư là gặp những Tỳ-kheo, cư sĩ và một số người có tính xấu ác, chúng con phải xử lý như thế nào ?"

Phật đáp : "Điều đó rất dễ, các ông nên dùng phép Mặc tẩn. Mặc là không nói chuyện với họ, tẩn là không lý đến họ nữa".

Điều này có nghĩa là khi gặp phải Tỳ-kheo có tánh xấu ác, anh nên dùng định lực, chẳng để cho họ xoay chuyển.

Tại sao Phật bảo A Nan dùng bốn chữ Như vậy tôi nghe để ở đầu kinh ?

Việc này có mấy nguyên nhân :

l Để khác với ngoại đạo. Những kinh luận của ngoại đạo mỗi khi bắt đầu đều dùng hai chữ "Có" hay "Không". [Tiếng Phạn là A (Có), ưu (Không)]. Họ chủ trương tất cả pháp, vạn sự vạn vật đều không ngoài hai chữ này; không phải có tức là không, không phải không tức là có, cho nên dùng hai chữ "A, ưu" để mở đầu. Hoặc nói là không có, trước kia không, bây giờ có, đạo lý ấy cũng giống như là Chơn không diệu hữu, nhưng chưa được thâm nhập rõ ràng.

2. Dứt các nghi. Đức Phật biết rằng sau khi Ngài nhập Niết-bàn, đại chúng kiết tập

Tam tạng, thấy A Nan thăng tòa thuyết pháp, đại chúng liền khởi ra ba điều nghi : 1/. Họ cho A Nan đương thành Phật, cho là Phật sống lại. 2/. Có người nghi là Đức Phật ở phương khác đến thuyết pháp chứ chẳng phải là Phật Thích Ca Mâu Ni. 3/. Cũng có người cho là A Nan thành Phật rồi. Vì những điều nghi này nên Phật bảo A Nan để bốn chữ Như vậy tôi nghe ở phần đầu kinh.

Mọi người đều biết rằng thực ra không phải là Đức Phật Thích Ca, cũng không phải là Phật ở phương khác đến, cũng không phải là ngài A Nan thành Phật. Nguyên lai pháp này, pháp đúng như vậy, ngài A Nan đích thân nghe Phật Thích Ca nói ra. Đó gọi là dứt các điều nghi cho mọi người.

3. Dứt tranh cãi. Ngài A Nan tuổi nhỏ nhất trong chúng đại Tỳ-kheo, khi Phật thành đạo, A Nan mới ra đời; khi Phật nhập Niết-bàn, A Nan mới 49 tuổi. Những Tỳ-kheo khác so với A Nan đều lớn tuổi cả; luận về tuổi tác thì ngài Ca Diếp lớn tuổi nhất, các vị khác như Mục-kiền-liên Tôn giả, Xá-lợi-phất Tôn giả tuổi tác đều lớn hơn A Nan nhiều; luận về đạo đức, học vấn, trí huệ, những vị Tỳ-kheo kia cũng có vị cao hơn A Nan. Tại sao lại chọn ngài A Nan đọc lại Kinh điển trong kiết tập Kinh tạng ? - Trong các vị Tỳ-kheo già có, trung niên có, mà ngài A Nan là tuổi nhỏ nhứt, như nói Kinh điển do ngài A Nan trùng tuyên, những người kia sẽ không tin và đều muốn giành phần hơn với ông. Vị ấy nói : "Tôi nghe Kinh điển nhiều hơn ông, đáng lẽ tôi phải nói lại kinh chớ". Có vị nói : "Tôi cũng là đệ tử Phật, những pháp do Phật nói ra tôi đều ghi nhớ trong lòng, đáng lẽ tôi phải nói kinh chớ". Tới chừng nghe ngài A Nan nói : "Như vậy tôi nghe", đó có nghĩa là "A Nan tôi dích thân nghe Phật nói". Như thế mới có thể dứt được sự tranh cãi.

4. Tuân lời Phật dặn : Tuân theo lời phó chúc của Phật.

"Như vậy tôi nghe", ngài A Nan đem bốn việc hỏi Phật, hai việc trước đã nói ở trên rồi, bây giờ xin nói việc thứ ba. Việc thứ ba là nương theo bốn niệm xứ mà trụ. Bốn niệm xứ là : Thân xứ, Thọ xứ, Tâm xứ, Pháp xứ.

1. Quán thân bất tịnh : Chúng ta có thân này, chúng ta đối với thân thể rất là quý trọng phi thường, cho nó là thiệt có. Cho nên tự tư cũng từ thân thể này mà sanh, tự lợi cũng do thán thể này mà có. Nếu không có thân này thì cũng không có tự tư và tự lợi nữa.

Tại sao gọi là tự tư, tự lợi ? - Tại vì không hiểu rõ thân thể này, cho nó là chơn thiệt không hư dối. Cho nên tạo tội ra cũng vì nó, gây ác cũng vì nó. Đối với thân này nhìn không rõ, buông không ra, tìm cho nó thức ăn ngon, nhà sang, xe đẹp. Đó là do chấp trước không buông bỏ được, vì thế mà cả ngày từ sáng tới tối phải bận rộn với thân. Một mai thán này phải chết đi, còn không hiểu rõ, lại nói : "Thân của tôi phải chết à ? Sao không chịu giúp giùm tôi ?" Chừng đó mới biết thân này không phải là thiệt nhưng đã muộn rồi, ăn năn không còn kịp nữa.

Như vậy thân này có phải là thiệt không ? Người ngu nhìn thấy nó là thiệt, không giả dối chút nào. Nhưng người có trí huệ thì biết rõ thân này là do bốn đại : đất, nước, gió, lửa giả hợp nên. Thân thể này không phải là hoàn toàn thật. Vậy chứ hoàn toàn thật kia là gì ? Cái hoàn toàn thật đó chính là Tự tánh. Tự tánh của chúng ta sáng suốt khắp cùng, đầy đủ vô ngại, cùng hư không khắp pháp giới, không ở chỗ nào mà chỗ nào cũng khắp. Thân thể của chúng ta chỉ là chỗ ở tạm thời của Tự tánh, khác nào một quán trọ. Thân thể chính là quán trọ ấy. Nhưng lữ khách ở quán trọ kia, nếu cho quán trọ là chính mình thì thật là quá lầm lạc. Nếu anh có thể xem thân thể là quán trọ mà cốt tìm đến ông chủ, thế là anh có thể biết dược chính mình đấy. Thân thể của chúng ta đây từ trước đến nay vốn không sạch sẽ, bởi do tinh cha huyết mẹ hợp thành. Nó từ nhỏ không biết gì, rồi lớn dần lên, sanh ra các thứ tâm : Tham, sân, si, kiêu mạn, nghi ngờ, tạo ra một số nghiệp : Sát sanh, trộm cắp, dâm dật, dối láo, uống rượu. Thân thể này có hoàn toàn quý báu chăng ? Không phải thế ! Phải thật là thanh tịnh không nhơ uế, không có nhiễm ô, không có một chút nào không thanh tịnh mới gọi là quý báu. Còn thân thể của chúng ta đây có 9 lỗ thường chảy ra đồ bất tịnh : Hai mắt có ghèn, hai tai có cứt ráy, lỗ mũi có dãi mũi ....

ÔÛ Trung Quốc có một số ngoại đạo chuyên môn ăn dãi mũi. Những người tu theo ngoại đạo này nói : "Đó là phép luyện đơn". Giả như không phải là ngu si làm sao có thể ăn dãi mũi được ư ? Chẳng những ăn dãi mũi, mà còn ăn cả ghèn và cứt ráy nữa, vì họ cho rằng những gì trong người tiết ra đều là quý báu cả. Những gì dơ bẩn họ đều cho là quý báu, thật là đáng thương xót biết bao !

Thân thể của chúng ta, trên mặt có 2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi và miệng, thêm 2 cơ quan đại tiểu tiện, cộng thành 9 lỗ. Ai cũng biết rằng đại tiện, tiểu tiện đều không sạch sẽ, giả như anh nấu thức ăn ngon, dùng đại tiểu tiện làm gia vị, người ta không biết thì sẽ ăn vào, nếu biết được thì không ai chịu ăn cả, vì họ biết đó là thứ dơ dáy. "Chín lỗ thường chảy ra bất tịnh", anh nói cái thân thể này có thật là quý báu hay không ? Nếu là quý báu thì làm sao lại chảy ra vật bất tịnh ? Thân thể này nếu không tắm một tuần lễ thì sẽ ngứa ngáy khó chịu. Nếu để lâu hơn nữa thì có mùi hôi tiết ra. Thứ mùi hôi này, đừng nói đến chính mình, mà cả con chó cũng chịu không nổi nữa. Vì thế chúng ta phải nên quán thân bất tịnh. Thân thể này không sạch sẽ như thế anh lại còn yêu tiếc nó, chấp trước nó hay sao ? Yêu cái thứ không sạch sẽ như thế để làm gì chứ ? Anh sẽ nói : "Tôi có thể lấy dao chém nó để tự sát". Không cần phải thế ! Anh nên mượn giả để tu chơn. Tự tánh của anh ở trong thân thể này, anh đi vào trong thân ngũ ấm thì trở thành âm dương hỗn hợp, cũng chính là ở trong thanh tịnh và hỗn trược. Anh nếu tu tập hướng thượng thì được thanh tịnh có thể thành Phật; nếu anh không chịu tu tập thì sẽ rơi xuống, hòa hợp với ô trược thành ra quỷ. Cho nên anh tu tập hay không là việc của chính anh, người khác không có thể giúp đỡ được. Giống như tôn giả A Nan nói mình là em họ của Phật, không cần phảI tu hành chi, Phật sẽ gia hộ cho ông Tam-muội. Nhưng Phật trước sau không thể cho ông Tam-muội được, đợi đến sau khi Phật niết-bàn, lúc kiết tập Kinh tạng, ông mới chứng Tứ quả A-la-hán, chừng đó ông mới biết chính mình không tu thì không thể được.

Quán thân bất tịnh, chúng ta không nên cho thân thể này là quý báu, ai nói ta một câu, ta cũng bỏ không được. Tại sao lại nói ta ư ? Ai đánh ta một cái, ta nghĩ : "Anh đánh ta à ? Đáng ghét quá đi !" Ta cảm thấy đau đớn và một chút tủi thân. Kỳ thật anh phải thấy rõ mà buông bỏ, không có một cái đau, cũng không có một cái không đau nào cả. Ai đau ? Đau như thế nào ? Có người đánh anh, là tại anh đương đứng ở trước khuôn cửa. Có người mắng anh, vì lúc đó anh đương hát hoặc đương nói tiếng ngoại quốc mà người ta không hiểu là tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức, tiếng Bồ Đào Nha ? Tôi không học nên tôi không biết.

Tóm lại, anh có thể thấy rõ thân thể này mà buông bỏ hết, không chấp trước, thì có thể được tự tại. Quán thân bất tịnh là xem thân thể này chẳng có gì quý trọng cả.

2. Thọ niệm xứ : Quán thân đã bất tịnh thì thọ niệm pháp cũng đều bất tịnh. Quán thọ là khổ, thọ là những cái mà anh tiếp nhận, có :

- Khổ thọ : Đó là Khổ khổ.

- Lạc thọ : Trong đó có Hoại khổ.

- Bất khổ bất lạc thọ : Đó là Hành khổ.

Ba thứ trên, khi anh tiếp nhận nó, hưởng thọ nó, đều cảm thấy là khổ; anh biết nó là khổ thì không thể nào chấp trước hưởng thọ được. Tôi thường nói với các vị : "Thọ khổ là hết khổ, hưởng phước là tiêu phước". Thường thọ khổ thì không có khổ nữa; hưởng hết phước thì phước báu không còn nữa, tiêu mất hết rồi. Cho nên "quán thọ là khổ", mà thân, tâm, pháp cũng đều là khổ.

Bốn niệm xứ này chỉ cần gom bốn thứ quán thành một thứ, một thứ triển khai thành bốn thứ.

3. Quán tâm vô thường : Tâm này là vô thường, không có thể thường thường như thế. Tâm quá khứ không thể được, là vô thường; tâm hiện tại không thể được, là vô thường; tâm vị lai không thể được, là vô thường. Tâm này niệm niệm đổi dời, niệm niệm không dừng nghỉ cho nên là vô thường.

4. Quán pháp vô ngã : Pháp rốt ráo không một pháp, pháp đã không có, làm sao có ngã được ư ? Ngã là bốn đại giả hợp sắc pháp năm uẩn mà thành; đã không có sắc pháp năm uẩn thì chính ngã cũng không có. Cho nên quán pháp vô ngã, Nhơn không, Pháp không; Nhơn cũng không thì Pháp cũng không nốt.

Chúng ta tu hành phải thường thường quán tưởng Tứ niệm xứ. Khi Phật sắp diệt độ, Ngài dạy : "Tất cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di tu hành nương theo Tứ niệm xứ mà trụ". Bốn niệm xứ này rất là vi diệu, cho nên mọi người cần phảI nghiên cứu kỹ càng. Nếu anh có thể hiểu rõ bốn niệm xứ và trụ ở bốn pháp này thì không có chấp trước mà được tự do chân chính. Có chấp trước thì không có tự do, không có tự do mới nhơn đó có chấp trước, cho nên phải tu bốn niệm xứ, nương bốn niệm xứ mà trụ, không trụ mà trụ. Không chỗ trụ tức là "nên không trụ trước mà sanh tâm mình" (Öng vô sờ trụ nhi sanh kỳ tâm).

Bây giờ nói đến việc thứ tư mà tôn giả A Nan đem hỏi Phật. Việc thứ tư là phải đối xử thế nào với Tỳ-kheo có tánh xấu ? Đức Phật đáp : "Những Tỳ-kheo có tánh xấu, nên dùng phép Mặc tẩn họ". Do đây chúng ta có thể biết thời Phật còn trụ thế cũng có hạng Tỳ-kheo, cư sĩ và người có tánh xấu như vậy. Gặp những hạng người này thì không nên nói chuyện với họ, hãy "Mặc tẩn" họ. Đó gọi là "Nhuyến thiên đơn". Thiên đơn chính là bảo họ dời chỗ, không lý đến họ, tự họ cảm thấy không là cái thá gì (không có nghĩa lý gì !), thì sẽ tự thôi đi, đó gọi là "Tẩn". Sau khi Phật nhập niết-bàn, gặp phải những hạng Tỳ-kheo hay cư sĩ có tánh xấu thì dùng phương pháp này để đối đãi với họ.

 

Như vậy tôi nghe, bốn chữ này, Như vậy là Tín thành tựu, pháp như vậy thì đáng tin, pháp không phải như vậy thì không đáng tin. Tôi nghe là Văn thành tựu. Nghe chính là từ lỗ tai, sao lại không nói tai nghe mà nói là tôi nghe ? Bởi vì lỗ tai là một bộ phận của thân thể, còn "tôi" là tên gọi chung của thân thể. Lỗ tai chỉ là một tên riêng, đây gọi là bỏ riêng lấy chung. Không dùng tên riêng mà dùng tên chung, nên nói là "tôi nghe".

 

Một thuở nọ, là nói về thời gian, là Thời thành tựu. Thời gian đó, tại sao không nói là năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào, mà chỉ nói là "Một thuở nọ" ? Tại vì năm tháng ngày giờ của mỗi quốc gia hoàn toàn không giống nhau, có nước lấy tháng giêng làm đầu năm, có nước lại lấy tháng 2, tháng 3 hoặc tháng khác làm đầu năm. Vì lịch pháp không đồng nhau nên không có cách gì xác định về thời gian được, nếu xác định được thời gian thì nhà khảo cổ sẽ khảo tra, nói là đúng hoặc là không. Bây giờ nói về "Một thuở nọ" thì không cần nhà khảo cổ phải khảo tra nữa. Muốn giảng kinh thuyết pháp, thứ nhất, cần phải có lòng tin, có người tin pháp ấy mới có thể thuyết pháp được. Có người tin, nhưng không có thời gian đến nghe, thậm chí nghe một chút rồi chạy đi. Tại sao thế ? Vì không có thời gian, họ không nghe không nhận được. Dầu có giảng kinh thuyết pháp mà người ta không nghe cũng không lợi gì. Nếu người ta thiệt có ý muốn nghe học kinh pháp thì phải có thời gian; có thời gian rồi lại phải có lòng tin, lại phải có một vị Chủ thuyết pháp. Phật, chính là Chủ thuyết pháp, Chủ thành tựu vậy. Có Chủ thành tựu rồi, lại cần phải có Xứ thành tựu, nghĩa là phải có một chỗ nơi để giảng kinh thuyết pháp. Chỗ nơi ở đây chính là vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc ở nước Xá Vệ. Nước Xá Vệ là tên một quốc gia ở nước AÁn Độ, Trung Quốc dịch là Phong Đức. Vì người trong quốc gia này đều rất thông minh, uên nước có dồi dào (phong) ngũ dục, thất bảo. Người trong nước đó lại có đức học rộng giải thoát. Nước này có ngũ dục, tài bảo, vậy ngũ dục là gì ? Có người nói là của cải, sắc đẹp, danh tiếng, ăn uống và ngủ nghỉ; lại cũng có người nói là : Sắc, thanh, hương, vị, xúc.

Tóm lại, cảnh giới ngũ dục khiến cho trí huệ người ta điên đảo, con mắt người ta chạy đi đắm trước sắc trần, tai chạy đi đắm trước thanh trần, mũi đắm trước hương trần, đầu lưỡi đắm trước vị trần, thân thể đắm trước xúc trần. Ngũ dục này làm cho người ta mê loạn diên đảo chạy theo chúng nó. Người trong nước này có tài học rộng, đọc biết rất nhiều. Giải thoát chính là không ràng không buộc, rất tự do; được giải thoát cũng chính là tâm chấp trước rất nhẹ nhàng.

Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, Kỳ thọ là cây của Thái tử Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc là vườn của trưởng giả Tu-đạt-đa. Trưởng giả Tu-đạt-đa là một người giàu có đương thời ở AÁn Độ, nhưng ông ta chưa biết Phật pháp, ngay đến danh từ Phật cũng chưa được nghe. Một hôm nọ, ông ta muốn cưới vợ cho con nên đến nhà một người bạn giàu có tên là trưởng giả San-đàn-na ở trong thành. Đến nhà bạn, ông ta thấy San-đàn-na nửa đêm thức dậy dọn dẹp phòng ốc, bài trí trang nghiêm đẹp đẽ phi thường. Trưởng giả Tu-đạt-đa thấy bạn trang trí nhà cửa đẹp đẽ như thế mới hỏi : "OÂng trang trí nhà cửa đẹp đẽ dường ấy để mừng việc chi thế ?" Trưởng giả San-đàn-na đáp : "Có ăn mừng gì đâu, tôi muốn thỉnh Phật đến cúng dường đấy !"

Trưởng giả Tu-đạt-đa vừa nghe thấy tiếng "Phật", quá đỗi kinh ngạc, mình nổi gai ốc, tóc tai dựng đứng, hỏi : "Phật là gì ?"

Trưởng giả San-đàn-na đáp : "Phật là Thái tử con vua Tịnh Phạn, đáng lý ra Ngài sẽ làm Vua, nhưng Ngài lại xuất gia tu hành thành Phật. Tôi chuẩn bị những thức cần dùng này để cúng dường Phật".

Trưởng giả Tu-đạt-đa, tức trưởng giả Cấp Cô Độc, sau khi nghe danh từ Phật rồi nao nao trong dạ, không ngủ được. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni biết ông có lòng thành, bèn phóng hào quang soi rọi đến ông. Tiếp nhận ánh sáng chiếu đến, trưởng giả Tu-đạt-đa cho là trời đã sáng liền đứng dậy đi ra thành. Cửa thành bấy giờ hãy còn khóa chặt, nhưng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng thần lực làm cho cửa thành mở toang, trưởng giả Tu-đạt-đa đi đến Trúc Lâm tinh xá là nơi Phật đang ngự. Đến nơi, thấy có một vị Thiên nhơn đang đi nhiễu Phật rồi đảnh lễ Phật. Trưởng giả Tu-đạt-đa từ trước chưa thấy Phật, cũng chưa nghe Phật pháp, không biết lễ phép ra sao, cho nên vị Thiên nhơn mới hiện ra như thế cho ông trông thấy. Trưởng giả Tu-đạt-đa cũng tự động đi nhiễu Phật ba vòng rồi cúi đầu đảnh lễ Phật. Phật nói pháp cho ông nghe, Tu-đạt-đa thích thú phi thường, nói : "Phật có nhiều đệ tử như thế này phải có một nơi thật lớn mới có thể ở hết. Con dự tính tìm một địa điểm thật lớn để thỉnh Phật đến ở". Phật nói : "Được đấy ! OÂng hãy tìm đi".

Trưởng giả Tu-đạt-đa trở về nước mình tìm khắp các nơi, nhưng chưa thấy một chỗ nào vừa ý; sau cùng, tìm đến hoa viên của Thái tử Kỳ-đà, ông cảm thấy chỗ này vừa đẹp lại vừa rộng lớn. Trưởng giả Tu-đạt-đa mới đến Thái tử xin mua hoa viên đó. Thái tử ban đầu không muốn bán hoa viên của mình, nhưng nghe trưởng giả Tu-đạt-đa muốn mua, bèn nói đùa : "Được, nếu ông muốn mua hoa viên của tôi thì cứ đem vàng lát đầy hết, tôi sẽ bán cho".

Trưởng giả không kỳ kèo đắt rẻ, trở về nhà, tức khắc cho mang vàng miếng trong kho ra lát khắp hoa viên, rồi nói với Thái tử : "Bây giờ vườn thuộc về tôi rồi đấy nhé !"

Nhưng Thái tử nói : "Hoa viên là của tôi mà, làm sao bán cho ông được ? Tôi nói chơi đấy thôi chứ không bán, không bán đâu !"

Trưởng giả Tu-đạt-đa nói : "Tháì tử nói chỉ cần đem vàng miếng lát đầy hoa viên thì sẽ đem hoa viên bán cho tôi. Tương lai Thái tử sẽ làm Vua, sao lại ăn nói không có chắc thật thế ?"

Thái tử nghĩ ngợi một chút rồi nói : "Được, đất vườn đã lát đầy vàng là thuộc phần ông mua, còn cây chưa lát vàng vẫn thuộc về phần của tôi, kể như tôi cúng dường cho Phật đấy".

Cho nên vườn này có tên là vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc.

Sao gọi là Cấp Cô Độc ? - Cấp là ban cho, cũng tức là bố thí. Vì ông trưởng giả Tu-đạt-đa chuyên môn bố thí cho những người già cả, trẻ nít cô độc.

Thời Văn Vương nhà Chu, ở Trung Quốc cũng có cứu giúp bốn hạng người cùng khổ : Quan, quả, cô, độc. Quan là người già mà không có vợ (quan phu). Quả là người già mà không có chồng (quả phụ). Cô là trẻ nít không có cha (cô nhi). Độc là người già mà không có con. Trưởng giả Tu-đạt-đa được tên Cấp Cô Độc là vì cứu giúp bốn hạng người này.

 

Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc ở nước Xá Vệ là Xứ thành tựu. Nhơn vì có người nói nhất định phải có chỗ nơi; không chỗ nơi, pháp sẽ không dễ gì nói được.

 

Cùng với 1.250 vị đại Tỳ-kheo cùng ở chung, là Chúng thành tựu. Nghĩa "cùng" tức là chung nhau, tức là mọi người cùng đi theo một vị Thầy để học tập, cùng ở một chỗ, cùng học tập theo Phật pháp, cùng phát tâm Bồ-đề như nhau, cùng khai mở trí huệ như nhau, cùng chứng đắc quả vị như nhau, cùng đồng thành Phật. Vì những lý do cùng như nhau ấy cho nên dùng chữ "cùng" (dữ).

 

Đại Tỳ-kheo tăng, trước hết nói về chúng Tỳ-kheo, vì Tỳ-kheo đều là hình tướng xuất gia. Kế đó nói đến chúng Bồ-tát, vì hình tướng Bồ-tát không nhất định, có lúc là tướng xuất gia, có lúc là tướng tại gia. Bồ-tát là những người tu theo Trung đạo, cho nên để ở giữa, sau đó nói đến Thiên long Bát bộ, và sau cùng nói đến tất cả phàm phu tướng thế gian. Tướng xuất thế là Thánh nhân, Bồ-tát có lúc ở trong pháp hội, có lúc rời pháp hội đi đến thế giới khác. Tỳ-kheo là chúng thường theo Phật, theo Phật để nghe học Kinh pháp. Cho nên khi kiết tập Kinh tạng nêu chúng Tỳ-kheo ra trước.

"Đại" có ba nghĩa :

- Tỳ-kheo là người được quốc vương, đại thần sùng bái.

- Tỳ-kheo là người đoạn dứt tất cả phiền não.

- Tỳ-kheo là người phá trừ các ác.

Tỳ-kheo không giống như người các ngoại đạo khác, cho nên gọi là "thắng", nghĩa là vượt hơn tất cả ngoại đạo khác.

Tỳ-kheo lại có ba nghĩa :

l. Khất sĩ : Cầm bát xin ăn.

2. Bố ma : Khi có một người thọ trong giới đàn, thì Địa Hành Dạ-xoa liền đi báo với Không Hành Dạ-xoa, Không Hành Dạ-xoa tức tốc báo với Thiên ma. Thiên ma lo sợ nói : "Phật lại có thêm một đệ tử nữa, quyến thuộc của ta ít đi một người rồi". Vì thế Thiên ma rất lo sợ, cung điện của Ma vương đều chấn động.

3. Phá ác : Khi Tỳ-kheo phát tâm Bồ-đề thì phá tám vạn bốn ngàn phiền não, cho nên gọi là Phá ác.

Tăng-già là tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là Hòa hợp chúng, tức là mọi người cùng ở một chỗ, không có chuyện hơn thua phải quấy, không tranh đấu lẫn nhau. LạI có "Sự hợp" và "Lý hợp". Thế nào là "Lý hợp" ? Tức là mọi người cùng chứng Vô vi giải thoát. "Sự hợp" lại có 6 thứ :

l. Thân hòa đồng ở : Tăng chúng ở chung một chỗ, không hề tranh đấu lẫn nhau, mỗi thời mỗi khắc phải tự quản lý mình, không cho phạm lỗi, không làm phương hại đến người khác. Ví như mọi người đều không uống rượu mà anh lại uống rượu, mọi người đều không hút thuốc mà anh lại hút thuốc thì Tăng không hòa, sẽ không thể ở chung được. Cho nên nhứt định phải giữ thanh quy, không cho phạm lỗi.

2. Miệng hòa không tranh : Không nên biện luận phải quấy với nhau. Không nên có kiểu thị phi : Nhà Trương tốt, nhà Lý xấu; ba con ễnh ương sáu con mắt ... Phải miệng hòa không tranh cãi, không nên nói lý lẽ của anh không đúng, còn lý lẽ của tôi mới đúng, mà tranh luận lăng xăng.

3. YÙ hòa đồng vui vẻ : Mọi người cùng học Phật pháp. Anh tu trì tinh tấn, tôi lại càng tinh tấn hơn. Mọi người cùng tu hành tinh tấn hướng thượng. Chẳng nên mỗi ngày càng kém hơn. Phải nói chuyện ít đi, tu tập nhiều hơn thì ý niệm của mọi người sẽ hòa hợp.

4. Kiến hòa đồng giải : Mọi người đều có kiến giải giống nhau.

5. Giới hòa đồng tu : Mọi người cùng tuân giữ giới luật, đồng tu hành.

6. Lợi hòa đồng chia : Mọi người đều cùng vì lợi ích cộng đồng mà gắng sức.

Sáu thứ hòa hợp trên đây là Sự hòa. 1.250 vị ... là chúng thường theo Phật. Phật đến địa phương nào nói pháp, những vị này nhứt định đều có đi theo. Không luận là Phật nói những Kinh họ đã nghe hay chưa, họ nhứt định vẫn đi theo Phật để nghe thuyết pháp. Cơ bản vẫn thường là 1.250 vị. Phật trước độ năm vị Tỳ-kheo, rồi đến Trưởng giả tử Da-xá và 49 người đệ tử của ông. Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên mỗi người có 100 đệ tử cùng theo thầy quy y Phật, ngoài ra ba anh em Đại Ca-diếp và 1.000 vị đệ tử cũng theo thầy quy y Phật. Vì thế cộng chung là 1.250 người. Ba anh em ông Ca-diếp cộng chung có 1.000 đệ tử. Trong đó, 500 người là đồ đệ của Öu-lâu-tần-loa Ca-diếp. Ca-diếp là tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là Đại Quy thị. Öu-lâu-tần-loa dịch là Mộc Qua lâm. Có người nói : Vì ông ở trong rừng Mộc Qua tu hành. Lại có người nói : Vì trước ngực ông có một cái bướu lớn như trái Mộc Qua (trái dưa). Cũng có người nói : ÔÛ ngực lõm xuống như hình trái dưa. Tóm lại có thể là như thế. Tôi nghĩ rằng ông ta rất khoái ăn dưa, cho nên khi tu hành trên thân mới mọc ra một cái bướu thịt hình trái dưa như thế. Đặc tính của dưa là bổ phổi, nếu có bịnh phổi nên ăn nhiều dưa vào.

Mộc Qua lâm Ca-diếp có hai người em, một người tên là Già-da. Già-da là tên núi, Trung Quốc dịch là Tượng Đầu sơn (núi Đầu Voi); còn ngươi kia tên là Na-đề, Trung Quốc dịch là Hà (sông) hoặc Thành. Tôi cho rằng con sông này ở bên thành, cho nên hai nghĩa đều dùng được. Hai người này tổng cộng có 500 đệ tử, cho nên ba anh em có 1.000 đệ tử.

Phật giáo hóa chúng sanh, trước tiên độ năm vị Tỳ-kheo ở vườn Lộc Dã, sau đó đáng phải độ ai ? Ngài mới quan sát thấy ba anh em ông Ca-diếp cơ duyên đã thành thục, đáng được hóa độ. Bấy giờ Phật đi đến chỗ của ông Đại Ca-diếp, nhưng Ngài không nói thẳng ra : "Tôi đến để độ bọn ông, các ông có tin ông ?", mà chỉ sử dụng pháp môn phương tiện quyền xảo. Ngài nói : "Bây giờ trời đã tối, tôi có thể nghỉ nhờ một đêm được không ?"

Đại Ca-diếp là người tu hành theo đạo thờ Lửa rất lâu, lúc đó đã 160 tuổi, thấy Phật không giống với người bình thường, nhưng ông ta nhìn không ra lai lịch của Phật và nhơn duyên gì Phật đến đây. OÂng rất lấy làm lạ, tại sao bình thời, về bối cảnh của bất cứ ai, hễ nhìn đến là ông biết ngay, mà hôm nay không cách gì hiểu được ông này là ai. Vì thế ông mới đưa Phật đến trong động một con rồng lửa. Con rồng lửa này là Hộ pháp của ông ta. Bất cứ người nào đi vào trong động đó liền bị rồng lửa thiêu chết ngay. Canh ba đêm ấy, rồng lửa muốn đốt chết Phật, nhưng Đức Phật dùng Hỏa quang tam-muội đối phó lại, vô hiệu hóa pháp thuật của nó, thâu nó vào bát và thuyết pháp cho nó nghe, cũng giống như việc Lục Tổ Đại sư thâu độc long vào trong bát, nhưng Phật không nói như Tổ : "Ngươi chỉ có thể biến ra lớn mà không thể biến lại nhỏ chui vào trong bát của ta". Phật chỉ rất tự nhiên thâu nó vào trong bát, thuyết pháp cho nó nghe; rồng lửa liền quy y Phật.

Sau đó Phật hiển hiện các thứ thần thông, Đại Ca-diếp nhìn thấy, tự biết mình không bằng Phật, không có những đạo lực to lớn như thế, bèn xin quy y Phật. Sau khi quy y chẳng bao lâu, ông chứng được Thánh quả; 500 đệ tử của ông cũng theo ông quy y Phật và đều xuất gia. Hai người em của ông thấy anh mình theo Phật nên hai người cũng dắt 500 đệ tử cùng xuất gia theo Phật. Xuất gia không bao lâu họ đều chứng được Thánh quả. Nhơn đó gộp chung thành 1.250 vị. Những người này vì cảm tạ ơn sâu từ bi giáo hóa của Phật nên bất luận Phật đến thuyết pháp chỗ nào, họ nhứt định đều cùng theo Phật làm chúng Tỳ-kheo nghe pháp trong pháp hội. Cũng như quý vị nghe kinh hiện giờ, dù có người đã được nghe rồi nhưng vẫn trung thành hộ pháp. Ví như có vị đệ tử đi dạy học ở nơi xa, nhưng mỗi kỳ thứ bảy vẫn trở về đây tham gia pháp hội và làm Phật sự trong hai ngày cuối tuần. Đó là do lòng chơn thành hộ pháp của vị ấy. Lại có một đệ tử, ở trong trăm công ngàn việc bận rộn vẫn thu xếp đến nghe kinh. Công tác cả ngày bận rộn, rất là mệt nhọc, nhưng sau khi ra ca vẫn vội vàng đến nghe kinh, thật là rất có lòng thành.

 

Câu hội, là mọi người đều nhóm ở một chỗ.

 

Đều là bậc đại A-la-hán, những người nhóm họp một chỗ đều là bậc đại A-la-hán cả. A-la-hán là tiếng Phạn, có ba nghĩa rất gần với nghĩa của Tỳ-kheo. Tỳ-kheo là nhân của La-hán, còn La-hán là quả của Tỳ-kheo.

Ba nghĩa của La-hán là :

l. ÖÙng cúng : ÔÛ nhân là Khất sĩ, nên ở quả đáng được người, trời cúng dường.

2. Vô sanh : Trong nhân là Bố ma, làm cho ma sợ, làm cho ma phiền não sợ, làm ma chết sợ, thì trên quả là Vô sanh.

3. Sát tậc : Trong nhân là Phá ác, thì trên quả gọi là Sát tặc, giết giặc vô minh, giết giặc phíền não.

Phá ma ngũ ấm và ma phiền não cùng ma chết. Chết cũng là một thứ ma. Giống như người lúc tu hành, bịnh gần chết, thời nổi lên sợ sệt, đây tức là bị ma chết quấy động. Người tu hành phải không sợ sống cũng không sợ chết. Sống tức là chết, chết tức là sống, phải xem sống và chết như nhau, lúc sống cũng giống như lúc chết, thì lòng dục vọng cũng không sanh khởi. Nếu chết rồi thì sao lại có tâm dâm dục, tâm tham sân si mạn nghi ư ? Lúc đó, tất cả phiền não cũng không có. Anh nói cảnh giới đó quá vui sướng, nhưng mà cảnh giới này không dễ gì đến được, nhưng cũng không phải khó khăn, chỉ cần anh chịu "làm" là được.

 

Đều là bậc đại A-la-hán, mọi người đều biết đến. Những vị đại A-la-hán này đều là những bậc đức cao, vọng trọng, người người đều hay (chỉ nghe tên chứ chưa thấy mặt) và biết (đã thấy mặt mà chưa quen).

Đó là Trưởng lão Xá-lợi-phất, Ma ha Mục-kiền-liên. Trưởng lão là tiếng tôn xưng người lớn tuổi. Trưởng lão có ba hạng :

l. Niên kỳ trưởng lão : Kỳ là người tuổi già. Tuổi già là chỉ người có tuổi tác rất lớn.

2. Pháp tánh trưởng lão : Tức là người hiểu rõ ràng Phật pháp. "Tánh" là tự tánh. Vị này hiểu rõ Phật pháp và thông đạt tự tánh, cho nên bất luận là tuổi tác vị ấy lớn hay nhỏ mà có trí huệ vô lượng, biện tài vô ngại, thì đều được gọi là Pháp tánh trưởng lão. Có khả năng như trên, dù là tuổi tác còn nhỏ cũng được gọi là Trưởng lão, để giảng giải Phật pháp. Như Xá-lợi-phất lúc còn 8 tuổi mà đã chiến thắng các Luận sư đương thời ở AÁn Độ. Trong 7 ngày, Ngài có thể thông suốt được Phật pháp, cho nên gọi là Trưởng lão.

3. Phước đức trưởng lão : Vị này có rất nhiều phước đức, ai ai cũng thích cúng dường vị ấy. Nhơn vì vị ấy tiếp nhận sự cúng dường của người, cũng có thể khiến người gieo trồng phước lành, cho nên nhơn đó mà có đức hạnh.

Tôn giả Xá-lợi-phất khi chưa ra đời, mẹ Ngài và cậu em (Ma ha Câu-hy-la) biện luận, nhưng lần nào bà cũng thua em. Từ khi bà cấn thai thì lập tức kỳ tích xuất hiện : Mỗi lần bà biện luận với em, cậu em đều đuối lý. Cho nên Ma ha Câu-hy-la thông minh kia lập tức biết ngay đứa bé trong bụng chị mình nhất định là người có trí huệ.

Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đều là Trưởng lão. Xá-lợi-phất là tiếng Phạn, cha Ngài tên là Đề-xá, Lợi là tên của mẹ Ngài, Phất nghĩa là con, cho nên có một số kinh dịch là Xá-lợi-phất hoặc là Öu-ba-đề-xá. Gộp tên cha mẹ lại làm tên của Ngài, cho nên gọi là Xá-lợi-phất. Xá-lợi-phất, có nhiều cách phiên dịch. Có người dịch là Thân Tử, hoặc Thu Tử, hoặc Châu Tử. Sao gọi là Thân Tử ? Vì thân thể mẹ của Ngài đẹp đẽ lạ thường (tướng mạo bà đoan chánh) cho nên nói là Thân Tử, có nghĩa là đứa con của người con gái có thân hình rất đẹp. Thu Tử là gì ? Thu Lộ là một thứ chim mà mắt của nó đẹp đẽ lạ thường, mắt của mẹ ngài Xá-lợi-phất cũng đẹp đẽ giống như mắt chim Thu Lộ, cho nên gọi Xá-lợi-phất là Thu Tử. Sao gọi là Châu Tử ? Châu Tử cũng là chỉ cho mắt của mẹ Ngài đẹp như hạt bảo châu, bà sanh ra Xá-lợi-phất, đôi mắt cũng đẹp đẽ như vậy cho nên gọi là Châu Tử.

Ngài Xá-lợi-phất là người trí huệ bậc nhất trong hàng Thanh văn, trí huệ của Ngài không ai sánh kịp. Đương lúc Ngài ở trong thai mẹ đã giúp mẹ biện luận luôn luôn được thắng. Bà biện luận với ai ? Chính là cùng với cậu của Ngài. Trước kia, khi chưa mang thai ngài Xá-lợi-phất, mẹ Ngài cùng em bà biện luận, càng biện luận càng thua. Nhưng từ khi mang thai Ngài, bà biện luận với em không giống như trước, những lý lẽ đưa ra hoàn toàn vững chắc. Em của bà (tức cậu Xá-lợi-phất) cũng rất thông minh, biết rằng đây không phải là chị biện luận hơn mình, mà là do sự giúp sức của đứa trẻ bà mang trong bụng. Lúc đó ông bèn phát tâm đi về Nam AÁn Độ học Luận nghị. Cứ học, học mãi, rất nhiều năm, ngày xưa không có đèn điện, nhưng ông ta suốt ngày từ sáng đến tối đều siêng năng học luận : Bốn bộ Vệ-đà, bốn thứ Luận học, thậm chí không bỏ qua một giây phút nào. Học như vậy đến mấy năm, y phục rách cũng không kịp vá, mặt cũng không rửa, móng tay cũng không có thì giờ cắt, cho nên móng tay cứ mọc dài ra mãi, vì thế người ta gọi ông là Trường trảo Phạm chí. OÂng định học xong tất cả những luận học sẽ trở về biện luận cùng cháu mình. Nhưng vì ông là một vị Đại Luận sư, mới nghĩ rằng : "Nếu không thắng được đứa cháu mình thì còn mặt mũi nào nhìn ai nữa". Không dè sau khi học thành tài trở về lại phát hiện Xá-lợi-phất đã theo Phật xuất gia rồi. OÂng cảm thấy không vui, cho việc học của mình là vô bổ, và nói : "Phật có đạo đức gì ? Chẳng qua chỉ là một ông Sa-môn. Ta phải đi tìm đứa cháu bắt về mới được". OÂng ta bèn đi đến chỗ Phật định bắt cháu về. Phật nói : "OÂng dựa vào lý do gì mà bắt cháu về ? OÂng lập ra một tông à ?"

OÂng ta đáp : Tôi lấy "Không thọ" làm tông.

Phật nói : Phải, ông lấy "Không thọ" làm tông tại sao ông còn thọ cái kiến chấp "không thọ" của ông ? Tông của ông lập phải chăng là thọ cái không thọ ?

Từ trước đến giờ, ông cho tất cả đều không thọ, bây giờ Phật hỏì ông : Phải chăng là thọ cái chấp "không thọ" ? OÂng tự xét : Nếu nói là thọ, thì "lấy không thọ làm tông" đã bị đổ nhào, không còn đứng vững nữa, vì là có thọ rồi. Nếu nói không thọ thì cả đến kiến chấp cũng không thọ nữa. Nhưng khi lập tông này thì đã là có kiến chấp rồi, làm sao nói là không thọ kiến chấp ấy ư ? Cho nên trả lời "thọ" cùng "không thọ" đều không đứng vững. Lúc đó ông tự nhận thua rồi.

Trước khi biện luận, ông giao kết với Phật : "Nếu tôi thắng thì tôi mang Xá-lợi-phất về, không cho nó theo ông xuất gia. Còn nếu thua thì tôi sẽ cắt đầu dâng cho ông".

OÂng ta đem đầu đánh cuộc, khi thấy mình bại rồi ông ta liền co giò chạy tuốt. Chạy được 3, 4 dặm, ông lại nghĩ : "Chà, bậy bạ quá ! Đã nói chắc rồi, hễ thua thì nộp đầu mà bây giờ lại chạy đi, đâu phải là hành động của đại trượng phu nam nhi hảo hán !" OÂng bèn trở lại, xin với Phật Thích Ca cho mượn dao. Phật hỏi : "OÂng mượn dao để làm gì ?" OÂng nói : "Tôi thua rồi, tôi phải cắt đầu nộp cho ông". Phật nói : "Giáo pháp ta không có cách làm như vậy. OÂng đã thua rồi thì không được đi, phải ở đây xuất gia mới đúng". OÂng hỏi : "Đức Thế Tôn chịu thâu nhận tôi sao ?" Phật gật đầu. Như vậy chẳng những cháu không bắt về được, mà người đòi bắt về cũng xuất gia làm Tỳ-kheo nốt. Sau khi xuất gia, không bao lâu ông được Pháp nhãn tịnh, chứng Thánh quả.

Xá-lợi-phất ở trong thai mẹ đã có đại trí huệ giúp mẹ biện luận thắng cậu. Lại, Xá-lợi-phất trong 7 ngày liền thông đạt Thật tướng các pháp, lúc 8 tuổi đã biện luận thắng tất cả Luận sư, cho nên gọi là Đại trí Xá-lợi-phất. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không ai hỏi mà tự nói ra Kinh Di Đà, chúng đương cơ lấy ngài Xá-lợi-phất làm Thượng thủ, vì có trí huệ như ngài Xá-lợi-phất mới có thể tiếp nhận đạo lý thâm diệu của pháp môn Tịnh độ.

Ngài Xá-lợi-phất chẳng những là trí huệ bậc nhất mà thần thông của Ngài cũng thuộc vào hàng bậc nhất nữa. Một hôm có vị cư sĩ thiết trai thỉnh Phật cúng dường. Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất đang nhập định, người ta gọi mà Ngài không xuất định (không phải giả đò đâu, tình trạng nhập định đó là nhập định thật đấy). Bấy giờ ngài Mục-kiền-liên, vị thần thông bậc nhất, muốn dùng thần lực của mình để gọi ngài Xá-lợi-phất xuất định, nhưng sử dụng tận lực thần thông mà cả đến chéo áo của ngài Xá-lợi-phất cũng không lay động. Điều này chứng tỏ rằng ngài Xá-lợi-phất chẳng những là trí huệ đệ nhất mà thần thông cũng là bậc nhất nữa (chẳng giống như chúng ta ngồi nhập định, động tĩnh chung quanh cái gì cũng biết ! Như ngài Xá-lợi-phất mới là thiệt nhập định đấy).

Tại sao ngài Xá-lợi-phất có trí huệ bậc nhất ? Tại sao gọi Ngài là Đại trí Xá-lợi-phất ? Việc này phải xét theo nhơn quả. Khi Ngài còn tu nhơn, lúc mới phát tâm học Phật, gặp một vị Thầy, vị này hỏi : "Con muốn có trí huệ không ?" Xá-lợi-phất đáp : "Con rất muốn". Lúc ấy vị Thầy mới bảo ông : "Nếu muốn được trí huệ thì phải học pháp môn Bát-nhã trí huệ, trì chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi, Thập chú, Tâm Kinh ... Mỗi ngày trì tụng các chú ấy thời có thể mở được trí huệ". Xá-lợi-phất bèn y giáo phụng hành, mỗi ngày từ sáng tới tối, đi đứng nằm ngồi đều để tâm ở việc trì tụng, không có gián đoạn, thậm chí còn phát nguyện đời đời kiếp kiếp luôn kính lễ vị Thầy đã dạy pháp Bát-nhã. Như vậy, đời nào ông cũng học tập pháp môn Bát-nhã, đời nào cũng tăng thêm trí huệ. Đến đời Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật, ông mới thành tựu được trí huệ như thế, có thể trong 7 ngày thông suốt Thật tướng các pháp.

Ai là Thầy của ông ở thời tu nhơn ? Chính là Phật Thích Ca Mâu Ni đấy. Cho nên hiện tại Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật rồi, ông cũng thành ra bậc đại A-la-hán. Đó là nhơn duyên mà ngài Xá-lợi-phất thành tựu đại trí huệ. Chủ yếu là vì lúc nào ông cũng không quên lời dạy bảo của bậc thiện tri thức, cho nên pháp đã học nội trong 7 ngày được thông suốt như vậy.

Chúng ta tại sao học kinh chú rất chậm, thậm chí mấy tháng trời mà chú Lăng Nghiêm không thuộc ? Đó là vì đời trước chúng ta chưa học qua thứ Phật pháp ấy, đến bây giờ mới bắt đầu học. Điều cần nhất là học Phật pháp không nên lười biếng, cần phải bắt chước sự siêng năng vượt bực của ngài Xá-lợi-phất, ngày đêm không lười biếng để học Phật pháp. Cho nên người bây giờ nhớ không được kinh chú, cần phải cố sức lên, đó gọi là "cần năng bổ chuyết" (Siêng năng bù dắp chỗ vụng về). Nếu nhớ được rõ ràng, cũng càng phải nỗ lực gấp bội để tăng thêm trí huệ của chính mình.

Tại sao trí huệ của ta kém hơn người khác ? Tại vì chúng ta chưa học Phật pháp, cho nên phải phát nguyện học tập Phật pháp thì tương lai chúng ta sẽ được đại trí như ngài Xá-lợi-phất. Ngoài ra chúng ta còn phải học theo đại trí của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, vì trí huệ của Ngài còn to lớn hơn ngài Xá-lợi-phất nhiều.

Ma-ha Mục-kiền-liên. Ma-ha là tiếng Phạn, có ba nghĩa :

1. Lớn : Vì Ngài là bực Trưởng lão được quốc vương, đại thần cung kính.

2. Nhiều : Ngài học tập cả 3 tạng 12 bộ kinh điển.

3. Hơn hết : Ngài vượt hơn tất cả các ngoại đạo bàng môn.

Mục-kiền-liên là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Thái Thúc Thị, hoặc Lai Phục Căn, nhơn vì tổ tiên ngài khi tu hành ăn thứ rau này cho nên lấy đó đặt tên. Tên của ngài còn có một nghĩa là Câu-luật-đà, nhơn vì cha mẹ ngài cầu đảo với thần cây mà sinh ra ngài.

Tôn giả Mục-kiền-liên là người thần thông bậc nhất, khi ngài mới chứng A-la-hán liền được sáu thứ thông. Sáu thứ thông là :

l. Thiên nhãn thông : Chẳng những có thể thấy được tất cả tình hình ở nhơn gian mà lại còn có thể thấy được nhứt cứ nhứt động của các người ở trên cõi trời.

2. Thiên nhĩ thông : Chẳng những thấy được mà còn có thể nghe được một lời nói, một hành động của người và trời.

3. Tha tâm thông : Khi hai bên gặp nhau, trong tâm anh có ý nghĩ gì, dù chưa nói ra miệng nhưng đối phương đã biết rõ những điều anh nghĩ và những việc anh định làm.

4. Túc mạng thông : Chẳng những biết được ý nghĩ của anh trong hiện tại, mà cả đến nhơn quả đời trước của anh cũng biết được rõ ràng.

5. Thẩn túc thông, cũng gọi là Thần cánh thông hay Như ý thông. Sao gọi là Thần túc thông ? - Đó là một thứ sức mạnh không thể nghĩ lường, có thiên biến vạn hóa, ngay đến quỷ thần cũng không lường biết. Lại gọi là Thần cảnh thông, vì có thể đến mọi cảnh giới, thông suốt không bị ngăn ngại. Như ý thông : Được toại lòng mong muốn, muốn lên trời hoặc xuống địa ngục đều được tùy ý; thậm chí vào lửa, lửa không đốt được; vào nước, nước không nhận chìm; có thể mặc ý xuyên qua vách tường, không cần phải theo lối cửa; toại lòng như ý, muốn gì được nấy.

6. Lậu tận thông : Đã sạch cả Hữu lậu. Hàng phàm phu đều có Hữu lậu, như là cái bình pha lê bị bể không đựng nước được, hễ đổ nước vào liền chảy; lỗ hổng càng lớn thì chảy càng mau. Nếu không có lỗ hổng thì sẽ không rịn chảy.

Người ta có rịn chảy (lậu) là thế nào ? Người ta uống nước, ăn cơm, khi biến thành đại tiểu tiện thì sẽ rịn chảy ra. Người ưa nổi cáu, có tâm tham, sân, si, mạn, nghi... đó đều là lậu. Có lậu tức là không giữ được. Lậu tận thông tức là những lậu ấy không còn có nữa. Những thứ lậu này tức là những loại bịnh vặt. Người ta không có bịnh lớn thì có bịnh nhỏ, không có bịnh nhỏ thì có bịnh vặt; khi không có lậu lớn thì có lậu nhỏ; khi không có lậu nhỏ lại có những tập khí mạn mạn lậu. Lậu, nói mãi không cùng.


Phần II | Phần III

 


Cập nhật: 27-5-2001

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang