Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH THIỂN THÍCH
 Hán dịch : Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Giảng giải : Tuyên Hóa Thượng nhân
Việt dịch : Thích Minh Cảnh

Phần II

Tôn giả Mục-kiền-liên sau khi được sáu thứ thông, ngài liền dùng Thiên nhãn thông xem khắp thế giới, tìm kiếm cha mẹ mình, nhưng trước chú ý tìm mẹ của ngài thì thấy bà ởû trong địa ngục. Tại sao bà mẹ của ngài lại ởû trong địa ngục ? Tại vì bà ta lúc sanh thời không tin Tam bảo Phật, Pháp, Tăng, chẳng những không tin mà còn hủy báng Tam bảo, rồi còn sát sanh, ưa ăn trứng cá. Vì sát sanh quá nhiều nên phải bị đọa vào địa ngục. Tôn giả Mục-kiền-liên bấy giờ mới đem bát cơm cho mẹ ăn.

Bà mẹ ngài vội vàng một tay cầm bát (vì lòng tham của bà quá nặng, sợ bọn ngạ quỷ kia đến cướp cơm của bà. Ngạ quỷ là loài tâm tham quá nặng), len lén bốc ăn. Nhưng vì nghiệp chướng bà quá nặng, trước khi cơm vào cửa miệng đã cháy thành than, không thể ăn được mà còn làm phỏng miệng bà. Tôn giả Mục-kiền-liên dù có thần thông cũng không cách nào làm cho cơm không trở thành than được, vì thế ngài tức tốc cầu cứu với Phật.

Phật Thích Ca Mâu Ni liền dạy cho ngài một phương pháp cứu giúp mẫu thân, tức là thiết lễ cúng Vu lan bồn. Vu lan bồn là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Giải đảo huyền, nghĩa là mở cứu người bị treo ngược, tức là giải thoát cho những người biến thành ngạ quỷ bị khổ như treo ngược trong địa ngục. Vào ngày rằm tháng bảy, ngày Phật hoan hỷ, sau khi chư tăng làm lễ Tự tứ, dùng thức uống ăn đủ cả trăm vị để cúng dường mười phương tăng, mới có thể cứu mẹ ngài thoát khổ được vui. Tôn giả Mục-kiền-liên y theo cách đó mà thực hành, quả nhiên siêu độ được mẹ ngài sanh lên trời; chẳng những mẹ ngài được sanh Thiên, mà tất cả những ngạ quỷ trong địa ngục đó đều lìa khổ được vui.

Có người nói : "Tôi không tin là thức ăn của chúng ta khi đưa đến ngạ quỷ ãn sẽ hóa thành than lửa". Điều đó làm cho anh không tin là phải, trước kia tôi cũng không tin như vậy. Nhưng mà trong vũ trụ có biết bao nhiêu việc rất lạ lùng, nói một vài lời cũng khó hết được, huống chi là những việc ngoài vũ trụ ư ? Ví như nước trong, loài người và súc vật thấy là nước, nhưng thiên nhơn thấy là lưu ly, ngạ qnỷ thấy là lửa. Những cái thấy đó đều là do nghiệp báo hiện ra. Trời, người, ngạ quỷ... mỗi người đều có nghiệp báo riêng, do nghiệp lực hiện ra mà thấy như vậy. Đây chính là nhơn duyên mà Tôn giả Mục-kiền-liên cầu Phật cứu mẹ.

 

Ma-ha Ca Diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Ly-bà-đa, Châu-lợi-bàn-đà-dà, Nan-đà, A-nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề.

Ma-ha Ca Diếp. Ma-ha có 3 nghĩa : Lớn, nhiều và hơn hết, cho nên Ma-ha Ca Diếp tức là Đại Ca Diếp. Ca Diếp là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đại Quy Thị. Đại Quy Thị là họ của ngài, nhơn vì tổ tiên của ngài nhìn thấy một con rùa lớn cõng trên lưng một cái bản đồ, rồi theo đó mà tu hành, nên lấy đó làm họ của mình. Ca Diếp còn dịch là Ẩm Quang Thị, vì trên thân của ngài có ánh sáng, có thể lấn át các ánh sáng của người, giống như là "uống hết" (ẩm) tất cả ánh sáng vậy.

Tại sao ngài lại có được ánh sáng như thế ? Vào thời bẩy Đức Phật quá khứ, thời Đức Phật Tỳ-bà-thi, có một ngôi chùa vách long hư nát; tượng Phật không gì che chắn, để mặc tình gió táp mưa chan. Lúc ấy có một cô gái nghèo phát tâm muốn thếp vàng tượng Phật, sửa lại ngôi chùa. Mỗi ngày cô đi hóa duyên khắp nơi, chờ khi đủ số rồi mời một người thợ bạc đến để thếp vàng sửa lại kim thân tượng Phật.

Công việc xong, người thợ bạc sanh ra một thứ tình cảm yêu mến cô gái ấy, nên mới nói với cô gái rằng : "Cô sửa chùa công đức rất lớn. Nhưng công đức đó có thể tính cho hai người được không ? Cô ra vàng, tôi ra công, không tính với cô tiền công". Lúc đó hai người cùng nhau sửa sang tượng Phật và ngôi chùa hoàn hảo. Xong việc, người thợ bạc xin cầu hôn với cô gái nghèo ấy. Hai người bèn kết nghĩa vợ chồng. Vì nhơn duyên thếp vàng tượng Phật nên về sau đời đời kiếp kiếp trên thân hai người đều phóng ra ánh sáng màu vàng ánh. Trong 91 kiếp, hai người sanh ra đều làm vợ chồng. Đời này sanh tại nước Ma-kiệt-đà, vào họ Ca Diếp, khi ngài được 20 tuổi cha mẹ muốn cưới vợ cho, ngài nói : "Nhứt định phải tìm được cô gái mà trên thân có ánh sáng sắc vàng, tôi mới chịu kết hôn". Về sau, quả nhiên ở một nước kia có cô gái trên thân cũng có ánh sáng sắc vàng như ngài. Đó là do tiền nhơn hậu quả gây tạo nghiệp lành mà cảm ra, cho nên đời đời kiếp kiếp họ đều có ánh sáng sắc vàng. Hai vợ chồng họ đời nào cũng đều là người tu hành, cùng nhau nghiên cứu phương pháp tu tập. Ở đời này, ngài Ca Diếp xuất gia làm Tỳ-kheo, cô vợ ông cũng xuất gia làm Tỳ-kheo-ni, tên là Kim Quang Minh Tỳ-kheo-ni. Ngài Đại Ca Diếp tên là Tỳ-bát-la, đây cũng là tên cây, do vì cha mẹ ngài cầu đảo với thần cây mà sanh ra ngài nên lấy tên cây mà đặt tên con.

Tôn giả Ma-ha Ca Diếp là người có địa vị rất quan trọng trong Phật giáo. Chư Phật thuyết pháp, các vị Đại Phạm thiên cùng tụ hội và dâng hoa sen bằng vàng lên cúng Phật. Có một hôm, Phật cầm hoa sen vàng đưa ra trước đại chúng, bấy giờ trong pháp hội có hàng trăm vạn người, trời, không ai biểu lộ sắc thái gì, chỉ có Tôn giả Ma-ha Ca Diếp lộ vẻ hơi mỉm cười. Lúc đó Phật nói : "Ta có Chánh pháp nhãn tạng niết-bàn diệu tâm, pháp môn tâm ấn, thật tướng vô tướng, đã truyền cho Ca Diếp". Vì thế ngài Ca Diếp là Tổ đời thứ nhất của Phật giáo ở Thiên Trúc. Tôn giả hiện giờ vẫn còn sống ở thế giới này. Sau khi Phật nhập niết-bàn, Tôn giả Ma-ha Ca Diếp bèn dến nước Kê Túc ở Vân Nam nhập định, đợi lúc Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật ra đời thành Phật, ngài mới đem ca-sa viền vàng giao cho Di Lặc Tôn Phật, chừng đó ngài mới hoàn tất những việc cần làm.

Khi Tôn giả Ca Diếp quy y Phật xuất gia làm Tỳ-kheo thì đã 160 tuổi. Qua 49 năm Phật thuyết pháp, hơn 800 hội giảng kinh, Tôn giả đã hơn 200 tuổi. Từ khi Phặt nhập diệt đến nay đã hơn 8.000 năm, có rất nhiều người tu hành đến núi Kê Túc để triều bái Tổ sư Ca Diếp. Núi Kê Túc thường có ba thứ ánh sáng : Ánh sáng Phật, ánh sáng vàng, ánh sáng bạc. Khi đến núi Kê Túc lễ lạy, nếu người có lòng chí thành thì có thể nghe được tiếng chuông vang ra từ trong núi, chỉ nghe tiếng chuông chứ không thấy chuông, toàn núi Kê Túc mấy trăm dặm đều có thể nghe thấy. Đó thật là cảnh giới bất khả tư nghì !

Tôn giả Ca Diếp là người được hai cái bậc nhất trong số đệ tử Phật : 1/. Đầu-đà bậc nhất, 2/. Tuổi cao bậc nhất. Trong các đệ tử của Phật, luận về tuổi tác thì không có ai hơn ngài. Trong hàng đệ tử của Phật, ngài ăn rất kham khổ, thọ dụng rất kham khổ, tu hành cũng rất kham khổ, cho nên được tôn là hạnh Đầu-đà bậc nhất.

Đầu-đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đẩu Tẩu (phủi dũ), tức là phấn chấn tinh thần, mạnh mẽ tinh tấn. Đầu-đà tức là thực hành khổ hạnh, có 12 thứ khổ hạnh, 12 thứ hạnh Đầu-đà này là biểu hiện sự trụ trì Phật pháp. Chỉ cần có người tu hạnh Đầu-đà thì Phật pháp còn trụ lâu ở thế gian; nếu không có người tu hạnh Đầu-đà thì Phật pháp bị diệt mất. Mười hai hạnh Đầu-đà là :

1. Mặc y phấn tảo : Y phấn tảo là gì ? Tức là loại y phục hoặc vải người ta dã dùng rồi không cần nữa, đem bỏ vào thùng rác, người xuất gia đem những thứ y phục đó về giặt sạch may thành y phục của mình. Mặc những thứ y phục này có những thứ lợi ích gì ? Có lợi ích rất lớn là khiến cho mình không còn tâm tham, không thích y phục đẹp, mặc thứ y phục này khiến cho trong lòng rất an tịnh, bớt đi lòng tham, cũng khiến cho người khác không có tâm tham. Nếu anh mặc bộ y phục quá đẹp người khác có thể sanh ra một thứ lòng hâm mộ, từ hâm mộ sanh ra ganh ghét, từ ganh ghét sanh ra tâm tham, kế đó sanh ra tâm trộm cắp. Nếu mặc y phấn tảo thì không có ai muốn đến lấy trộm y phục của anh, đó là có lợi cho anh mà cũng có lợi cho người khác; cũng là những y phục Phá nạp mà người xuất gia hay mặc. Vì thế người xuất gia cũng gọi là "Nạp tử", có nghĩa là nói người xuất gia mặc y Phá nạp.

2. Chi có 3 y, bình bát, tọa cụ : Tức là những đồ vật mà chính mình chứa dể. Ba y là :

 

- Đại y : Có loại 25 điều, 108 miếng. Thứ y này đắp mặc khi giảng kinh thuyết pháp hay khi vào Hoàng cung.

 

- Thất điều y : Là y 7 diều, đắp mặc khi lễ sám lạy Phật.

 

- Ngũ y : Là y 5 điều, đắp mặc khi chấp lao phục dịch, đi ra vào, đón rước tiếp đãi khách khứa.

Tại sao chỉ có 3 y, bình bát và tọa cụ ? Đó cũng là bảo người thường tri túc, chớ tham nhiều vật chất.

Ở trên là 2 mục nói về y, dưới đây là nói về vật thực :

3. Thường khất thực : Thường ôm bát di khất thực, tự mình không nấu nướng.

4. Theo thứ lớp khất thực : Tức là ngừng ở mỗi nhà khất thực, không nói là bỏ nhà người nghèo khổ mà đến nhà người giàu có để khất thực. Nếu ngừng lại ở từng nhà thì 1 ngày hóa duyên trước cửa 7 nhà. Nếu 7 nhà đều không cúng dường thì ngày hôm đó không ăn cơm. Không thể lựa chọn mà phải bình đẳng khất thực. Không nên giống như Tôn giả Tu-bồ-dề và Đại Ca Diếp có tâm phân biệt. Tôn giả Đại Ca Diếp chuyên đến cửa người nghèo khất thực, vì ngài nghĩ rằng người nghèo thật đáng thương, nếu không gieo trồng phước lành cho họ thì đời sau lại càng khổ hơn, vì thế ngài cứ đến hóa duyên người nghèo. Trái lại, Tôn giả Tu-bồ-đề lại chuyên hóa duyên người có tiền mà không hóa duyên người nghèo khổ. Ngài có ý nghĩ riêng, vì cho rằng : "Người giàu, nếu đời nay không gieo trồng phước lành thì đời sau sẽ nghèo khổ". Mỗi vị đều trình bày lý do của mình, Đức Phật mới quở trách các vị ấy là bậc A-la-hán mà có tâm phân biệt không bình đẳng.

5. Giữa ngày ăn một bữa : Sáng sớm và chiều tối không ăn chi hết, chỉ đúng trưa (từ 11 - 12 giờ) mới ăn cơm. Có người không hiểu Phật pháp, cho rằng giữa ngày ăn một bữa chính là Trì ngọ. Trì ngọ là buổi sáng ăn, buổi chiều không ăn. Nếu sáng, chiều và trưa đều ăn thì gọi là "Năng cật" (Cật và Trì, âm đọc hơi giống nhau). Giữa ngày ăn một bữa, là tu hành theo chế độ của Phật dạy, nhơn vì giữa Ngọ là thời gian Phật ứng cúng. Sáng sớm là chư Thiên ăn, quá Ngọ là súc sanh ăn, chiều tối là ngạ quỷ ăn. Tại sao người xuất gia không ăn chiều ? Vì ăn cơm chiều khua đũa bát, ngạ quỷ có thể đến cướp lấy thức ăn, nhưng mà thức ăn một khi vào miệng liền biến thành lửa đỏ, nhơn đó mà sanh lòng sân hận rồi làm cho người xuất gia sanh bịnh. Thế nên người xuất gia không ăn cơm chiều.

6. Ăn vừa chừng : Tức là không ăn quá nhiều, nếu ăn quá nhiều, bụng không có chỗ chứa thức ăn cho nên phải bận rộn rất nhiều cho việc vào nhà xí.

7. Quá ngọ không uống nước cô đặc : Nước cô dặc là nước ép từ trái cây, sữa bò, sữa đậu nành. Quá giờ Ngọ, người tu hạnh Đầu-đà chân chính thì không uống những thứ nước cô đặc ấy.

Có người chỉ tu một thứ hạnh Đầu-đà, hoặc 2, hoặc 8, hoặc 4 thứ, hoặc tu trọn vẹn các hạnh Đầu-đà, đều là tùy theo sức mình mà thực hành. Năm mục ở trên là về ăn uống, còn 5 mục sau đây là về mặc, ở. Người tu hành cũng không tránh khỏi các vấn đề ăn, mặc, ở, đi; cho nên có 12 thứ hạnh Đầu-đà.

8. Ở nơi A-lan-nhã : A-lan-nhã dịch là Tịch tịnh xứ, tức là chỗ rất ít bóng người, không có thứ tiếng tạp loạn, đó là nơi mắt không thấy thì miệng không ham, tai không nghe thì tâm không phiền. Giống như người thấy đồ ăn ngon thì sanh ra lòng muốn ăn. Tai không nghe rất nhiều tiếng ồn ào thì trong lòng không sanh phiền não, còn ở chỗ vắng lặng thì dễ dụng công tu hành, dễ ngộ đạo.

9. Ở dưới bóng cây : Người tu hành ở dưới bóng cây, nhưng không quá ba đêm. Ở qua hai đêm thì phải dời chỗ. Tại sao thế ? Nếu anh ở đó ba đêm thì sẽ có người đến cúng dường. Vì người tu hạnh Đầu-đà không mong cầu có pháp duyên, không mong cầu được cúng dường thức ăn ngon.

10. Ở lộ thiên : Tức là ngồi ở khoảng đất trống.

11. Ở gò mả : Tức là ở bên gò mả khiến cho tự mình có một thứ cảnh giác để đối trị với tánh buông lung : "Này, ở đó có người chết, nếu không tu hành về sau ta cũng giống như thế, ta phải gấp rút tu hành mới được". Ở bên gò mả thì không thể nào lười biếng được.

12. Hông không dính chiếu : Tức là thường ngồi không nằm. Không có nằm ngủ nghỉ, như thế mới có thể đụng công mà không lười nhác. Tôn giả Ca Diếp chẳng phải chỉ tu một thứ hạnh Đầu-đà, mà cả 12 hạnh Đầu-đà đều tu trọn vẹn. Đến khi ngài hơn 200 tuổi, Phật thấy ngài tu hạnh Đầu-đà, không nhẫn tâm để ngài khổ cực quá, có một hôm Tôn giả Ca Diếp đến ra mắt Phật, Phật chia nửa tòa cho Tôn giả Ca Diếp cùng ngồi rồi nói với ngài rằng : "Ông nay tuổi đã quá già rồi, nên nghỉ bớt đi, chớ nên hành Đầu-đà cực khổ như thế nữa". Tôn giả Ca Diếp nghe Phật dạy, chỉ cười cười mà không đáp. Nhưng khi ngài trở về vẫn tu hạnh Đầu-đà, không cho rằng mình tuổi tác đã cao mà ngưng tu hạnh Đầu-đà. Đức Phật biết việc ấy nên vui vẻ nói : "Trong Phật pháp của ta, hạnh Đầu-đà của Ca Diếp có thể làm cho Phật pháp trụ lại 500 năm nữa". Cho nên ngài Ca Diếp được khen là hạnh Đầu-đà bậc nhất.

Mười hai hạnh Đầu-đà là việc tu hành của người xuất gia, có một số người tại gia nói : "Mười hai hạnh Đầu-đà là để cho người xuất gia tu, anh nói với người tại gia chúng tôi để làm gì chứ ?"

Câu nói này mới nghe dường như rất đúng, nhưng xét kỹ lại một chút thật là quá ngu si ! Tại sao anh biết mình trước kia không phải là người tu hành, chưa từng tu hạnh Đầu-đà nhỉ ? Có thể là anh quên mất đấy, nên bây giờ tôi xin nhắc lại.

Làm sao anh biết đời sau anh không xuất gia ? Hoặc là đời sau hạt giống Bồ-đề của anh được thành thục, công đức viên mãn, anh sẽ được xuất gia ? Vào đời sau anh sẽ tu 12 hạnh Đầu-đà, cảm thấy rất quen thuộc, rất tương ưng, đó là do đời nay được nghe đến, cho nên đời sau mới rất thích thú mà tu hành. Đó cũng là do quá khứ gieo trồng nhơn lành nên đời nay kết được quả lành này. Hoặc là đời nay gieo trồng nhơn lành này, đời sau kết được quả lành kia. Ai dám chắc mình mãi mãi là người tại gia. Ai dám chắc mình mãi mãi không là người xuất gia. Ai cũng không thể nói mình mãi mãi là phàm phu.

 

Ma-ha Ca-chiên-diên. Ma-ha, đã giải ở trên. Ca-chiên-diên là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Văn Sức. Vị Tôn giả này khéo trau chuốt văn từ, khéo về luận nghị, được khen là luận nghị bậc nhất. Vị Tôn giả này nghị luận với bất cứ ai thì nhứt định được thắng lợi. Có một lần Tôn giả biện luận với vị ngoại đạo chấp đoạn thường, ngoại đạo hỏi : "Phật giáo nói có 6 nẻo luân hồi, tôi thấy lý luận này không đúng, ông nói người chết rồi trở lại làm người, nhưng tôi chưa thấy ai chết rồi lại trở về nhà báo tin cả. Thế thì ông làm sao biết người chết rồi lại sanh trở lại làm người ư ? Điều này không có căn cứ. Tôi cho rằng người ta chết rồi giống như là ngọn đèn tắt, không có đời sau. Người có đời sau, chỉ là một thứ tưởng tượng, đó là một thứ giả thiết của người ta mà thôi".

Tôn giả nghe rồi mới nói với ông ngoại đạo rằng : "Người chết rồi có thể trở về hay không, trước đây tôi đâu có trả lời điều đó. Tôi trước hãy hỏi ông : Người phạm tội bị chính phủ bắt cầm tù, người ấy có tự ý trở về nhà được không ? Người ấy có được tự do không ?"

Ngoại đạo đáp : "Đương nhiên là không có tự do, không thể tùy ý trở về nhà rồi".

Tôn giả nói : "Thế thì người chết rồi, vào địa ngục, cũng giống như người phạm tội bị bắt cầm tù, không thể tự do trở về được".

Ngoại đạo nghe xong, nói : "Điều này rất có lý ! Người ta vào địa ngục thì không tự do rồi; nhưng nếu người ấy sanh lên trời thì rất tự do, tại sao cũng không thấy có ai sanh lên trời rồi lại trở về nhà báo cho gia đình biết để khỏi phải lo ? Vì thế lý luận người chết rồi sanh lên trời cũng không đứng vững".

Tôn giả Ca-chiên-diên đáp : "Ông nói cũng rất có lý đấy. Tôi xin lại đưa một thí dụ : Ví như có người bất cẩn lọt vào hố xí (ngày xưa hố xí không giống với nhà xí bây giờ, người ta đào xuống đất một cái hố lớn, bên trên gác một miếng ván, người ta ngồi trên miếng ván mà đại tiểu tiện. Miếng ván ấy hoặc là bị mục gãy, người ta không cẩn thận bị rớt xuống đó), chẳng dễ gì sau khi ra khỏi hố xí rồi lại chịu nhảy vào nữa sao ? Người ta ở thế gian này có khác nào trong hố xí, được sanh lên cõi trời giống như ra khỏi hố xí, vì thế nên không trở về nữa. Giả như người này từ trên trời lại trở về, cũng phải trải qua một thời gian dài, vì một ngày đêm trên cõi trời Tứ thiên vương bằng 50 năm ở nhơn gian, một ngày đêm ở cõi trời thứ 38 (trời Đao Lợi) thì bằng 100 năm ở nhơn gian, một ngày đêm ở trời Dạ Ma bằng 200 năm ở nhơn gian. Ví như có người sanh lên trời rồi, trước phải an bài chỗ ở. Chỗ ở an bài ổn thỏa xong phải mất đi một hoặc hai ngày, nếu như ngày thứ ba lại trở về thì đã quá 300 năm rồi. Lúc đó ông đã chết mất tiêu nên không thấy được có người từ trên trời trở về".

Cũng giống như thế, ngài Ma-ha Ca-chiên-diên biện tài vô ngại. Mỗi lần tranh biện đều thắng ngoại đạo chấp đoạn, chấp thường, khiến cho người ấy tâm phục, khẩu phục mà tiếp nhận sự giáo hóa của Phật. Vị Tôn giả này còn có một tên là Phiến Thằng, vì khi ông ra đời không bao lâu, cha ông mất đi, bà mẹ muốn cải giá, nhưng vì có dứa bé giống như sợi dây níu bà lại không đi được. Ngài còn có một tên là Hảo Kiên, vì hai vai ngài nở nang phi thường, nhìn rất đẹp mắt. Ngài lại còn một tên là Tư Thắng. Tên này bắt nguồn từ tư tưởng linh lợi, biện tài vô ngại của ngài. Vì ngài có đầy đủ bốn thứ vô ngại biện tài nên trong hàng đại đệ tử của Phật được tôn xưng là nghị luận bậc nhất.

Bốn biện tài vô ngại là :

1. Pháp vô ngại biện : Tức là biện tài thông đạt tên gọi các pháp, phân biệt không vướng mắc.

2. Nghĩa vô ngại biện : Biện tài rõ biết lý của các pháp, thông suốt không ngăn ngại.

3. Từ vô ngại biện : Biện tài thông hiểu các thứ ngôn từ, tùy ý diễn nói.

4. Nhạo thuyết vô ngại biện : Biện nói nghĩa của các pháp, viên dung không vướng mắc, giảng nói cho chúng sanh một cách tự tại.

Ma-ha Câu-hy-la, ngài là cậu của Tôn giả Xá-lợi-phất. Cáu-hy-la là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đại Tất (vì là người đầu gối lớn ở ltrong nhà cho nên gọi là Đại Tất). Ngài là người giỏi biện luận, do muốn luận thắng cháu mình nên ngài đến Ấn Độ học kỹ thuật biện luận và học các thứ pháp của ngoại dạo, đến nỗi không có thời gian để cắt móng tay, vì thế móng tay ra rất dài, người ta mới gọi ngài là Trường trảo Phạm chí.

Ly-bà-đa, Trung Hoa dịch là Phòng Tú, là ngôi sao thứ tư trong Nhị thập bát tú.

Tại sao ngài có tên là Phòng Tú ? Vì ngài là đứa con do cha mẹ cầu đảo nơi sao Phòng Tú mà sanh ra cho nên lấy tên sao đặt tên ngài. Vị Tôn giả này còn có một tên, dịch ý là "Giả Hòa Hợp". Tại sao gọi là Giả Hòa Hợp ? Bởi vì một hôm Tôn giả đi dạo chơi ở bên ngoài, không ngờ trời lại tối, trở về nhà không kịp nữa. Vì đi dạo một ngày rất là mệt mỏi, ngài bỗng gặp một cái nhà tạm nghỉ ở bên đường, liền vào đó nghỉ qua đêm. Đương lúc ngài thiu thiu ngủ, có hai con quỷ một lớn một nhỏ, quỷ lớn thân hình rất to, mặt xanh môi dỏ, răng nanh to như ngà voi chỉa ra ngoài chiếc miệng rộng hoác, xấu xí phi thường. Còn con quỷ nhỏ lại càng xấu hơn, mặt mũi gần như gom lại một chỗ : Mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng gần như sát lại làm một, thật là khó nhìn. Con quỷ lớn ấy vác một cái thây ma đến hỏi ngài Ly-bà-đa : "Hai đứa tôi ăn cái thây ma này được không ?"

Nếu ngài Ly-bà-đa nói "Được", thì hai con quỷ sẽ nói : "Chúng tôi chỉ muốn ăn thịt ông thôi".

Nếu như nói "Không dược", thì hai con quỷ không ăn cái gì ấy cũng chỉ đòi ăn thịt ngài thôi.

Không luận là ngài nói như thế nào, hai con quỷ cũng đều muốn ăn thịt ngài cả, vì thế ngài không trả lời vấn đề ăn được hay không. Tiếp theo, con quỷ lớn xé ăn cặp đùi của thây ma. Con quỷ nhỏ bèn rứt cặp đùi của ngài Ly-bà-đa đem ráp vào thân thây ma ấy. Ăn xong cặp đùi, con quỷ lớn lại ăn tiếp hai cánh tay. Con quỷ nhỏ lại rứt hai cánh tay của ngài Ly-bà-đa đem ráp vào thây ma. Cứ theo đà đó, con quỷ lớn lại lần lần xơi hết cả khúc mình của thây ma và con quỷ nhỏ lại đem khúc mình của ngài Ly-bà-đa ráp thế vào đó. Vì thế ngài Ly-bà-đa mới nghĩ rằng : "Bây giờ ta không còn thân thể nữa, vì toàn bộ thân thể đã ráp vào thây chết rồi". Ngày thứ hai, ngài Ly-bà-đa phát điên chạy tràn trên đường, gặp ai cũng nói : "Tôi không có thân thể nữa sao ?" Người ta không biết là ngài hỏi cái gì ? Rốt cuộc cả thôn xóm đều không dám gặp ngài, nhưng ngài cứ tiếp tục hỏi nữa. Về sau gặp hai vị Hòa thượng, ngài cũng hỏi :"Tôi có thân thể không ?" Hai vị Sa-môn này là người đã chứng quả A-la-hán, thấy nhơn duyên của ngài Ly-bà-đa đã thành thục, hôm sau sẽ chứng được Pháp thân, bèn trả lời rằng : "Thân thể mà ông nói vốn là nhơn duyên hòa hợp, cũng không có cái nào là ông, cũng không có cái nào chẳng phải là ông". Câu nói ấy làm cho ngài khai ngộ và xuất gia chứng quả, nên tên của ngài là Giả Hòa Hợp.

Châu-lợi-bàn-đà-già (Tiểu Địa Đạo) cùng với Bàn-đà-già (Địa Đạo) là hai anh em. Anh sanh ở bên đường, em cũng sanh ở bên đường, cho nên mới có tên này. Theo phong tục Ấn Độ, người con gái sau khi kết hôn, khi sắp sanh nở phải trở về nhà cha mẹ. Người anh có tên là Địa Đạo, vì lúc bà mẹ sắp sanh, đáng lẽ phải về nhà sớm một tí, nhưng bà ta không chịu về. Tới giờ phút chót, đứa bé sắp sanh ra bà mới chịu trở về, kết quả là chưa tới được nhà bà đã sanh đứa bé dọc đường, cho nên đặt tên là Địa Đạo, tức là nghĩa Con đường. Đến khi sắp sanh đứa bé thứ hai, bà vẫn không chịu về nhà sớm, đến phút chót mới chịu trở về, kết quả cũng như trước, đứa bé lại được sanh ở nửa đường, cho nên đặt tên là Tiểu Địa Đạo. Anh sanh ra như thế nào thì em cũng sanh ra đúng như thế đó, cách sanh thì giống nhau, nhưng trí huệ thì lại khác nhau xa. Người anh thì thông minh tuyệt đỉnh, còn người em thì ngu si quá mức. Ngu si đến cỡ nào ? Ngu si đến nỗi nửa bài kệ học cũng không thuộc. Phật bảo 500 vị La-hán dạy cho ông một bài kệ :

 

Gíữ miệng, nhíếp tâm, thân không phạm,

Chớ hại tất cả loài hữu tình,

Khổ hạnh vô ích nên xa lánh,

Hành giả như thế mới độ sanh.

Giữ miệng, nhiếp tâm ý không cho buông lung, thân không phạm giới, đó là giữ ba nghiệp thanh tịnh. Đối với bất cứ chúng sanh nào cũng không nên làm cho họ sanh phiền não, là chẳng nên để họ vì mình mà sanh phiền não. Khổ hạnh không hợp pháp như giữ giới trâu, bắt chước theo trâu; giữ giới chó, bắt chước theo chó; lại có ngoại đạo thờ lửa, cho lửa là Tổ sư của họ; ngoại đạo thờ tro, khi ngủ thì vào đống tro, trên mình trét dầy tro; ngoại đạo thờ đinh, nằm trên đống đinh, mũi đinh đâm không nát thân thể của họ, hoặc là ngồi trên ván đóng đinh, dầu là đau khổ khó chịu, nhưng vẫn thực hành. Những loại kể trên gọi là khổ hạnh vô ích đều phải xa lìa. Người tu hành được như thế mới có thể giáo hóa chúng sanh.

Năm trăm vị La-hán mỗi ngày thay phiên nhau dạy Châu-lợi-bàn-đà-già học bài kệ tụng này, học rất lâu mà ông vẫn không thuộc. Dù 500 vị La-hán đều có thần thông dạy ông đọc 1 lần, 2 lần, 3 lần, 4 lần, 5 lần, 6 lần ..., dạy rồi hỏi ông, ông lại cũng không biết. Một lượt như vậy lại một lượt nữa, khi hỏi lại, ông cũng không nhớ. Vì thế người anh ông nổi giận mới bảo ông hoàn tục, không nên đi tu nữa. Nhưng Tiểu Địa Đạo trí nhớ quá kém cỏi mà tánh khí giận hờn lại quá lớn, mới nói với anh rằng : "Anh không cho tôi xuất gia thì tôi chết cho anh xem !" Nhơn đó ông ra sau vườn hoa định treo cổ. Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni biến thành vị Thọ thần, nói với ông : "Anh là phần anh, còn ông ở đây tu hành có sao đâu".

Tiểu Địa Đạo nghe nói nghĩ thầm : "Phải dấy ! Anh là anh, ta là ta".

Đức Phật lại nói : "Bây giờ ta dạy ông một câu Chửu tảo, tức là quét đất, quét tâm của ông, quét sạch những bụi bặm trong tâm của ông".

Tiểu Địa Đạo nghe nói nghĩ thầm : "Phải đó ! Quét những bụi dơ trong tâm mình cho sạch sẽ hết". Tuy nhiên, ông nhớ được chữ Chửu thì quên mất chữ Tảo; nhớ được chữ Tảo lại quên mất chữ Chửu; giống như chúng ta niệm Phật, càng niệm vọng tưởng càng nhiều. Nhưng ông ta là người gắng sức không biếng lười, từ sáng tới chiều "Chửu tảo" quét tâm mình. Niệm tới niệm lui mãi, không đầy một tuần lễ, được hoát nhiên khai ngộ. Một khi đã khai ngộ thì cái gì cũng rõ biết hết, thông đạt được Thật tướng các pháp, so với anh ông thì ông thông minh gấp nhiều lần. Cho nên người ngu si chỉ cần dụng công tu hành thì ai cũng có thể khai ngộ được.

Có người nói : "Xem kinh điển không hiểu thì không cần xem kinh điển làm chi, chỉ xem tâm thôi". Thế nào gọi là xem tâm ? Xem tâm chính là quét sạch hết những vọng tưởng trong tâm mình. Hiện tại chúng ta đều thông minh hơn Châu-lợi-bàn-đà-già, vì thế chúng ta không nên hủy hoại thân mình, chẳng nên xem thường mình, nên phải dụng công tu học Phật pháp. Không như thế, dù cho tôi nói pháp cho các vị hay cách mấy đi nữa mà các vị không tin, không thực hành, thì nói nhiều cũng vô ích. Nhưng nếu tôi nói pháp thật tầm thường mà quý vị cố gắng thực hành, cũng có thể biến thành ra diệu pháp. Diệu pháp mà không thực hành thì chẳng phải là diệu pháp; chẳng phải diệu pháp mà chịu thực hành cũng trở thành diệu pháp. Cho nên người học Phật pháp phải luôn luôn tinh tấn hướng về phía trước, chớ nên lùi bước hoặc biếng lười. Luôn luôn tinh tấn như thế thì một ngày kia sẽ nhận biết được Chân diện mục sẵn có của chính mình.

 

Nan-đà. Tôn giả Nan-dà là em của Phật (em cùng cha khác mẹ), sanh vào ngày mùng 9 tháng 4, Phật thì sanh vào ngày mùng 8 tháng 4, ông sanh sau Phật một năm, kém Phật một tuổi. Phật có 32 tướng, Nan-đà chỉ có 30 tướng và thấp hơn Phật 4 lóng tay. Nan-đà là tiếng Phạn, dịch là Hỷ, cho nên gọi là Hỷ tôn giả. Đó là tên riêng của ông. Có kinh điển ghép tên ông với vợ mà gọi là Tôn-đà-la Nan-đà. Tôn-đà-la cũng là tiếng Phạn, dịch là Hảo ái. Tôn-đà-la Nan-đà là nói vị Nan-đà này là của Tôn-đà-la. Đó là nói ông Nan-đà rất yêu vợ của mình. Hai người có thể nói là gắn như keo sơn, mỗi ngày đều ở chung một chỗ, đi đứng nằm ngồi không rời nhau một khắc. Một hôm Phật đến Vương cung khất thực hóa duyên, lúc ấy vợ chồng Tôn-đà-la Nan-đà đang ăn cơm. Khi thấy Phật đến khất thực, Nan-đà bèn sớt bát bằng cách cầm bát sớt thêm cơm và thức ăn lên trên. Ông đem bình bát của Phật ra với đầy ắp cơm và thức ăn, khi ông sắp đưa bát lại cho Phật thì vợ ông nói : "Bây giờ tôi nhổ một bãi đàm trên đất, anh phải trở về trước khi đàm khô, nếu không tôi sẽ phạt anh đấy". Nan-đà nói : "Được mà !"

Nhưng khi ông sắp đưa bình bát cho Phật, Phật dùng thần thông lui lại sau, Nan-đà thì vẫn bước tới trước, từng bước từng bước đi đến Kỳ Hoàn tinh xá. Thực ra Vương cung cách vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc hơn 5 dặm, nhưng Phật dùng thần thông đưa ông về tinh xá, rồi bảo ông cạo tóc ngay, ép ông xuất gia. Vì ông không bỏ được cô vợ của mình nên không muốn xuất gia. Nhưng vì Phật là anh của ông nên ông đâu dám không nghe lời. Ông nghĩ thầm : "Hôm nay mình xuống tóc, bữa khác mình sẽ chạy trở về". Vì thế ông luôn luôn rình chờ cơ hội, nhưng hôm nay chờ, ngày mai chờ, chờ hoài chờ mãi mà cơ hội không đến, vì Phật và các vị La-hán đều luôn có mặt ở tinh xá Kỳ Hoàn. Do đó ông càng bồn chồn thêm. Một hôm Phật cùng các vị La-hán đều đi ra ngoài thọ trai, chỉ còn lại Nan-đà ở giữ tinh xá. Ông nghĩ bụng : "Hôm nay mình có cơ hội rồi đây". Nhưng trước khi đi Phật bảo ông quét nhà, ông gom rác lại một chỗ, bỗng một trận gió thổi đến, rác lại bay tứ tung. Vì thế ông đóng hết các cửa lại, nhưng đóng cửa này xong thì cửa kia lại mở ra. Cứ như thế, quét tới quét lui, đóng đi đóng lại mãi, qua 2 - 3 tiếng đồng hồ vẫn chưa xong. Thấy Phật sắp về, ông nghĩ bụng : "Bất luận Phật có về hay không, mình nhứt định phải chạy về". Ông lại nghĩ tiếp : "Phật chỉ đi theo đường lớn, không đi theo đường nhỏ đâu, mình nên theo dường nhỏ mà chạy là thượng sách".

Thế rồi ông bỏ tinh xá theo đường nhỏ chạy về, chạy một mạch đến 2 dặm, thấy Phật từ đầu kia đi lại, ông bèn núp vào sau một thân cây lớn, định chờ Phật đi qua sẽ chạy tiếp. Nào ngờ, ông định chạy qua bên này, lại thấy Phật đến từ hướng đó; cứ thế quanh qua tránh lại một hồi Phật thấy ông liền hỏi : "Tại sao ông không giữ nhà mà làm gì ở đây ?" Nan-đà nghĩ bụng : "Ta đâu có thể nói muốn về nhà được", bèn thưa : "Con chờ hoài chờ mãi, chờ Phật trở về không được nên con ra đây đón, vì sợ Phật cầm báùt không nổi".

Phật nói : "Chú em này thiệt là tốt quá". Nhơn đó Phật lại đưa ông trở về tinh xá Kỳ Hoàn. Trở về tinh xá, Phật biết ông vẫn không muốn xuất gia nên một hôm Phật nói với ông : "Nan-đà, ta với ông cùng lên núi chơi nhé !"

- Thưa vâng ! Nan-đà đáp và nghĩ thầm : "Bận lên núi này mình có cơ hội trốn rồi đây".

Trên núi có rất nhiều khỉ, ước chừng 5 - 600 con. Phật hỏi Nan-đà : "Này Nan-đà ! Con khỉ này so với vợ ông, ai đẹp hơn ?"

Nan-đà nghe Phật hỏi như vậy liền đáp ngay : "Đương nhiên là Tôn-đà-la đẹp hơn nhiều. Sao Phật lại đem Tôn-đà-la so sánh với bọn khỉ ấ¸y ?"

Phật khen : "Này Nan-đà, ông rất thông minh nên biết Tôn-đà-la đẹp hơn con khỉ".

Một hôm Phật lại nói với Nan-đà : "Nan-đà, ông chắc chưa lên trời, ta sẽ đưa ông đến đó nhé !"

Đức Phật cùng Nan-đà ngồi kiết già, Phật dùng thần thông đưa Nan-đà lên cõi trời. Lên đến cõi trời, thấy người trên đó đẹp hơn người nhơn gian gấp mấy vạn lần, nhất là Thiên nữ lại càng đẹp đẽ hơn. Đi đến một Thiên cung có 500 vị Thiên nữ đang trang hoàng nhà cửa. Nan-đà nhìn thấy những Thiên nữ này thật là đẹp đẽ chưa thấy bao giờ bèn sanh tâm luyến ái, ông hỏi một vị cung nhơn : "Cung trời này sao không có chủ nhơn ?" Vị cung nhơn ấy đáp : "Chủ nhơn của chúng tôi chưa đến. Ông ta là em của Phật, hiện đang xuất gia tu hành theo Phật. Đợi dến khi mãn đời, ông ta sẽ sanh về đây; 500 vị Thiên nữ này đều là vợ của ông ta cả".

Nan-đà nghe nói nghĩ bụng : "Ta nên gấp rút tu tập, không cần phải trở về nhà nữa". Bấy giờ Đức Phật hỏi ông : "Những Thiên nữ này có đẹp không ? So với Tôn-đà-la ai đẹp hơn ? "

Nan-đà thưa : "Tôn-đà-la làm sao mà sánh được với các Thiên nữ này ! Sắc đẹp của Tôn-đà-la so sánh với các Thiên nữ không khác nào đem sắc đẹp của con khỉ cái so sánh với sắc đẹp của Tôn-đà-la".

Đức Phật nói : "Vậy thì ông muốn Thiên nữ hay muốn Tôn-đà-la ?"

Nan-đà thưa : "Đương nhiên là con muốn Thiên nữ. Thiên nữ thiệt là đẹp đẽ vô song !"

Đức Phật nói : "Nếu muốn sanh về đây, thì khi trở về ông phải cố sức tu hành đi".

Vì thế khi trở về Nan-đà ngày đêm ngồi thiền dụng công rất tinh tấn. Nan-đà sớm tối tọa thiền, một lòng muốn làm Thiên chủ. Phật biết rằng phước trời hữu lậu, hưởng hết rồi sẽ đọa lạc vào ác đạo, muốn nhắc nhở ông để ông thấy rõ ý tưởng của mình không đúng, vì thế Phật mới đưa ông xuống địa ngục, cho xem núi đao rừng kiếm vạc lửa băng lạnh các thứ cảnh ngục ... Sau cùng đến một cảnh địa ngục có hai con quỷ đang nấu chảo dầu. Dầu chưa nóng sôi, mà hai con quỷ này rất lười, một con đương chụm lửa, một con đương nằm ngủ. Lửa chụm vạc dầu cháy cháy tắt tắt. Nan-đà lấy làm lạ, cảm thấy hai con quỷ này cứ chụm như thế, dầu trong vạc kia bao giờ mới sôi được ? Ông mới hỏi hai con quỷ đó : "Này, hai chú làm biếng quá, không đốt cháy mạnh lên, lửa cứ tắt hoài, hai chú làm đến bao giờ mới xong việc ?"

Hai con quỷ trợn mắt nhìn một hồi mới nói : "Ông để ý chuyện này làm chi ? Bọn tôi có gì phải gấp. Người tôi đợi vẫn chưa đến mà ! Chờ lâu lắm mới đến kia ! Bọn tôi hãy còn rảnh chán".

Nan-đà lại hỏi : "Mấy chú chờ ai vậy ?"

Hai con quỷ nói : "Ông muốn biết à ? Bọn tôi nói cho ông biết : Người bọn tôi đợi là Nan-đà, em của Phật Thích Ca đấy ! Ông ta theo Phật xuất gia tu hành mà lòng cứ mong hưởng phước trời với 500 Thiên nữ mãi. Ông ta sẽ sanh lên trời, ở đó từ 500 đến 1.000 năm. Sau đó ông ta quên việc tu hành lại tạo rất nhiều tội nghiệp. Khi ác nghiệp của ông ta dẫy đầy, ông ta sẽ đọa vào địa ngục này chịu tội nấu dầu".

Nan-đà nghe nói rởn cả gai óc, đổ mồ hôi hột, nghĩ thầm : "Chà, khổ như thế này làm sao chịu nổi !"

Bấy giờ ông không còn muốn tu để sanh lên trời nữa, mà quyết tâm dứt hết sanh tử, không bao lâu ông liền chứng được quả vị A-la-hán.

Tướng mạo của Nan-đà rất là đẹp đẽ. Phật có 32 tướng tốt, ông có 30 tướng. Nếu có người chưa quen biết Phật, có thể lầm cho ông là Phật. Có một lần, hàng ngoại đạo lõa thể - không khác nhóm Hippy bây giờ, trai gái đều không hề mặc quần áo. Họ cho rằng hình thể thiên nhiên mới là Bản lai diện mục, tại sao phải mang thêm vào cái lớp giả bên ngoài ? Cần gì phải mặc quần áo chứ ? Đó là cách tuyên truyền của phái ngoại đạo lõa thể ở Ấn Độ lúc bấy giờ. Những người ngoại đạo này đến tìm Xá-lợi-phất để biện luận, ngài Xá-lợi-phất dù không cao lớn nhưng lại rất thông minh, mỗi khi ngài mở miệng trình bày đều rành rẽ thấu đáo, khiến cho những người ngoại đạo này phải câm miệng hết, không nói được lời nào, mọi lý do của họ đưa ra đều không đứng vững. Sau đó, những người ngoại đạo này nhìn thấy ngài Nan-đà cao lớn đẹp đẽ, bèn nói : "Cả đến ông Tỳ-kheo nhỏ người (chỉ Xá-/ợi-phất) bọn ta còn nói không lại thì làm sao địch nổi vị Tỳ-kheo cao lớn đẹp đẽ kia được !" Vì thế những người ngoại dạo lõa thể này đều bái ngài Nan-đà làm thầy của họ và quy y chánh pháp xuất gia tu hành. Từ đó về sau trong bọn những người này có nhiều vị thành tựu rất cao. Đó là câu chuyện ngài Nan-đà vì thích 500 Thiên nữ mà bỏ vợ nhà, một lòng nghĩ tưởng đến việc sanh Thiên quốc; về sau lại sợ đọa địa ngục mà cố gắng tu hành. Ngài do Phật giáo hóa và cuối cùng tu thành Chánh giác.

A-nan-đà. Tôn giả A-nan là em chú bác của Phật. A-nan-dà là tiếng Phạn, dịch là Khánh Hỷ, vì ngài ra đời đúng vào ngày Phật thành đạo. Khi Phật chứng quả, mọi người đều vui mừng, cho nên cha ngài lấy điều khánh hỷ đặt tên cho ngài.

Trong hàng các đệ tử thì Tôn giả A-nan là người đa văn bậc nhất. Những kinh điển Phật nói ra đều do ngài A-nan kiết tập mà thành; những pháp mà Phật nói ra, Tôn giả A-nan đều ghi nhớ rất rõ ràng, mãi mãi không quên sót. Tôn giả A-nan chẳng những có sức ghi nhớ phi thường mà định lực của ngài cũng không kém. Ngài có tám thứ cảnh giới bất khả tư nghì :

 

1. Không thọ thỉnh riêng. Sao gọi là thỉnh riêng ? Tức là một người trong chúng tăng đơn độc đến nhà một thí chủ nào đó để tiếp nhận cúng dường. Trong Kinh Lăng Nghiêm từng thuật lại việc ngài A-nan tiếp nhận thỉnh riêng mà gặp phải Ma-đăng-già nữ trước hết dùng chú thuật của Phạm thiên sai sử ngài, suýt nữa mất cả đạo hạnh. Sau khi Phật nói chú Lăng Nghiêm, sai Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đem thần chú này cứu ngài A-nan về. Từ đó về sau ngài không còn dám thọ thỉnh riêng. Lần trước, sau khi được giáo huấn, ngài không muốn lại còn có những việc tương tự như thế trong luật, Phật dạy : "Bất cứ Tỳ-kheo nào cũng không được thọ thỉnh riêng". Thí dụ : Có mười vị Tỳ-kheo, có vị cư sĩ đặc biệt thích một vị trong số đó và chỉ thỉnh một vị ấ¸y đi ứng cúng, việc ấy không thể được. Trái lại, cả mười người cùng đi ứng cúng thì được cho phép. Ngài A-nan nhơn vì trước đây thọ thỉnh riêng mà gặp phải việc đáng tiếc, nên sau đó không tiếp nhận bất cứ việc thỉnh riêng nào khác. Đó cũng là một thứ cảnh giới bất khả tư nghì.

 

2. Không nhận y cũ của Phật. Có một số Tỳ-kheo đều muốn giành nhau mặc y cũ của Phật, vì họ cho rằng đắp mặc y cũ của Phật có thể sanh trí huệ, diệt tội nghiệp, kỳ thực đó đều là biểu hiện một thứ tâm tham. Tôn giả A-nan thì không chịu đắp mặc y cũ của Phật. Đó là thứ cảnh giới bất tư nghì thứ hai của ngài.

 

3. Không gặp mặt phi thời. Tức là lúc không đáng thăm thì ngài không thăm, lúc đáng thăm thì ngài mới thăm hỏi. Tức là hợp với quy củ mới thăm viếng, không hợp với quy củ thì không thăm viếng.

 

4. Không sanh tâm nhiễm. Tôn giả A-nan theo Phật lên trời, đến Long cung, hoặc cung điện A-tu-la, thấy rất nhiều Thiên nữ, A-tu-la nữ và Long nữ, tất cả đều đẹp đẽ vô song, nhưng ngài chưa bao giờ có sanh tâm dâm dục, nên nói rằng không sanh tâm nhiễm.

 

5. Biết cảnh định của Phật. Tôn giả A-nan biết Phật nhập vào định gì mà các Tỳ-kheo khác đều không biết được. Đó là cảnh giới bất tư nghì thứ năm.

 

6. Biết chúng sanh nghe pháp được lợi ích như thế nào. Tôn giả A-nan biết Phật ở trong định giáo hóa tất cả chúng sanh và tất cả chúng sanh được những lợi ích gì ngài đều biết rõ.

 

7. Hiểu rõ pháp Phật. Tôn giả A-nan hoàn toàn hiểu rõ tất cả pháp Phật nói. Đây là cảnh giới bất tư nghì thứ bảy của ngài.

 

8. Nghe pháp không hỏi lại. Tôn giả A-nan nghe qua pháp Phật rồi ghi nhớ mãi mãi không cần phải thưa bỏi lại.

Đó là Tôn giả A-nan có tám cảnh giới bất tư nghì mà các Tôn giả khác không có được

Nói đến "không thọ thỉnh riêng", người xuất gia khi còn làm Sa-di thì không thể muốn ăn thì ăn, muốn uống thì uống được, mà cần phải cùng với đại chúng đồng thời ăn dùng, không thể đơn độc ăn uống riêng biệt được. Các vị Tỳ-kheo cũng không thể ở chung mà ăn riêng. Giả sử như uống trà cũng không thể hưởng dùng một mình. Đại chúng cùng ở một chỗ, không thể làm ra kiểu riêng rẽ được, thậm chí ăn một trái táo, một trái quít, hoặc một thẻ đường cũng đều không được. Lúc ngồi tham thiền cũng không nên quấy rối người khác, chẳng nên gây ra tiếng động làm phiền người. Xưa nay ngồi thiền, sau khi gõ ba tiếng chỉ tịnh rồi, đừng nói là người không được bước đi động đậy, mà ngay cả Bồ-tát Vi Đà cũng phải đứng yên một chỗ không được động đậy nữa, còn các vị Bồ-tát khác thì ở đâu ở đó không được nhúc nhích. Tại sao thế ? Vì nếu anh cử động sẽ khiến cho công phu của người khác không được tương ưng chẳng thể nhập định được, thì anh sẽ tội lỗi vô lượng. Vì thế có câu : "Thà quậy nước ngàn sông, đừng quấy kẻ tu hành". Nước của ngàn con sông, anh có thể quậy đục cả; nhưng tâm niệm của người tu hành thì không nên tùy tiện quấy phá họ. Vì thế nên khi ngồi tĩnh tọa, sau ba tiếng kiểng chỉ tịnh cho đến trước khi xả tịnh thì không nên tùy tiện di chuyển cử động. Nếu có việc cần kíp cũng nên đi đứng nhẹ nhàng, không gây ra một tiếng động nào cả. Ví như muốn dời đệm ngồi phải nhẹ nhàng cầm cái đệm lên, không nên làm mạnh tay mạnh chân phát ra tiếng lớn. Nếu như ở nơi việc đó không tự kiểm điểm chính mình thì sẽ tạo tội vô lượng. Cho nên Phật dạy các thầy Tỳ-kheo, Sa-di đều không nên thọ thỉnh riêng, cũng không nên ăn biệt chúng. Bất cứ chuyện gì không hòa hợp với mọi người đều không hợp với quy củ. Trước kia không biết mà phạm lỗi thì có thể tha thứ được; từ nay về sau đã biết thì không nên tái phạm nữa ! Ngoài ra, các Tỳ-kheo và Sa-di, lúc chiều tối mọi người đều ngủ nghỉ hết, cũng không được tùy tiện ra ngoài đường đi lung tung; phải thường theo chúng tăng, nương theo Phật mà ở, không thể hành động riêng rẽ được.

 

La-hầu-la là con của Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi Phật còn là Thái tử, phụ thân ngài là vua Tịnh Phạn sợ e ngài đi xuất gia nên cưới vợ cho ngài rất sớm. Người vợ đó là Da-du-đà-la. Năm Phật 19 tuổi, trước khi xuất gia, người vợ xin ngài một đứa con, lúc bấy giờ Phật lấy tay chỉ một cái, bà bèn có mang. Phật ngồi tu 6 năm ở núi Tuyết mà đứa con ngài 6 năm vẫn còn trong bụng mẹ, vì thế La-hầu-la có nghĩa là Phú Chướng. Bởi vì đời trước La-hầu-la từng bít hang con chuột 6 ngày nên nay phải chịu quả báo khiến cho ngài phải ở trong thai mẹ 6 năm. Ngài sinh ra đời đem lại cho mẹ mình khá nhiều phiền phức. Bởi vì vua Tịnh Phạn và một số người trong giòng dõi họ Thích đều không ưa việc này, họ nói : "Chồng bà xa nhà quá lâu, bà làm sao mà sanh con được ư ? Nhất định là bà không giữ tròn bổn phận làm vợ, dẫn dụ tình nhơn quan hệ, mới có thể sanh đứa bé được. Chẳng thế mà tại sao chồng đi xuất gia 6 năm rồi bà mới sanh đứa bé ?" Cả giòngï họ Thích Ca đều mắng nhiếc bà là người không thủ tiết. Chỉ có một người nữ bộc cật lực biện hộ cho bà, nói rằng bà giữ đúng quy củ phi thường, chưa hề ra khỏi cổng một bước, và đứa bé ấy chắc chắn là thịt xương của Thái tử ! Nhưng ai chịu tin lời của người nữ bộc ấy. Có người chủ trương giết chết bà ta, có người muốn đánh chết bà, bàn tán lăng xăng. Sau cùng mọi người quyết định đem bà cùng đứa bé thiêu sống. Bấy giờ là thời đại chuyên chế, quyền lực của nhà vua rất lớn. Người ta đào một cái hầm, ở giữa đốt một đống lửa lớn, chuẩn bị xô mẹ con bà xuống dưới. Lúc ấy bà Da-du-đà-la phát thệ rằng : "Hỡi các vị Thiên thần Địa kỳ, xin hiển linh chứng giám ! Nếu đứa bé này là con của Thái tử Tất-đạt-đa thì hai mẹ con tôi không thể nào bị đốt chết được ? Nếu như không phải là con của Thái tử thì mẹ con tôi sẽ bị chết trong đống lửa này". Nói xong, bà ôm con nhảy vào đống lửa. Nào ngờ lúc đó cảnh giới bất tư nghì hiện ra : Hầm lửa bỗng nhiên biến thành ao nước, và từ trong nước mọc lên một đóa sen vàng đỡ chân hai mẹ con bà khiến cho không bị mảy may thương tật. Bấy giờ mọi người mới tin chắc đứa bé chính là con của Phật và không còn có ý nghĩ giết bà nữa. Sau khi Phật thành đạo, lúc ngài trở về Hoàng cung, bà Da-du-đà-la dắt tay con đến ra mắt Phật. Giả như không phải là con Phật, làm sao bà dám dẫn con đi gặp Phật được ? Do đó biết rằng La-hầu-la chính là con Phật.

La-hầu-la tu tập mười phần dụng công, trong hàng đại đệ tử của Phật ngài được tôn là Mật hạnh đệ nhất. Bất cứ chỗ nào ngài cũng đều dụng công cả, nhưng không ai biết ngài đang dụng công, vì ngài không có treo nhãn hiệu để mọi người đều biết ngài đang dụng công tu hành. Ngài tu hành bí mật như thế, thậm chí đang trong nhà xí ngài cũng nhập định; bất cứ nơi đâu ngài cũng ở trong định cả, cho nên gọi là Mật hạnh đệ nhất.

Tuy La-hầu-la là con của Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng Phật không phải chỉ có một người con mà là có đến ba người :

1. Chơn tử : Chơn thật là con của Phật. Khi chúng ta đọc kinh Phật, thường thấy câu "Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử". Pháp vương tử này chính là chơn chánh con của Phật, cũng tức là tất cả Bồ-tát.

2. Nội tử : Tất cả vị La-hán dù đã ra khỏi vô minh, rõ biết lý Thiên không, nhưng chưa được lý Trung dạo của Phật, cho nên gọi là Nội tử.

Có một số người đàn ông Trung Quốc gọi vợ mình là Nội tử. Nội tử này không phải nghĩa đó.

3. Ngoại tử : Phật còn có rất nhiều ngoại tử, tức là tất cả phàm phu không biết tu hành, điên điên đảo đảo, đều là ngoại tử của Phật. Như trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói : "Chúng ta tìm không được ông cha đại từ bi của mình, đều là những cùng tử đáng thương xót". Cho nên chúng ta phải gấp rút tìm về với ông cha từ bi của mình, vào nhà của Phật, thành ra một phần tử trong ngôi nhà đó.

 

Kiều-phạm-ba-đề, có nghĩa là "Bò nhơi". Giống như là bò ăn cỏ no rồi nằm trên đất nhơi lại cỏ đã ăn. Kiều-phạm-ba-đề, tại sao gọi ngài bằng tên đó ? Đó là vì ngày xưa, trước đây nhiều kiếp lâu xa, vị Tôn giả này gặp một vị Tỳ-kheo già răng rụng hết, ăn rất chậm, nhai tới nhai lui, hèn lâu mới nuốt được một miếng, bèn nói với vị Tỳ-kheo già rằng : "Ông nhai thức ăn thật không khác nào con trâu già nhơi cỏ". Vì ngài hủy báng vị Tỳ-kheo như trâu già, cho nên sau khi chết bị phạt 500 đời làm trâu, chừng đó ngài mới thể nhận được nỗi cực khổ của kiếp làm trâu. Sau cùng ngài gặp Phật, được Phật dạy cho tu hành mà thành Chánh quả. Dù ngài đã chứng quả A-la-hán, nhưng tập khí của trâu không đổi được, suốt ngày từ sáng tới tối vẫn như trâu nhơi lại thức ăn. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rất sợ người nhơn hủy báng ngài mà bị hậu quả cho nên bảo ngài lên trời tu hành, vì thế ngài được gọi là "Thọ thiên nhơn cúng đệ nhất". Do đây nhìn lại, chúng ta ngàn muôn lần không nên chê cười người khác, nếu không thì sẽ rước lấy quả báo tai hại về sau, không mảy may sung sướng nào.

Tại nước Mỹ, lần thứ nhất có ba đàn đại giới thọ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni và Sa-di. Chúng ta tu hành như thế, giữa ngày ăn một bữa, đến Đài Loan cũng không có sửa đổi. Chúng ta giống như năm khối đá, ở đây đốt lửa một năm, đến Đài Loan cũng không bị nước dung hóa. Cho nên tôi rất mừng. Đó là thành tích lần thứ nhất đáng ghi nhớ của nước Mỹ. Ở các quốc gia Tây phương, đó cũng là lần thứ nhất. Vì từ trước đến đây ở các quốc gia Tây phương không có tổ chức thọ Tam đàn đại giới.

 

Tân-đầu-lô-pha-la-đọa, Ca-lưu-đà-di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nâu-lâu-đà và các vị đệ tử lớn như vậy nhiều nữa; cùng các vị Bồ-tát Ma-ha-tát như Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càn-đà-ha-đề Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ-tát và các vị Bồ-tát lớn nhiều như thế nữa; cùng với Thích Đề Hoàn Nhơn v.v... vô lượng chư thiên đại chúng đồng câu hội.

Tân-đầu-lô-phả-la-đọa là tiếng Phạn, dịch là Lợi Căn. Vị Tôn giả này cho đến nay vẫn còn ở trên thế giới này chớ chưa nhập Niết-bàn, cho nên ngài được coi là Phước điền bậc nhất, làm phước điền cho mọi chúng sanh. Tại sao ngài không nhập diệt ? Vì ngài phạm phải một sai lầm. Khi Phật còn tại thế, các vị A-la-hán đều có thần thông nhưng không được phép tùy tiện hiển lộ thần thông của mình. Một lần nọ, có vị Trưởng giả dựng một cây cờ, rồi đặt trên đầu cây cờ một cái bát bằng gỗ Chiên-đàn và nói rằng : "Ai có thể dùng thần thông đem bát ấy xuống tôi sẽ cho người ấy". Tôn giả Tân-đầu-lô-phả-la-đọa bèn dùng thần thông lấy bát xuống. Phật biết được liền quở trách : "Vì cái bát Chiên-đàn này mà ông mới sanh lòng tham rồi dùng thần thông lấy xuống. Tâm tham của ông như thế chẳng đáng được nhập Niết-bàn, phải ở lại thế gian mà làm phước điền cho chúng sanh". Vị Tôn giả này rốt cuộc phải ở chỗ nào trên thế gian ư ? Không ai biết được. Nhưng bất cứ ai, khi làm công tác cúng dường thì ngài sẽ đến ứng cúng để làm phước điền cho mạt thế khiến cho chúng sanh gieo phước.

 

Ca-lưu-đà-di cũng là tiếng Phạn, dịch là Hắc Quang. Vị Tôn giả này màu da rất đen nhưng trên thân lại có ánh sáng, tròng mắt cũng phóng ánh sáng, cho nên về đêm lúc đi trên đường, trên thân và tròng mắt có thể phát ra ánh sáng. Một hôm vào khoảng 7 - 8 giờ tối, ngài đi ra ngoài tản bộ, vừa đúng lúc đó có một người phụ nữ mang thai, nhơn vì đêm tối đột nhiên xuất hiện, thấy từ đôi mắt ngài và trên thân ánh sáng đen phát ra liền sợ quá chạy té, bị xẩy thai. Sau khi Phật biết tình hình này liền chế định một điều giới luật : "Tỳ-kheo, Sa-di ban đêm không được tùy tiện đi tản bộ trên đường". Cho nên người xuất gia ban đêm không nên rong chơi trên đường phố.

Tôn giả Hắc Quang này là thị giả của Phật, tức là Hộ pháp của Phật, ngài là người giáo hóa bậc nhất vì giáo hóa rất nhiều người. Những người chứng quả Thánh nhơn được ngài giáo hóa có đến hơn số ngàn.

 

Ma-ha Kiếp-tân-na là tiếng Phạn, dịch là Đại Phòng Tú, vì ngài được cha mẹ cầu đảo tinh tú mà sanh ra cho nên đặt tên là Đại Phòng Tú, cũng là 1 trong 28 vị Tinh tú. Tôn giả này là người giỏi biết về tinh tú bậc nhất, tất cả Thiên văn học ngài đọc lướt qua đều hiểu rõ.

 

Bạc-câu-la là tiếng Phạn, dịch là Thiện Dung, ngài là người có tướng mạo rất đẹp đẽ và sống lâu đến 160 tuổi, cho nên được tôn là Thọ mạng đệ nhất. Vào thời Phật Tỳ-bà-thi ở kiếp Quá khứ, có lần ngài dùng trái A-lê-ca ở Ấn Độ (vì người địa phương khác không có trái này) cúng dường một vị Bích Chi Phật (Duyên giác Thánh nhơn), cho nên thọ mạng của ngài 91 kiếp đều dài cả. Ngài lại chuyên môn trì giới Bất sát, không giết hại các loài sinh vật, thậm chí cũng không làm thương tổn đến cỏ cây. Nhơn vì trì giới Bất sát cho nên được năm thứ quả báo bất tử. Vì Tôn giả này có một thứ cảnh giới đặc biệt kỳ lạ, xưa nay con nít hễ sanh ra đều khóc, nhưng ngài sanh ra lại cười, chẳng những thế mà còn ngồi kiết già cười hề hề hà hà với mẹ nữa. Mẹ ngài thấy vậy cho là yêu quái bèn bỏ ngài vào trong lò định dùng lửa đốt chết. Đốt đến 3 - 4 tiếng đồng hồ ngài vẫn sống như thường và vẫn ngồi kiết già cười hề hề hà hà như không. Mẹ ngài càng tin chắc ngài là yêu quái, bà bèn đem bỏ ngài vào trong nồi, dùng nước nấu ngài. Qua mấy tiếng đồng hồ sau, dở nắp vung ra, vẫn thấy ngài ngồi kiết già cười hề hề như cũ. Mẹ ngài nhìn thấy cho là không xong, mới đem ngài quăng xuống biển cả, mượn nước biển dìm chết ngài. Nào ngờ dù bị ném xuống biển, nước cũng không thể dìm chết ngài được. Đúng lúc đó có một con cá lớn há miệng ra nuốt chững ngài vào trong bụng. Con cá lớn này lớ ngớ lại bị ngư ông lưới được. Ngư ông dùng dao mổ bụng cá ra, đứa bé ấy vẫn ngồi kiết già cười hề hề như cũ, cũng không bị dao làm xây xát chút nào. Năm thứ quả báo bất tử ấy là : 1/. Lửa đốt không chết, 2/. Nước nấu không chết, 3/. Nước dìm không chết, 4/. Cá ăn không chết, 5/. Dao cắt không chết.

Tại sao ngài lại được năm thứ quả báo bất tử ấy ? Vì ngài đời đời kiếp kiếp trì giới Bất sát cho nên được quả báo năm thứ bất tử và là người trường thọ bậc nhất.

 

A-nâu-lâu-đà là tiếng Phạn, dịch là Vô Bần. Nhơn duyên của ngài cũng là một công án. Vào thời Đức Phật Phất-sa, thế giới đương bị đói kém (năm mất mùa), người người không có cơm ăn, chỉ ăn gốc cỏ, lá cây. Đương thời có một vị Bích Chi Phật đi hóa duyên, hai tuần lễ ngài mới đi hóa duyên một lần, hóa duyên đủ để ăn hai tuần lễ, nếu hóa duyên không được thì hai tuần lễ đó không ăn chi hết. Lần nọ ngài xuống núi hóa duyên nhưng không gặp ai cúng dường cả, ngài định mang bát không trở về.

Trên đường về ngài gặp một người nghèo (tiền thân A-nâu-lâu-đà) đương ăn cái bánh làm bằng hạt cỏ (nó là thứ gạo kém giá trị nhất trong các loại hạt), người ấy thấy vị Bích Chi Phật mang bát không trở về bèn nói : "Vị Thánh giả này, ngài hóa duyên không được, ngài có muốn ăn bánh cỏ của tôi không ? Nếu ngài thích, tôi sẽ đem cúng dường ngài".

Vị Bích Chi Phật thấy người ấy thành tâm cúng dường mình như thế bèn tiếp nhận sự cúng dường của anh ta. Ăn xong, vị Bích Chi Phật mới vọt lên hư không hiện ra 18 thứ thần biến rồi đi. Người nghèo ấy vẫn tiếp tục cày ruộng. Không bao lâu, người ấy nhìn thấy một con thỏ chạy tới chạy lui từ trước ngực ra sau lưng mình, làm cách gì cũng không bắt được để ném đi. Người ấy cảm thấy sợ hãi quá, mà lúc đó cũng không có ai giúp đỡ anh để bắt con thỏ ra. Anh chạy về nhà thì con thỏ này đã chết, anh kêu vợ bắt con thỏ chết ra. Khi bắt thỏ ra thì thỏ chết ấy biến thành vàng. Anh ta chặt tai con thỏ đem đi bán đổi được rất nhiều tiền, tai thỏ lại dài ra như cũ. Đem chân thỏ đi bán lấy tiền, chân thỏ lại dài như cũ. Do đó cảm được quả báo 91 kiếp không bị nghèo hèn, và trong 91 kiếp này đều là người giàu có. Trong kiếp này ngài là con của vua Bạch Phạn. Vua Bạch Phạn là em vua Tịnh Phạn (cha của Đức Phật), ngài là em chú bác với Phật. Mỗi khi Phật thuyết pháp ngài hay ngủ gục. Có một hôm Phật quở ngài : "Chà, ngủ gì dữ thế ? Giống như loài ốc sên sò hến quá vậy, một giấc ngủ cả mấy ngàn năm không được nghe đến tên Phật". Ngài bị Phật quở cho một trận bèn phát tức bảy ngày đêm không ngủ. Nhơn vì không ngủ nên đôi mắt bị mù. Sau đó Phật thương xót bèn dạy cho ngài tu Kim Cang Chiếu Minh Tam-muội. Ngài tu Tam-muội này liền chứng được Thiên nhãn thông, nhìn thấy tam thiên đại thiên thế giới như thấy trái Am-ma-la trong lòng bàn tay, cho nên ngài được gọi là Thiên nhãn đệ nhất.

 

Các đệ tử lớn như vậy nhiều nữa. Như vậy, tức là chỉ ở trước từ ngài Trưởng lão Xá-lợi-phất cho đến A-nâu-lâu-đà 16 vị Tôn giả, lại còn có rất nhiều những vị đệ tử khác chưa được nói tên họ ra. Các vị đệ tử này chính là hàng đệ tử thượng thủ của Phật.

 

Và các vị Bồ-tát Ma-ha-tát, chẳng những có rất nhiều Bồ-tát mà còn có rất nhiều vị đại Bồ-tát trong số các vị Bồ-tát ấy nữa. Thế nào gọi là Bồ-tát ? - Hai chữ Bồ-tát là tiếng Phạn nói tắt, nói cho đủ phải là "Bồ-đề-tát-đỏa", dịch là Giác hữu tình, tức là làm cho tất cả chúng sanh hữu tình đều được giác ngộ. Còn có một cách nói khác, tức là một vị giác ngộ trong hàng chúng sanh. Giác là không mê. Mê là không giác. Nếu anh giác ngộ thì là Phật. Nếu anh mê thì là chúng sanh. Cho nên một niệm giác chính là một niệm Phật, một niệm mê chính là một niệm chúng sanh. Niệm niệm giác chính là niệm niệm Phật, niệm niệm mê chính là niệm niệm chúng sanh. Vì thế, Bồ-tát chính là Hữu tình giác, ở trong chúng sanh, có thể tự mình giác ngộ, mỗi ngày giác ngộ thêm một ít, chớ không phải mỗi ngày mê thêm một ít, cho nên gọi là Bồ-tát. Các vị ấy đều là những vị đại Bồ-tát đã giác ngộ sắp đến bậc viên mãn.

 

Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử... Văn-thù-sư-lợi còn gọi là Mạn-thù-sư-lợi. Đó là do đọc âm trại mà có sự sai khác. Mạn-thù-sư-lợi là tiếng Phạn, dịch là Diệu Cát hay Diệu Đức. Vị Bồ-tát này là người có trí huệ hơn hết trong hàng Bồ-tát. Bồ-tát dịch là Giác hữu tình, là một người giác ngộ trong chúng sanh; chúng sanh là mê hữu tình, chúng ta đây là một thứ mê muội trong loài hữu tình. Giác ngộ chính là giác ngộ tất cả cảnh giới trước mặt, có câu nói thế này : "Thấy việc, biết việc, ra thế gian". Thấy việc gì có thể giác ngộ được tất cả cảnh giới thì có thể ra khỏi thế gian. Còn thấy việc gì lại mê hoặc trên cảnh giới ấy thì sẽ đọa vào trầm luân. Ra khỏi thế gian chính là Bồ-tát, đọa lạc trầm luân chính là chúng sanh. Chỗ khác nhau giữa chúng sanh và Bồ-tát chính là mê và giác mà thôi. Cho nên Phật là người giác ngộ, tức là người giác ngộ trong chúng sanh. Chúng ta cũng có thể nói Bồ-tát là người giác ngộ, vì người giác ngộ là Bồ-tát, kẻ mê muội là chúng sanh. Vị Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi này khi sanh ra có 10 việc cát tường, chứng tỏ rằng công đức của vị Bồ-tát này đầy đủ bậc nhất trên thế giới. Mười thứ cát tường ấy là :

 

1. Ánh sáng đầy nhà : Khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi được sanh ra thì ở trong nhà có một thứ ánh sáng, ánh sáng này không phải là ánh sáng mặt trời, ánh trăng, ánh sao hoặc ánh đèn. Ánh sáng này là biểu thị ánh sáng trí huệ Bát-nhã của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, cũng chính là biểu thị vị Bồ-tát này có đại trí đại huệ, có thể phá trừ tất cả những tối tăm.

 

2. Cam lộ đầy sân. Cam lộ là một thứ thuốc bất tử, chỉ trên trời mới có. Cam lộ có thể làm cho người ta no ấm, không ăn cơm cũng không đói. Người ta không ăn cơm sẽ đói. Tại sao lại đói ? Vì không có cam lộ để tư nhuận nên cảm thấy đói, không có tinh thần làm việc. Cam lộ có thể khiến người được no ấm, được trong sạch mát mẻ. Cho nên ngạ quỷ một khi dược Cam lộ quán đảnh, tức khắc được tiêu trừ tội nghiệp. Cam lộ đầy sân biểu thị Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi dùng pháp cam lộ để rải cứu chúng sanh. Vì cứu độ tất cả chúng sanh nên cửa cam lộ mở ra thì ngạ quỷ tiến vào sẽ được no ấm.

 

3. Đất trồi lên bảy báu : Từ đất sanh ra bảy thứ trân báu : Vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Bảy thứ này sao gọi là báu ? Trên thế giới này, những vật gì ít có mới được coi là quý báu, còn nhiều thì sẽ không còn quý báu nữa.

Như đất cũng là một thứ bảo bối, người ta nếu không có đất thì sẽ không sống được, nhưng ai cũng thấy nó dẫy đầy nên không coi là quý báu nữa. Nếu anh đem một cục đất tặng cho người, người ta nhất định không nhận mà bỏ nó trên đất. Tại sao thế ? Vì đất chỗ nào cũng có. Nước cũng là một thứ bảo bối, người ta không có nước thì không sống được, cho đến mọi sinh vật, nếu thiếu nước thì cũng không thể sống được.

Cho nên Lão Tử nói : "Bậc thượng thiện giống như nước. Nước thiện lợi đối với vạn vật mà không tranh". - Ví như đối với hoa, nước không thể nói : "Đóa hoa này nhờ mỗi ngày tôi tưới tẩm, hoa mới to lớn và đẹp như thế; nếu không có tôi thì hoa làm sao có được như ngày nay ư ?" Ở chỗ mọi người ghét bỏ, ở chỗ thấp trũng, chỗ mà ai cũng không muốn ở thì nước sẽ ở nơi đó; "Cho nên gần với đạo", vì thế được đạo vậy.

Xưa nay, kim mộc thủy hỏa thổ đối với nhân loại đều có chỗ lợi ích, nhưng tại sao người ta không quý trọng nó ? Tại vì chúng quá nhiều, như cây gỗ đi đâu cũng thấy nó. Còn vàng, tại sao lại được trân quý ? Vì nó ít. Như ở thế giới Cực Lạc vàng ròng làm đất, hòn đất kia sẽ có giá trị vì ở cõi ấy không có đất. Anh đem cho người ở thế giới Cực Lạc một cục đất cũng chẳng khác nào như mang một cục đất từ mặt trăng trở về. Dù là một cục đá, nhưng đem về từ mặt trăng, vì ít có nên được coi là quý.

Tại sao gọi là thất bảo ? Tại vì nó ít có, không phải ai ai cũng có được, cho nên gọi nó là bảo bối. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi có vô lượng kho báu, cho nên lúc ngài sanh ra, bảy thứ báu cũng ngay lúc ấy từ đất trồi lên. Trồi lên nhiều ít ? Lấy hoài không hết, dùng hoài không cạn, lấy xong lại có nữa. Bảy báu ở đâu ? Ở chỗ mà Bồ-tát Văn-thù sanh ra. Có người nói : "Vậy thì tôi đến đó lấy nhé !" Chớ sanh lòng tham, e rằng tổn phí còn lớn hơn số bảy báu lấy được, cho nên đừng có vọng tưởng.

 

4. Thần mở kho tàng ẩn giấu : Chuyển Luân Thánh Vương có bảy báu, trong đó có một thứ là Tạng thần bảo, chính là vị Thần cai quản kho báu. Bảy báu từ dưới đất lộ ra là bảy báu từ dưới đất trồi lên, kho báu này là của người trước chôn giấu, bây giờ vị thần giữ cửa kho khui mở ra, nên từ dưới đất lộ ra. Thứ bảo bối này cũng đều có thể dùng được.

 

5. Gà sanh trứng phụng : Gà vốn sanh ra gà, nhưng hiện tại, gà lại sanh ra phụng hoàng. Phụng hoàng là một thứ chim cát tường, người thấy được phụng hoàng nhất định sẽ được việc rất cát tường. Đức Khổng Tử từng nói : "Chim Phụng không được biết, hà không hiện ra đồ, ta không còn muốn truyền đạo nữa". Đó là ngài nói : Chim Phụng hoàng cũng không đến, cũng không có Hà đồ lạc thư xuất hiện (Hà đồ lạc thư là những nét vẽ của Phục Hy), ta cũng muốn dừng lại không còn tuyên dương đạo đức nữa.

 

6. Heo sanh con vảy rồng : Gà sanh ra con phụng còn chưa lạ lùng bằng heo sanh ra con vảy rồng. Xưa nay, rồng sanh ra rồng, nhưng bây giờ heo sanh ra rồng, vì heo sanh ra heo con trên mình có vảy, cho nên gọi là rồng.

 

7. Ngựa sanh kỳ lân : Xưa nay ngựa sanh ra ngựa, bây giờ ngựa lại sanh ra kỳ lân. Kỳ lân là một loại thú báo hiệu điềm tốt, ở Trung Quốc vào thời Đường Nghiêu, kỳ lân, phụng hoàng rất nhiều, ai cũng có thể thấy được. Về sau, nhơn vì chúng sanh nghiệp báo nặng, tạo ra tội nghiệp rất nhiều, nên những loài chim thú cát tường ấy không xuất hiện nữa. Trong tiết Khổng Tử Hoài Lân có nói : "Thời Đường Ngu hề, lân phụng nhởn nhơ. Nay không phải thời ấy, ai mong bay đến đâu ? Lân hề lân hề, lòng ta ưu tư". Vào thời Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, những loại kỳ lân, phụng hoàng thường dạo chơi trên thế giới này, ai cũng đều thấy được. Còn bây giờ không phải là thời đại Đường Nghiêu, Ngu Thuấn, thì kỳ lân bay đến đây làm chi ? Có ai mong bay đến đâu ! Kỳ lân ơi, kỳ lân ơi ? Ta thiệt lo cho bay quá ? - Đây là Đức Khổng Tử nhìn thấy người thợ săn bắt được con kỳ lân, mà con kỳ lân này Đức Khổng Tử có nhận biết. Nhơn vì Đức Khổng Tử khi sanh ra, có một con kỳ lân bay đến nhả ngọc thư (Lân nhả ngọc thư), mẹ của Đức Khổng Tử lấy một sợi dây đỏ cột lên cổ con kỳ lân. Bây giờ người thợ săn bắt được con kỳ lân ấy, Khổng Tử thấy sợi dây đỏ của mẹ cột vẫn còn trên cổ nó, và ngài cũng biết rằng nó không bao lâu sẽ chết, nên rất thương cảm mà nói lên những lời trên.

 

8. Trâu sanh bạch trạch : Trâu sanh ra một loại thú màu trắng. Bạch trạch là một loại thú ít có, đã không giống trâu, ngựa, lại không giống lừa, ấy gọi là Tứ bất tượng, là con thú hình dáng ngựa mà lại có móng trâu, sừng trâu; đó cũng là một loại thú hiện điềm lành.

 

9. Kho lẫm biến thành lúa vàng. Lúa vàng để làm gì ? Có thể ăn được không . Lúa, xưa nay có thể làm gạo, bây giờ biến thành vàng thì làm sao ăn được ? Có người nói : "Có thể đem nó bán đi rồi mua rất nhiều gạo về". Đó thật là một người thông minh. Người ấy lại hỏi : "Ai có tâm tham ?" Tôi nói : "Tôi cũng có tâm tham, tham muốn mọi người mau thành Phật".

 

10. Voi đủ sáu ngà : Xưa nay voi chỉ có hai ngà, nhưng khi Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi sanh ra thì voi của nhà ngài mọc đủ sáu ngà.

Trên đây là mười việc cát tường như ý xuất hiện khi Bồ-tát Văn-thù sanh ra, đại biểu cho mười độ Ba-la-mật của hàng Thập địa Bồ-tát Đại trí Văn-thù-sư-lợi, không giống với các vị Bồ-tát khác. Nếu anh muốn quen biết với Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, muốn thấy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, thì trước tiên phải nhớ mười việc cát tường này.

Tuy Bồ-tát không có tâm phân biệt, nhưng nếu anh biết được nhiều điểm của ngài thì mới gần được ngài thêm. Tại sao chúng ta phải biết càng nhiều càng tốt về cảnh giới của mỗi vị Bồ-tát ? Vì có như thế mỗi vị Bồ-tát đều có thể làm thiện tri thức hoặc anh em bè bạn của chúng ta được. Trong tương lai, mỗi người chúng ta đều có thể là thiện tri thức của Bồ-tát, cho nên không nên xem thường tự mình.

 

A-dật-đa Bồ-tát, chính là Bồ-tát Di-lặc. A-dật-đa là tiếng Phạn, dịch là Vô Năng Thắng, cũng tức là Từ Thị. Vị Bồ-tát này chuyên tu Từ Tâm Tam-muội, đối với bất cứ ai ngài đều dùng tâm Từ bi. Anh mắng ngài, ngài cũng dùng lòng từ bi đáp lại; anh đánh ngài, ngài cũng đáp lại bằng lòng từ bi. Bất luận là người nào đối xử không tốt với ngài, hoặc là lấn hiếp ngài, làm nhục ngài, giận dữ la hét ngài, sanh ra vô minh, ngài đều dùng lòng từ bi đối xử với họ. Tất cả mọi việc, ngài đều dùng lòng từ bi đối đãi hết. Chẳng những ngài dùng từ bi đối xử với người, mà ngài còn thương xót cứu giúp tất cả chúng sanh nữa. Ngài xem tất cả chúng sanh giống như là con cái của chính mình, thậm chí còn thân thiết hơn con cái nữa. Ngài thương mến giúp đỡ tất cả chúng sanh đủ cả mọi mặt với tâm từ bi vô lượng vô biên. Tu Từ Tâm Tam-muội cần phải tu cả hạnh Nhẫn nhục, cho nên ngài có một bài kệ như thế này :

 

Lão hèn mặc áo vá

Cơm hẩm đủ l·o lòng

Áo vá qua cơn lạnh

Vạn sự chỉ tùy duyên

Có người mắng lão hèn

Lão hèn cho là hay

Có người đánh lão hèn

Lão hèn ngủ quên mất

Phun nước miếng lên mặt

Cứ để nó khô thôi

Ta cũng bớt sức lực

Anh cũng khỏi giận hờn

Kiểu Ba-la-mật ấy

Chính là báu thêm mầu

Nếu biết được như thế

Lo gì đạo chẳng thành.

Lão hèn mặc áo vá : Lão hèn chính là một người tuổi già rất ngu si, áo vá chính là áo rách phải dùng kim chỉ dể vá lại. Cơm hẩm đủ no lòng : Cơm hẩm chính là thức ăn không thêm các gia vị dầu, muối, tương, xì dầu, đường, dấm ..., rất nhạt nhẽo, không có mùi vị gì, chỉ có thể lót đầy bụng trống thôi. Áo vá qua cơn lạnh : Áo rách được vá lành thì có thể dùng để ngăn cái lạnh lẽo từ bên ngoài. Vạn sự chỉ tùy duyên : Bất cứ sự tình gì cũng tùy tiện mà giải quyết ổn thỏa. Việc đến thời ảnh hiện, việc đi kể như không, cũng chính là "Đáo xứ tùy duyên qua ngày tháng, Thủ thường an phận mặc thời gian". Bất cứ sự tình gì, hễ đến thì biết đến, đi thì kể như không, đó gọi là tùy duyên. Tùy duyên cũng chính là "Tùy duyên mà bất biến, bất biến nhưng tùy duyên"; cũng chính là trong động có tĩnh, trong tĩnh có động; vừa tĩnh vừa động, vừa động vừa tĩnh.

 

Có người mắng lão hèn : Có người mắng ta là lão già ngu si. Lão hèn cho là hay : Ta tự nói là hay quá, hay quá ! Có người đánh lão hèn : Có người đánh ta, cho ta là kẻ ngu si vô dụng, anh đoán xem điều gì sẽ xảy ra ? Lão hèn ngủ quên mất : Có người đánh ta một cái, ta nằm xuống ngủ quên ngay. Anh nói ngài là ngu si, tại sao lại làm thế ? Thông thường người ta bị đánh thì trừng mắt nhướng mày nói : "Tại sao anh đánh tôi ?" Nhưng ngài chẳng những không trợn mắt, mà lại nằm lăn trên đất ngủ khì nữa. Anh nói như vậy có quá hay hay không ? Nếu ai có thể dùng được phương pháp này thì thật là không đến nỗi tệ, thật là có hạnh tu đấy. Phun nước miếng lên mặt, có người phun nước miếng lên mặt anh thì lửa vô minh của anh bốc lên hằng ba ngàn trượng : "Tại sao anh làm nhục tôi ?!" Nhưng Bồ-tát Di-lặc thì : Cứ để nó khô thôi, để cho nó tự khô đi, tôi cũng không cần lấy tay lau sạch. Ta cũng bớt sức lực, lau sạch nước miếng dù không hao phí sức lực bao nhiêu, nhưng cũng là phải dùng sức, bây giờ không lau thì sức lực đó cũng bớt phải sử dụng. Anh cũng khỏi giận hờn, một khi anh thấy một người bị mình phun nước miếng lên mặt mà người ấy hình như coi như không, thì anh nghĩ : "Cái người này ! Mình không quen biết họ", thế thì sự giận hờn của anh không còn nữa. Kiểu Ba-la-mật ấy, sao gọi là Ba-la-mật ? Đó là có người đánh anh, anh có thể ngủ khì được; có người phun nước miếng lên mặt anh, anh cứ để nó tự khô đi; đó chính là Ba-la-mật, cũng gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Giả như ngay đến Nhẫn nhục Ba-la-mật mà anh cũng không biết, thì anh học Phật pháp để làm chi ? Chẳng cần phải suốt ngày từ sáng tới tối học đi học lại mãi mới gọi là học được nhiều Phật pháp, mà có khi cảnh giới đến lại không biết áp dụng một tí nào. Chính là báu thêm mầu, đó là mầu nhiệm trong mầu nhiệm, quý báu trong quý báu. Nếu biết được như thế, lo gì đạo chắng thành : Nếu biết được những điều như trên thì lo gì anh không thành đạo được ư ? Nếu anh tu được Nhẫn nhục Ba-la-mật như thế, thì đạo nghiệp của anh nhứt định sẽ thành tựu; chư Phật, Bồ-tát không bao giờ dối gạt người đâu. Nếu anh học được như Bồ-tát Di-lặc thì nhứt định anh sẽ thành tựu đạo quả.

 

Càn-đà-ha-đề Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ-tát. Càn-đà-ha-đề là tiếng Phạn, dịch là Bất Hưu Tức. Bất Hưu Tức chính là Thường Tinh Tấn, Thường Tinh Tấn cũng chính là Bất Hưu Tức. Càn-đà-ha-đề cùng với Thường Tinh Tấn, hai vị Bồ-tát này cùng đi đôi với nhau, các ngài tinh tấn mãi tới trước, cũng chính là không ngừng nghỉ; một người là bất hưu tức (không ngừng nghỉ), tức là có thường tinh tấn; một người thường tinh tấn, tức là bất hưu tức; hai vị này nhìn ngắm lẫn nhau, anh bất hưu tức thì tôi sẽ thường tinh tấn; anh thường tinh tấn, tôi đây sẽ bất hưu tức. Hai vị này ngày đêm sáu thời hành đạo, người này làm Hộ pháp cho vị kia, vị kia cũng làm Hộ pháp cho người này; cũng giống như là cùng chạy đua vậy, anh nếu chạy tới một bước thì tôi cũng chạy thêm một bước, ai cũng không tuột hậu cả. Cho nên Thường Tinh Tấn cũng chính là Bất Hưu Tức, Bất Hưu Tức cũng chính là Thường Tinh Tấn. Hai vị Bồ-tát này từ vô lượng kiếp đến nay cùng đồng tham tu như nhau. Thế nào gọi là đồng tham tu ? Nghĩa là hai người cùng đồng tu hành. Anh dụng công ư ? Tôi sẽ dụng công hơn anh. Anh dụng công bằng tôi, tôi lại càng dụng công nhiều hơn nữa. Họ cùng tranh đua lẫn nhau, cho nên một người tên là Thường Tinh Tấn, một người tên là Bất Hưu Tức. Hai vị Bồ-tát này thật là những vị tu hành chơn chánh, tất cả đều là Thường Tinh Tấn, tất cả đều là Bất Hưu Tức.

 

Cùng các vị Bồ-tát lớn v.v... như thế; "v.v... như thế" là trừ những vị Bồ-tát đã nói ở trên còn có rất nhiều vị Bồ-tát lớn hơn nữa.

 

Và những hàng Thích Đề Hoàn Nhơn v.v..., vô lượng chư thiên, đại chúng đồng câu hội. Thích Đề Hoàn Nhơn chính là Đế Thích, Đế Thích chính là chúa của từng trời Tam thập tam thiên, cũng chính là vị Nhơn-đà-la-da trong chú Lăng Nghiêm, cho nên người hiểu Phật pháp mới biết trong chú Lăng Nghiêm có chư Thiên, có tất cả vua quỷ thần, có các vị Bồ-tát lớn. Người không hiểu Phật pháp thì nói trong Phật giáo không có chư Thiên, không có Nhị thập bát tú, không có v.v..., vì họ không biết. Trong chú Lăng Nghiêm cũng có Nhị thập bát tú, cũng có chư Thiên quỷ thần. Vô lượng chính là không có số lượng. Trời, nói chung có 33 từng trời, nếu phân tích kỹ thì trong mỗi cõi trời lại có vô lượng cõi trời, cũng giống như thế giới của chúng ta đây, có thế giới này, thế giới kia, vô lượng các thế giới; cõi nước này, cõi nước kia, vô lượng các cõi nước; cõi Trời cũng giống như thế, cũng có vô lượng chư Thiên. Đại chúng đồng câu hội nghĩa là rất nhiều rất nhiều người cùng tụ hội lại một chỗ.

 

Bấy giờ Phật bảo Trưởng lão Xá-lợi-phất : Từ đây qua phương Tây cách mười vạn ức cõi Phật có một thế giới tên là Cực Lạc, nước ấy có Phật hiệu là A Di Đà hiện đang thuyết pháp ở đó.

Bấy giờ, chính là ngay lúc ấy, lúc mà vô lượng chư Thiên, Bồ-tát, Thanh văn, La-hán, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng nhóm họp ở một chỗ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo vị Trưởng lão trí huệ bậc nhất tên là Xá-lợi-phất. Từ đây - Từ đây là chỗ nào ? Đó chính là Kỳ Hoàn tinh xá ơû Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên của nước Xá Vệ. Từ đây bắt đầu tính yề hướng Tây, qua mười vạn ức cõi Phật, ở đó có một thế giới tên là thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc này là thế giới hết sức vui vẻ, vui vẻ đến cực điểm, không còn gì vui bằng, lại cũng không có thế giới nào vui hơn đây nữa. Thế giới này có một vị Phật tên là A Di Đà. A Di Đà là tiếng Phạn, có nghĩa là Vô lượng quang, cũng có nghĩa là Vô lượng thọ. Vô lượng quang là ánh sáng của ngài chiếu soi mười phương thế giới không bị chướng ngại. Vô lượng thọ là sanh mạng của ngài trải qua trăm ngàn vạn ức đại kiếp cũng không cùng tận. Đức Phật này sau khi thành Phật cũng là bất hưu tức (không ngừng nghỉ) cho nên mới nói như thế. Hiện đang thuyết pháp, nghĩa là hiện đang nói pháp cho mọi người nghe. Ngài là vị Phật đang làm việc, chứ không phải là vị Phật không làm việc. Công việc của Phật chính là thuyết pháp. Ai có thể thuyết pháp, chính là làm việc của Phật. Ai không thể thuyết pháp, chính là làm việc của ma. Nếu không thể thuyết pháp độ chúng sanh thì đời này tới lui vô ích, giống như đi hoài mà không tới được, chỉ phí công mà thôi !

Này Xá-lợi-phất ! Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc ? - Đây là Phật tự đặt vấn đề để hỏi ngài Xá-lợi-phất, ngài Xá-lợi-phất dù là bậc đại trí, nhưng cũng không biết phải hỏi thế nào mới đúng. Điều này cũng giống như có lần tôi hỏi quý vị : "Trời mưa tốt hay không ?" Quý vị cũng không biết phải trả lời như thế nào. Nhưng tôi có thể đưa ra một ví dụ : Làm thổ phỉ không thích trời mưa, vì đi lại rất khó khăn, lấy cắp đồ vật của người ta cũng không phải dễ. Còn người đi trên đường cũng không thích trời mưa, vì mưa xuống đường đi trơn trợt lại tối mù, khó nhìn rõ mọi vật chung quanh. Chỉ có người làm ruộng thì rất thích thú; hoa quả, gạo thóc được nước mưa tư nhuận thì nhất định thu hoạch cao. Vì thế quý vị nói : Trời mưa tốt hay không ? Cũng có quý vị nói : Giảng kinh thuyết pháp tốt hay không ? Nếu người thích nghe Phật pháp thì nói : Tốt ! Còn người không thích nghe Phật pháp thì nói : Không tốt ! Hiện tại Phật nói Kinh A Di Đà, thật ra đáng lẽ do ngài Xá-lợi-phất hỏi, nhưng ngài Xá-lợi-phất chẳng biết hỏi như thế nào, cho nên Đức Phật tự đặt ra vấn đề rồi giải đáp luôn. Chúng ta có thể giả thiết tình huống lúc đó như thế này - Trước hết Đức Phật hỏi : "Này Xá-lợi-phất ! Vì sao cõi nước kia tên là Cực Lạc ?" Rồi đợi ngài Xá-lợi-phất trả lời. Lúc ấy, đợi chừng năm phút mà ngài Xá-lợi-phất cũng chưa có thưa hỏi, dù ngài có trí huệ bén nhạy đến như thế nào cũng không biết phải nói sao cho đúng, đối trước Phật không thể nói ra lời nào được. Nhưng thời gian này thật là quý giá, cho nên Phật cũng không đợi được, bèn bảo ngài :

 

Chúng sanh của nước ấy không có các khổ, chỉ hưởng những điều vui, cho nên gọi là Cực Lạc.

Tại sao cõi nước ấy tên là Cực Lạc ? - Tại vì chúng sanh của nước ấy, chúng sanh của quốc gia này đều hóa sanh từ hoa sen, cũng chính là từ trong chỗ thanh tịnh mà sanh ra, chẳng phải từ nơi dục ái mà sanh ra. Sanh ra từ chỗ thanh tịnh thì không có sự dâm dục của nam nữ dục ái, cho nên họ không có các khổ. Tại sao chúng ta lại có các khổ ? Bởi vì thân thể của chúng ta sanh ra từ các thứ ô trược của tinh cha huyết mẹ, từ sáng đến tối, nam thì nghĩ đến nữ, nữ thì nghĩ đến nam, suốt ngày ăn no rồi không làm chi, cho nên trước nhất là nghĩ đến việc ấy. Vì thế trai gái vừa mới lớn đương nhiên nghĩ đến việc kết hôn, không kết hôn thì hình như là chưa làm xong một việc quan trọng. Đó đều là do chủng tử bất tịnh, nhơn chủng tử bất tịnh mà tâm niệm cũng bất tịnh; tâm niệm đã bất tịnh nên sanh ra các thứ khổ não. Bây giờ giảng kinh thuyết pháp, không luận nói nhiều hay ít, đều là nói đến chỗ ấy. Những kinh điển của Phật nói ra cũng là dạy ta không có tâm dâm dục. Không có tâm dâm dục chính là đại hải chúng Bồ-tát thanh tịnh; có tâm dâm dục thì là quỷ. Chúng sanh ở đời ác ngũ trược, cho nên tu hay không tu hành chính là ở điểm này. Thanh tịnh được tâm mình thì công đức vô lượng; không thanh tịnh được tâm mình thì tội lỗi vô biên. Tội lỗi là do tâm không thanh tịnh, do cái nhân ở tự tánh, mà thành quả ở hình tướng tạo ra các tội lỗi. Tự tánh mình thanh tịnh thì bên ngoài không có quả báo ác nghiệp. Cho nên chúng ta học Phật pháp, nếu không rõ đạo lý chơn chánh thì học đến vạn vạn đại kiếp đi nữa cũng không thể thành Phật được. Nếu hiểu đúng yếu điểm của Phật pháp, nói gì thì nói, chính là bảo người ta phải tự thanh tịnh ý chí của mình. Khi anh được khai ngộ thì không còn có tư tưởng không thanh tịnh nữa. Tại sao chúng ta có các khổ ? - Có khổ vì ý nghĩ của chúng ta không thanh tịnh. Tại sao thế giới Cực Lạc không có các khổ ? - Không khổ vì ý nghĩ của họ thanh tịnh, cho nên không có các điều khổ, chỉ hưởng các điều vui. Không có tất cả sự khổ mà hưởng tất cả điều vui, vì thế mới lấy tên là thế giới Cực Lạc.

Chúng ta niệm danh hiệu A Di Đà Phật, đó là chúng ta bắt đầu trang nghiêm và thành tựu thế giới Cực Lạc của chính mình. Thế giới Cực Lạc dù nói là xa cách đến mười vạn ức cõi Phật, nhưng cũng chẳng phải nhứt định là xa cách đến mười vạn ức cõi Phật đâu, vì nó vẫn không ra ngoài một tâm niệm của chúng ta, cũng chính là nói thế giới Cực Lạc tức là ở trong tâm chúng ta vậy. Thế giới Cực Lạc tức là Chơn tâm sẵn có của chính mình. Khi anh đến được Chơn tâm sẵn có của mình thì anh sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Nếu anh không rõ Chơn tâm sẵn có của chính mình thì không thể nào đến cõi nước kia được. Thế giới Cực Lạc tức là ở trong tâm chúng ta chứ không phải ở ngoài tâm. Thế giới Cực Lạc thanh tịnh không ô nhiễm thì chúng ta một niệm Chơn tâm hiện tiền cũng thanh tịnh không ô nhiễm. Nếu anh được rỗng rang mọi chấp trước thì tức khắc là thế giới Cực Lạc, tức khắc thấy được Phật A Di Đà. Phật A Di Đà và chúng sanh không có phân biệt, cho nên nói thế giới Cực Lạc không phải là xa như thế đâu.

Một niệm hồi quang biết rằng mình vốn là Phật; vốn là Phật - chính là thế giới Cực Lạc. Dứt trừ tâm nhiễm ô đi, cũng chính là dứt trừ tạp niệm tư dục của anh, không còn tâm đố kỵ, tâm chướng ngại, tâm tự tư và tâm ích kỷ nữa. Lúc đó anh giống như Bồ-tát làm lợi ích người, giác ngộ tất cả chúng sanh. Anh không còn tạp niệm, vọng tưởng nữa. Thế thì không phải là thế giới Cực Lạc sao ? Cho nên không cần phải đi tìm ở đâu bên ngoài.

Thưa các vị thiện tri thức ! Các vị đều thông minh hơn tôi, về sau các vị có thể giảng pháp hơn tôi. Hiện tại chỉ vì các vị không biết Trung văn, cho nên tôi đem một ít "Lão sanh thường đàm" (những câu thường nói của người đi trước) để nói với các vị, về sau các vị có thể nói hay hơn tôi.


Phần I | Phần III

 


Cập nhật: 27-5-2001

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang