Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Thủ Lăng Nghiêm Kinh Trực Chỉ Đề Cương
Pháp Sư Thích Từ Thông

SÁU NHẬP LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG

    1. Nhãn nhập
    2. A Nan: Vì sao bản tánh của sáu nhập vốn là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng ?

      A Nan ! Con mắt khi ngó chăm chú… sanh ra sự mỏi mệt. Tánh thấy và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai thứ vọng trần sáng và tối phát sanh tánh thấy bên trong, thu nhập các trần tướng gọi đó là tánh thấy. Tánh thấy rời hai trần sáng và tối không có tự thể. A Nan, ông nên biết, tánh thấy không phải từ sáng hay tối mà đến, không phải từ mắt ra, không phải từ hư không sanh. Nếu từ sáng đến thì lúc tối nó đã theo sáng diệt mất đi rồi, lẽ ra không thấy được tối. Nếu từ tối đến, lúc sáng nó đã theo tối diệt mất đi rồi, lẽ ra không thấy sáng. Nếu do mắt sanh, không cần có sáng tối thời mắt chẳng thấy được gì, đồng như không có thấy. Nếu do hư không ra thì lúc ngó ra thấy các trần tướng, khi xoay vào ắt phải thấy mắt và mặt. Và nếu thật vậy, thì hư không tự thấy nào có tương quan gì với sự thu nạp của ông ? Vì vậy, biết rằng nhãn nhập là hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    3. Nhĩ nhập
    4. A Nan ! Ví như có người lấy hai ngón tay bịt chặt hai lỗ tai. Do tai mỏi mệt hóa ra có nghe. Tánh nghe và sự mệt mỏi đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai thứ vọng trần động và tĩnh sanh tánh nghe bên trong, thu nạp các trần tướng gọi đó là tánh nghe. Tánh nghe rời hai trần động và tĩnh không có tự thể. A Nan ! Ông nên biết, tánh nghe đó không phải từ động tĩnh đến, không phải từ tai ra, cũng không phải do hư không có. Vì vậy biết rằng nhĩ nhập là hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    5. Tỷ nhập
    6. A Nan ! Nếu bịt hai lỗ mũi, bịt lâu thành mỏi mệt, trong lỗ mũi có cái xúc lành lạnh. Nhơn xúc đó phân biệt được thông và nghẹt, rỗng đặc cho đến các mùi thơm thối… Tánh ngửi và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai vọng trần, thông và nghẹt phát ra tánh ngửi ở trong, thu nạp các trần tướng gọi đó là tánh ngửi. Tánh ngửi rời hai trần thông và nghẹt không tự thể. Tánh ngửi không phải từ thông và nghẹt mà đến, không phải từ lỗ mũi ra cũng không phải do hư không sanh. Vì vậy biết rằng tỷ nhập là hư vọng, vốn không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    7. Thiệt nhập
    8. A Nan ! Ví như có người dùng lưỡi liếm mép, liếm mãi sanh mỏi mệt, nếu người đó có bệnh thì có vị đắng, người không bệnh thì có chút vị ngọt. Do những cảm xúc ngọt đắng, mà bày tỏ tánh nếm, khi không động thường có tánh nhạt. Tánh nếm và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai thứ vọng trần nhạt và ngọt phát sanh tánh nếm ở trong, thu nạp các trần tướng gọi đó là tánh biết nếm. Tánh biết nếm rời những trần: ngọt nhạt, đắng cáy… Không có tự thể. A Nan ! Sự biết ngọt biết nhạt không phải từ ngọt nhạt đến, không phải từ lưỡi ra cũng không phải do hư không sanh. Vì vậy biết rằng thiệt nhập là hư vọng vốn không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    9. Thân nhập
    10. A Nan ! Ví như có người dùng bàn tay lạnh chạm bàn tay nóng. Nếu lực bên lạnh nhiều hơn thì bên nóng trở thành lạnh. Nếu lực bên nóng nhiều hơn thì bên lạnh hóa ra nóng. Do sự cảm nhận trong lúc hợp mà nhận biết lúc rời ra. Giữa thế tương quan đó, phát ra mỏi mệt và cảm xúc. Tánh cảm xúc và mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai vọng trần hợp và ly phát ra sự hiểu biệt ở trong, thu nạp các trần tướng, đó gọi là tánh biết xúc. Tánh biết xúc rời hai trần ly và hợp, trái và thuận không có tự thể. A Nan ! Tánh biết xúc không phải từ hợp ly đến, không phải từ trái thuận ra cũng không phải do hư không sanh. Vì vậy biết rằng thân nhập vốn hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    11. Ý nhập

A Nan ! Ví như có người mệt nhọc thì ngủ, ngủ chán thức dậy. Nhận biết trần cảnh, thì nhớ, lúc hết nhớ gọi là quên. Các sự việc ấy sanh khởi, tồn tại thay đổi rồi mất đi. Cứ theo cái vòng lẩn quẩn mà hấp thụ không lộn lạo, không chồng chất rối loạn, gọi đó là "ý tri căn". Ý tri căn và sự mỏi mệt đều là hiện tượng phát sanh từ thể tánh Bồ Đề trong sáng. Nhơn hai thứ vọng trần sanh diệt, nhóm tánh biết ở trong, thu nạp pháp trần, dòng thấy nghe chảy ngược mà không chỗ đến, gọi đó là sự hiểu biết (tức là ý tri căn hay ý nhập). Tánh hiểu biết này rời hai trần tướng: Thức, ngủ, sanh diệt nó không có tự thể. A Nan ! Ý căn hay sự hiểu biết đó, không phải từ thức, ngủ đến, không do sanh diệt có, không phải từ ý căn phát ra cũng không phải do hư không sanh. Nếu từ thức đến lúc ngủ nó đã diệt theo thức mất đi rồi còn lấy gì làm ngủ. Nếu cho rằng khi sanh mới có hiểu biết, thì lúc diệt nó đã không còn, làm sao biết được diệt. Nếu do diệt có, lúc sanh không còn diệt thì lấy gì mà biết là sanh. Nếu do hư không sanh thì hư không tự biết nào có dính dáng gì chỗ thu nạp của ông ? Vì vậy, biết rằng ý nhập là hư vọng vốn không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

 

MƯỜI HAI XỨ LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG

    1. Sắc và kiến (Sắc trần và tánh thấy)
    2. A Nan ! Vì sao 12 xứ là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng ?

      A Nan ! Ông hãy xem rừng Kỳ Đà, ao khe cây cảnh, tất cả hiện tượng kia. Ông nghĩ thế nào ? Sắc tướng sanh tánh thấy hay tánh thấy sanh sắc tướng ?

      A Nan ! Nếu tánh thấy sanh sắc tướng thì lúc trông thấy hư không, không có sắc tướng, tánh thấy đã mất rồi, còn lấy gì để nhận biết được tướng hư không ? Nếu sắc tướng sanh tánh thấy, vậy khi thấy hư không, không có sắc tướng thì lấy gì để biết được hư không và sắc tướng ? Với hư không cũng như vậy.

    3. Thanh và thinh (thanh trần và tánh nghe)
    4. A Nan ! Ông nghe trong trai đường ở rừng Kỳ Đà nầy, dọn đồ ăn xong thì đánh trống, lúc họp chúng đánh chuông. Tiếng chuông trống lần lượt nối nhau.

      A Nan ! Ông nghĩ thế nào ? Tiếng đến chỗ nghe hay tánh nghe đến chỗ tiếng ?

      A Nan ! Nếu tiếng đến chỗ tánh nghe, vậy khi tiếng đến chỗ ông A Nan, khiến cho ông A Nan được nghe, thì ông Mục Kiền Liên, ông Ca Diếp v.v… lẽ ra không thể đồng nghe cùng một lúc. Ví như khi tôi khất thực ở thành Thất La Phiệt thì ở rừng Kỳ Đà nầy có cả 1250 vị sa môn, khi nghe tiếng chuông, đồng đến chỗ thọ trai một lượt. Nếu như tánh nghe của ông đến bên tiếng thì lúc ông nghe tiếng trống, có tiếng chuông lẽ ra ông không thể nghe được. Cũng như khi tôi đã về rừng Kỳ Đà thì không thể có mặt ở thành Thất La Phiệt nữa. Sự thật, không những ông nghe tiếng trống tiếng chuông mà ông còn nghe được cả tiếng voi, ngựa, trâu, dê và nhiều tiếng khác cùng một lúc. Còn nếu trống và tánh nghe không đến nhau thì không có gì để gọi là nghe cả. Vậy nên biết rằng: tánh nghe và tiếng cả hai đều là hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    5. Hương và khứu (Hương trần và tánh ngửi)
    6. A Nan ! Ông hãy ngửi hương chiên đàn trong lư đầy, hương nầy nếu đốt một lạng thì cả thành Thất La Phiệt đều được ngửi được mùi thơm. Ông nghĩ thế nào ? Mùi thơm sanh do gỗ chiên đàn ? Do lỗ mũi ? Hay do hư không ? Nếu do lỗ mũi sanh thì nó từ lỗ mũi ra. Nhưng lỗ mũi không phải chiên đàn thì sao lại có được mùi thơm chiên đàn ? Nếu từ hư không sanh, tánh hư không thường nhiên thì mùi thơm cũng phải thường nhiên, cần chi phải đốt chiên đàn trong lư mùi thơm mới có ?

      Nếu mùi thơm từ gỗ chiên đàn sanh, cần gì phải đợi đốt thành khói mới có chất thơm loan tỏa trong thành ? Vì vậy, biết rằng: Hương trần và tánh ngửi không xứ sở, cả hai đều hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    7. Vị và thường (Vị trần và tánh nếm)
    8. A Nan ! Thường thì ông trì bát khất thực ngày hai lần. Có khi được tô, lạc, đề hồ, là những vị ngon. Ông nghĩ thế nào ? Vì do hư không sanh ? Do lưỡi ? Hay do đồ ăn sanh ?

      A Nan ! Nếu vị do lưỡi sanh, trong miệng ông chỉ có một cái lưỡi làm sao biết được các vị: ngọt, chua và đắng ? Nếu do đồ ăn sanh, đồ ăn thì vô tri giác làm sao biết được vị ? Nếu vị từ hư không sanh, vậy ông hãy nếm xem hư không vị gì ? Vì vậy, biết rằng: Vị trần và tánh biết nếm không có xứ sở, cả hai đều hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    9. Xúc và thân (Xúc trần và tánh cảm thụ)
    10. A Nan ! Thường buổi sớm mai ông lấy tay xoa đầu. Ông nghĩ thế nào ? Trong sự nhận biết xoa đầu, ông thử phân tích cái nào năng xúc cái nào sở xúc ? Năng xúc ở tay hay ở đầu ? Nếu ở tay, đầu không biết làm sao thành xúc ? Nếu ở đầu, tay vô dụng cũng không gọi là xúc được. Nếu tay lẫn đầu đều biết xúc, vậy một mình ông có hai cái xúc. Thế thì trong ông có cả hai con người ? Vả lại, nếu đầu và tay đồng một cảm xúc, thế thì cả hai cùng một tự thể. Nếu một tự thể thì không sở không năng, cái nghĩa cảm xúc không thành lập được. Nếu là hai thể thì cảm xúc ở phía nào ? Ở bên năng thì không ở bên sở. Ở bên sở, không có bên năng. Không lẽ hư không làm cho ông có xúc ? Vì vậy, biết rằng: Xúc và thân không xứ sở, cảm biết xúc cùng xúc trần đều hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    11. Pháp và ý (Pháp trần và yù)

A Nan ! Ý căn thường duyên với ba tánh. Thiện, ác và vô ký mà sanh pháp trần. Pháp trần đó tức tâm sanh hay ly tâm sanh ?

A Nan ! Nếu tức tâm sanh pháp trần thì pháp trần không còn trần nữa. Vì nó không là pháp sở duyên của tâm, làm sao thành xứ được ? Bảo rằng ly tâm riêng có chỗ sanh cũng không được. Thử hỏi: Bản tánh của pháp trần có biết hay không biết ? Nếu có biết thì không thể ly tâm. Nếu không biết thì nó ngoài sắc, thanh, hương, vị, xúc, ngoài hợp, ly, nóng, lạnh; ngoài cả hư không. Vậy thì pháp trần ở chỗ nào ? Hiện tại trong sắc không v.v… Không thể chỉ cái gì là pháp trần. Chẳng lẽ trong nhơn gian lại có cái… ngoài hư không ? Nếu không có đối tượng sở duyên thì ý căn do đâu thành lập xứ ? Vì vậy, biết rằng: pháp trần cùng ý căn không có xứ sở, cả hai đều hư vọng, không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

 

MƯỜI TÁM GIỚI LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG

    1. Nhãn thức giới
    2. A Nan ! Vì sao 18 giới là hiện tượng biểu hiện từ Như Lai tàng ?

      A Nan ! Như ông đã biết: Nhãn căn và sắc trần làm duyên sanh nhãn thức. Nhãn thức nhơn nhãn căn sanh, lấy nhãn căn làm giới hay nhơn sắc trần sanh, lấy sắc trần làm giới ?

      A Nan ! Nếu bảo rằng nhơn nhãn căn sanh, thử hỏi: Nếu không có sắc và không thì cái thức cũng chẳng dùng vào đâu được. Tánh thấy ngoài hình sắc và hiển sắc ra, không thể biểu hiện. Thế thì dựa vào đâu mà thành lập giới ? Bảo rằng nhơn sắc trần sanh. Vậy lúc không có sắc trần, chỉ có hư không lẽ ra cái thức của ông bị diệt mất đi rồi, làm sao ông biết được hư không ? Bảo rằng: Do nhãn căn và sắc trần chung hợp sanh. Vậy, khi hợp lại thì ở giữa ly. Lúc ly ra thì hai bên hợp. Thể tánh xen lộn giữa cái biết và không biết thì cái gọi là giới không thể thành lập. Vì vậy, biết rằng nhãn căn và sắc trần làm duyên (điều kiện) sanh nhãn thức, cả ba đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    3. Nhĩ thức giới
    4. A Nan ! Như ông đã biết: Nhĩ căn và thanh trần làm duyên sanh nhĩ thức. Nhĩ thức nhơn nhĩ căn sanh, lấy nhĩ căn làm giới hay nhơn thanh trần sanh lấy thanh trần làm giới ?

      A Nan ! Nếu nhơn nhĩ căn sanh mà không có hai tướng động và tĩnh thì cái biết của nhĩ căn không thành. Bởi vì chẳng có gì để biết ! Cái biết đã không thì cái gọi là "nhĩ thức" hình mạo ra sao ? Nếu bảo: Nhĩ thức nhơn thanh trần sanh. Vậy thì nhĩ thức vốn nhơn thanh trần mà có, nó chẳng tương quan gì với tánh nghe của lỗ tai. Đã không nghe thì cũng không biết gì là thanh trần và thanh trần ở đâu. Vì vậy, biết rằng: Nhĩ căn thanh trần làm duyên sanh nhĩ thức giới, ba chỗ đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    5. Tỷ thức giới
    6. A Nan ! Như ông đã biết: Tỷ căn và hương trần làm duyên sanh tỷ thức. Tỷ thức nhơn tỷ căn sanh, lấy tỷ căn làm giới hay nhơn hương trần sanh lấy hương trần làm giới ?

      A Nan ! Ông nghĩ thế nào về tỷ căn ? Ông lấy cái mũi thịt hình tướng như hai ngón tay dũi xuống hay lấy sự biết ngửi là tỷ căn ? Nếu lấy hình tướng cái mũi thịt thì chưa đúng hẳn vì chất thịt thuộc thân căn. Và cái biết của thân căn là xúc. Đã là thân căn thì không phải tỷ căn. Đã gọi xúc trần thì đó là đối tượng của thân căn, không tương quan đến tỷ căn nữa. Vì vậy, tỷ căn còn không đáng gọi, làm sao thành lập tỷ căn giới ?

      Bảo rằng: Tỷ thức nhơn hương trần sanh càng vô lý. Nếu hương trần sanh tỷ thức thì tỷ thức không thể ngửi biết hương trần. Ví như con mắt, không tự thấy con mắt.

      Nếu biết hương trần thì không do hương trần sanh. Nếu không biết hương trần thì không là tỷ thức nữa. Do vậy, biết rằng tỷ căn hương trần làm duyên sanh tỷ thức ba chỗ đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    7. Thiệt thức giới
    8. A Nan ! Như ông đã biết: Thiệt căn và vị trần làm duyên sanh thiệt thức. Thiệt thức nhơn thiệt căn sanh, lấy thiệt căn làm giới hay nhơn vị trần sanh, lấy vị trần làm giới ?

      A Nan ! Nếu nhơn thiệt căn sanh thì những mía ngọt, mơ chua, ớt cay, hoàng liên đắng đều hóa ra vô vị ? Vậy ông hãy tự liếm lưỡi của ông xem, nó ngọt hay đắng ? Và ông hãy nghiệm xem, lấy cái gì nếm lưỡi để ông biết lưỡi đắng ? Nếu bảo rằng vị trần sanh thiệt thức thì thiệt thức chính là vị trần. Vị trần không thể tự nếm vị trần, làm sao còn biết là có vị hay không có vị ? Bảo rằng thiệt căn và vị trần hòa hợp sanh. Không được. Vì, đã là hòa hợp tất không có tự tánh còn lấy cái gì để thành lập thiệt thức giới ? Vì vậy, biết rằng: Thiệt căn vị trần làm duyên sanh thiệt thức, ba chỗ đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    9. Thân thức giới
    10. A Nan ! Như ông đã biết: Thân căn và xúc trần làm duyên sanh thân thức. Thân thức nhơn thân căn sanh, lấy thân căn làm giới hay nhơn xúc trần sanh, lấy xúc trần làm giới ?

      A Nan ! Nếu bảo rằng nhơn thân căn sanh, giả sử không có hai sự kiện hợp ly thì thân căn sẽ không có tác dụng. Bảo rằng nhơn xúc trần sanh. Không ổn. Vì có ai không có thân căn mà biết hợp biết ly ?

      A Nan ! Vật thì không xúc không biết. Thân có biết có xúc. Biết thân là do có xúc. Biết xúc do có thân. Đã là xúc thì không phải thân. Đã là thân thì không phải xúc. Thân căn và xúc trần không có xứ sở. Nếu xúc trần hợp nhất với thân căn thì hóa thành tự thể của thân căn rồi. Nếu xúc trần tách rời thân căn, thì chẳng khác hư không và các tướng, không quan hệ gì nhau. Nội căn ngoại trần đã không thành thì làm sao lập được cái thức ở giữa. Thức đã không lập được thì nội căn ngoại trần bản tánh rỗng không. Ông sẽ dựa vào đâu để mà thành lập thân thức giới ? Vì vậy, biết rằng: Thân căn xúc trần làm duyên sanh thân thức ba chỗ đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

    11. Ý thức giới

A Nan ! Như ông đã biết: Ý căn và pháp trần làm duyên sanh ý thức. Ý thức nhơn ý căn sanh, lấy ý căn làm giới hay nhơn pháp trần sanh, lấy pháp trần làm giới.

A Nan ! Nếu bảo rằng ý căn sanh, thì trước hết ông phải có suy nghĩ, từ đó mới phát minh được cái ý của ông. Dù ý ông đã có, nhưng nếu không có đối tượng pháp trần thì ý căn của ông cũng không thể sanh được. Rời các pháp trần không thể nương vào đâu nhận thức hình mạo ý căn, thì cái ý thức còn đem dùng vào việc gì ?

Lại nữa, ý thức của ông cùng với các thứ tư duy, nghĩ ngợi là đồng hay khác ? Nếu đồng với ý căn thì thức là ý căn, duyên cớ gì phải có ý căn để rồi mới sanh ra ý thức ? Nếu khác với ý căn, lẽ ra nó sẽ không còn biết được gì ! Nếu không được gì, sao lại bảo nó do ý căn sanh ra ? Nếu có biết thì cần chi phải gợi ý thức và ý căn cho thêm chuyện ? Chỉ có hai tánh đồng hay khác mà còn không ổn định thì làm sao thành lập "giới" của ý thức cho được ?

Nếu bảo rằng nhơn nơi pháp trần sanh, thì các pháp trong thế gian không ngoài năm châu. Ông hãy xét các pháp: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, có tướng rõ ràng chúng là những đối tượng của năm căn, những pháp đó không thuộc phần tiếp thu của ý căn. Nếu bảo rằng ý thức của ông, nương pháp trần. Vậy ông xét kỹ xem cái tướng của pháp trần hình mạo như thế nào ? Nên biết: Rời hẳn các tướng: Sắc, không, động, tĩnh, thông, bít, hợp, ly, sanh, diệt, rốt ráo không thành một pháp nào được cả. Các nguyên nhơn đã không thành thì cái thức do nó sanh ra còn có dáng mạo gì ! Dáng mạo còn không có, làm sao mà lập được cái "giới" của ý thức ? Vậy nên biết rằng: Ý căn pháp trần làm duyên sanh ý thức, cả ba đều không. Không phải nhơn duyên cũng không phải tự nhiên.

TRỰC CHỈ

Trông ra hiện tượng vạn hữu ta thấy nghìn sai muôn khác, lớn, nhỏ, thấp, cao… khó mà dùng ngôn từ diễn đạt cho rành rọt. Nhưng tìm hiểu nguyên nhân gần của chúng, ta thấy tất cả đều biểu hiện theo cái thế liên hoàn của ba chân vạc, tác động qua lại giữa Căn Trần và Thức, mà hình thành và tồn tại. Cả cái vũ trụ vạn hữu vô thỉ vô chung vô cùng vô cực nầy, nếu tách rời căn trần thức giữa con người và vạn vật ra, thì chẳng còn có gì để luận bàn: Tâm, vật, thực, giả, có, không.

Càng không thể có cái gọi là "một đấng thiêng liêng" nào ở ngoài có đủ tư cách sáng tạo, sắp xếp vấn đề "vũ trụ nhơn sinh" được.

Căn thì có 6 nên gọi lục căn, Đó là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn kết hợp bởi tứ đại tinh hoa. Trong mỗi căn có hai bộ phận: Một là căn phù trần. Hai là căn tịnh sắc. Căn tịnh sắc cũng còn gọi là "Thắng nghĩa căn". Căn này được kết hợp bằng những yếu tố tứ đại tinh hoa nhất đối với thân thể con người. Do vậy, nó là cơ quan có công năng phát sanh nhận thức, làm chỗ nương gá cho thức.

Trần có nghĩa là nhiễm ô. Vì những thứ nầy có thể làm cho căn bị nhiễm ô, ví như những bụi bặm làm ô nhiễm môi trường sống của xã hội loài người. Trần có 6 thứ, gọi là trần. Đó là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Trần mà không có căn thì trần không là trần nữa; ngược lại căn mà không có trần thì căn không còn là căn được.

Thức có 6 nên gọi là lục thức. Đó là: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Thức nương căn trần mà phát sanh. Thức mà không có căn trần thì thức không có lý do hiện hữu. Căn trần mà không có thức thì căn trần không biểu hiện được thể dụng của căn trần. Cho nên căn trần thức là một hiện tượng gắn bó mật thiết tác động hữu cơ. Hiện tượng vạn pháp hình thành và tồn tại trong cái thế "duyên sanh" không thể tách rời giữa căn, trần, thức ấy. Vậy mà từ trước đến đây, và chưa phải ngừng ở đoạn kinh nầy, đức Phật quở rầy và nhắc nhở về cái thuyết "nhơn duyên sanh" ấy. Vì sao như vậy ? Vì rằng: Nếu đứng bên tục đế mà nhìn hiện tượng vạn hữu qua cái lý "nhơn duyên sanh" thì hoàn toàn đúng. Không những nó đúng riêng trong nền giáo lý Phật mà nó đúng sự thật của cuộc đời, đúng với quy luật khách quan của hiện tượng vạn hữu.

Tuy nhiên, nếu đứng bên chơn đế mà nhìn, nhìn bằng tri kiến rộng rãi hơn, quán triệt căn nguyên, xuyên suốt bản thể của hiện tượng vạn hữu thì hiện tượng nào cũng là hiện tượng của bản thể; cũng như sóng mòi nào cũng là sóng mòi của thể nước lặng trong. Vì vậy, cho rằng: Sóng là nước, thì đó là cái hiểu biết của những đứa trẻ ấu trĩ ngây thơ. Bảo rằng: Sóng không phải nước là tri kiến của một em bé khác. Nói rằng: Sóng là hiện tượng "duyên sinh" của nước, ta có thể nói chuyện đạo lý với lứa tuổi 20 nầy.

Khi nào người ta ngắm biển với một nhận thức không băn khoăn với một tri kiến thanh thản hồn nhiên trước cảnh sóng gào gió lộng… thì khỏi nói gì với họ về vấn đề sóng… nước… Vì họ đã biết rõ thể nước phẳng lặng và là H2O. Vì họ đã rõ sóng là "hiện tượng duyên sanh" của nước. Sóng và nước không phải là cái có thể tách rời nhau. Như Lai tàng ở kinh Thủ Lăng Nghiêm nói, ví như cái thể H2O của những đợt sóng kia. Cái vạn hữu duyên sanh, ví như những đợt sóng bởi những cơn gió lộng, bởi những đua thuyền mà tạo nên hiện tượng "duyên sanh" ấy.

Bản thể Như Lai tàng cùng với hiện tượng vạn hữu "bất ly" mà "bất tức" !

*

* *

BẢY ĐẠI LÀ HIỆN TƯỢNG BIỂU HIỆN TỪ NHƯ LAI TÀNG

Ông A Nan thưa: Bạch Thế Tôn ! Như Lai thường nói về nhơn duyên hòa hợp: Rằng tất cả các thứ biến hóa trong thế gian đều nhơn bốn đại hòa hợp mà phát sanh. Thế nào Như Lai ở đây lại bác bỏ cả hai nghĩa "nhơn duyên" và "tự nhiên". Tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật rủ lòng thương xót chỉ dạy cho chúng sanh pháp liễu nghĩa trung đạo ra ngoài hí luận.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ông A Nan: Rằng trước đây, ông nhàm chán pháp tiểu thừa của Thanh Văn, Duyên Giác, phát tâm cầu vô thượng Bồ Đề, nên giờ đây tôi hướng dẫn ông về "đệ nhất nghĩa đế", sao ông lại còn đem những thuyết nhơn duyên vọng tưởng hí luận thế gian mà ràng buộc lấy mình ! Ông dù nghe được nhiều pháp, nhưng cũng như người nói tên thuốc, đến khi gặp thuốc thật trước mắt mà không phân biệt được. Như Lai gọi ông là hạng người rất đáng thương xót ! Nay ông hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông phân tách chỉ bày và cũng để cho những người tu học đại thừa sau nầy thông suốt được thật tướng. Ông A Nan yên lặng kính vâng thánh ý của Phật.

A Nan ! Như ông đã nói: "Bốn đại hòa hợp phát sanh ra các thứ biến hóa trong thế gian". A Nan ! Nếu tánh của các món đại không hòa hợp thì không thể hòa hợp với các đại khác. Như hư không, không thể hòa hợp với sắc tướng. Nếu tánh của các món đại vốn hòa hợp thì nó hòa đồng với các tướng biến hóa: Thỉ, chung thành tựu cho nhau; sanh diệt nối nhau; diệt sanh, sanh diệt; diệt diệt, sanh sanh như vòng lửa xoay; như nước thành băng, băng lại thành nước, không có đầu mối cũng không có cuối cùng.

 

    1. Địa đại hoàn nguyên
    2. A Nan ! Ông hãy xét cái tánh của địa đại, lớn là đất liền, nhỏ là vi trần, thật vi tế là lân hư trần; do chẻ sắc chất cực vi làm bảy phần mà thành. Nếu đem lân hư trần chẻ ra thành hư không thì hư không cũng có thể sanh sắc tướng ? Ông hỏi rằng. Do hòa hợp mà sanh các tướng biến hóa ở thế gian, vậy ông hãy xét. Một hạt lân hư trần phải dùng bao nhiêu hư không hòa hợp lại mà thành ? Không lẽ lân hư trần hòa hợp thành lân hư trần ! Lại nữa, lân hư trần chẻ ra thành hư không. Vậy dùng bao nhiêu sắc tướng hòa hợp lại mới thành cả bầu hư không vô cùng cực nầy ? Nhưng nếu sắc tướng hợp thì hợp sắc tướng chứ không thể thành hư không; còn hư không hợp thì hợp hư không, không thể thành sắc tướng. Sắc tướng còn có thể chẻ được, chứ hư không thì làm sao mà hợp được ?

      Ông vốn không biết thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng. Sắc là chơn không. Không là chơn sắc. Nó thanh tịnh bản nhiên; khắp cùng pháp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng sở tri, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn dyên, hoặc cho là tự nhiên, đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.

    3. Thủy đại hoàn nguyên
    4. A Nan ! Tánh nước không cố định, khi tuôn chảy khi đứng lặng không chừng. Trong thành Thất La Phiệt, các ông Tiên Ca Tỳ La. Chiên Ca La và các nhà huyễn thuật Bát đầu na v.v… muốn có thứ nước Thái Âm tinh để hòa làm thuốc huyễn thuật. Họ lựa ngày trăng tròn sáng lộng như ban ngày, tay cầm hạt châu Phương Chư hứng lấy nước dưới trăng vàng. Vậy nước ấy từ hạt châu ra ? Từ hư không có ? Hay từ mặt trăng mà đến ?

      A Nan ! Nếu nước từ mặt trăng đến, vậy những rừng cây to, bóng cả ở tận những đỉnh núi cao, khi sáng trăng thì tất cả lá cành đều phun ra nước cả ? Bởi lẽ những rừng cây đỉnh núi, gần với trăng hơn là ngọc Phương Chư trong tay người hứng nước ở đồng bằng. Nếu bảo rằng: Nước từ hạt châu ra, thì từ hạt châu phải thường rịn chảy ra nước, cần chi phải đợi có ánh sáng ? Bảo rằng: Nước từ hư không sanh. Hư không thì vô cùng vô cực. Hư không bao trùm vạn vật. Vậy sao cả loài người chưa bị đắm chìm để cùng chết ngộp cho vui trong một lúc ? Thủy, lục, không, hành toàn nước và nước cả hay sao ?

      Ông nên nghĩ kỹ: Mặt trăng từ trên không đi qua. Hạt châu do tay người cầm. Cái chén bạc hứng nước do con người tạo. Vậy nước kia từ phương nào đến ? Mặt trăng và hạt châu xa nhau không phải hòa, không phải hợp. Không lẽ nước kia không do đâu mà tự có ra ?

      Ông còn chưa biết, thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng: Thủy là chơn không. Không là chơn thủy. Nó thanh tịnh bản nhiên, khắp cùng khắp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng sở tri theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn duyên hoặc cho là tự nhiên đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực giả.

    5. Hỏa đại hoàn nguyên
    6. A Nan ! Hỏa đại không có tự thể. Nó nương gởi ở các duyên. Ông hãy xem, những nhà trong thành phố, khi người ta muốn có lửa để nấu thức ăn. Tay họ cầm kính dương toại và một nhúm bùi nhùi đưa trước ánh sáng mặt trời mà lấy lửa.

      A Nan ! Phàm gọi là hòa hợp thì như tôi với ông và 1250 vị tỳ kheo hiện hợp thành một chúng. Chúng thì có một, song gạn xét về cội gốc thì mỗi người đều có thân thể đều có danh tự họ hàng của mình. Như ông Xá Lợi Phất thì dòng Bà La Môn. Ông Ưu Lâu Tần Loa thì dòng Ca Diếp. Còn như A Nan ông, thì thuộc dòng họ Cù Đàm.

      A Nan ! Nếu lửa đó nhơn hòa hợp mà có, vậy khi người ta cầm kính lấy lửa nơi ánh sáng mặt trời, lửa đó từ kính mà ra ? Do hư không mà có ? Hay từ mặt trời mà đến ? A Nan ! Nếu lửa từ mặt trời đến, lửa đã đốt được bùi nhùi trong tay của ông thì những rừng cây mà ánh sáng mặt trời đi ngang qua lẽ ra đều bị cháy cả ! Nếu từ kính ra đốt cháy bùi nhùi, sao cái kính không bị chảy ? Đến như cái tay ông cầm kính còn không thấy nóng thì làm sao kính chảy được ? Còn bảo rằng do bùi nhùi sanh thì cần gì phải có ánh sáng mặt trời và kính trực chiếu vào nhau rồi sau đó lửa mới bén cháy bùi nhùi ?

      Ông hãy suy nghĩ cho chín chắn: Kính do tay cầm. Mặt trời thì ở trên không trung. Bùi nhùi do con người tạo. Vậy lửa từ phương nào mà xuất hiện đến ? Mặt trời và kính xa nhau, không phải hòa không phải hợp, không lẽ lửa kia không do đâu mà tự có ra ?

      Ông còn chưa biết thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng: Hỏa là chơn không. Không là chơn hỏa. Nó thanh tịnh bản nhiên, khắp cùng pháp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng sở tri: Một người cầm kính một chỗ có lửa sanh ra; khắp pháp giới mọi người cầm kính, lửa sẽ phát ra theo yêu cầu của mọi người. Lửa vốn không có chỗ ở, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng là nhơn duyên hoặc cho là tự nhiên, đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn ngữ luận đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.

    7. Phong đại hoàn nguyên
    8. A Nan ! Phong đại không hình thể, khi động khi tĩnh bất thường. Lúc vào trong đại chúng, ông sửa áo, vạt áo tăng già lê của ông động thì người ngồi gần ông có gió nhẹ phát qua làm cho người kia cảm nghe mát mặt. Gió từ vạt áo cà sa ra ? Do hư không phát khởi ? Hay từ mặt người kia sanh ?

      A Nan ! Nếu gió phát ra do vạt áo cà sa thì ông đã mặc cả gió trong người, lẽ ra cái áo phải tung ra khỏi thân ông. Còn tôi, tôi đang thuyết pháp trong hội nầy và tôi rũ áo. Vậy ông xem cái áo tôi, gió núp ở chỗ nào ? Không lẽ trong áo tôi lại có chỗ chứa gió ?

      Bảo rằng: Gió từ hư không sanh, thì tại sao lúc áo ông không động, không có gió phát ra ? Vả lại, tánh hư không thường còn, lẽ ra gió phải luôn có không lúc nào gián đoạn. Và nếu khi nào hết gió thì hư không phải tiêu diệt ? Gió diệt có thể biết được, chứ hư không diệt thì hình trạng thế nào ? Và nếu có diệt có sanh thì không được gọi là hư không, đã là hư không thì làm sao lại phát sanh gió ? Bảo rằng: Gió sanh do cái mặt của người bị phát thì lẽ ra gió phải phất lại mặt ông. Cớ sao ông sửa áo mà lại phất vào mặt người kia như vậy ?

      Ông hãy chín chắn mà tư duy: Sửa áo là do ông. Cái mặt thuộc của người kia. Hư không thì vắng lặng. Vậy gió từ phương nào luồn đến ? Gió khác, hư không khác, không phải hòa, không phải hợp. Không lẽ gió không do gì mà tự có ?

      Ông còn không biết thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng: Phong là chơn không. Không là chơn phong. Nó thanh tịnh bản nhiên khắp cùng pháp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng lượng sở tri. Một mình ông động áo thì có một ít gió phát ra. Khắp pháp giới nhiều người cùng cầm quạt mà quạt thì khắp pháp giới sanh ra phong đại. Phong đại khắp cùng nhưng không có chỗ ở nhất định, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn duyên hoặc cho là tự nhiên, đều là phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.

    9. Không đại hoàn nguyên
    10. A Nan ! Hư không không có hình mạo, nhơn sắc tướng mà hiển bày. Trong thành Thất La Phiệt, chỗ cách sông, người ta dựng nhà ở thì đào giếng để lấy nước dùng. Đào được một thước khối đất thì có một thước khối khoản hư không. Nếu đào sâu 20 thước thì có khoản trống hư không 20 thước. Hư không cạn hay sâu tùy đất đào ra nhiều hay ít. Hư không đó nhơn đất mà ra ? Do đào mà có ? Hay không nhơn gì tự sanh ?

      A Nan ! Nếu hư không, không nhơn duyên gì mà tự sanh, tại sao khi chưa đào đất, nơi đó không có hư không mà chỉ thấy đất liền ? Bảo rằng: Nhơn đất ra, thì lẽ ra khi đất được đào phải lấy từng mảng hư không văng ra, và nếu vậy là đào hư không chứ sao gọi là đào đất ? Đã là hư không khi cần chi phải nói đến chuyện đào ? Bảo rằng: Hư không do đào mà có thì đào phải ra hư không, cớ sao lại đào ra đất ? Nếu hư không, không phải do đào mà có, thì đào lẽ ra chỉ có đất, cớ sao đào rồi lại thấy hư không ?

      Ông nên chín chắn mà tư duy. Đào là do tay người, tùy phương mà vận chuyển. Đất thì từ đất liền mà dời đi. Hư không đó do đâu mà có ? Đào là cụ thể, bởi sức tác động của con người. Hư không thì rỗng rang không hình mạo, hai yếu tố không tương quan tác dụng gì nhau, không phải hòa, không phải hợp. Không lẽ hư không, không do đâu mà tự sanh như thế ?

      Hư không thể tánh tròn đầy, bất động. Hiện tiền hư không và địa, thủy, hỏa, phong, gọi chung là năm đại thể tánh viên dung, vốn không sanh diệt. Các đại đó đều là diệu dụng của Như Lai tàng biểu hiện !

      A Nan ! Ông còn mê muội không biết được thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng. Giác là chơn không. Không là chơn giác. Nó thanh tịnh bản nhiên khắp cùng pháp giới tùy chúng sanh tâm, đáp ứng với lượng sở tri: Một giếng trống không, hư không sanh trong một giếng. Mười phương trống không, hư không khắp cả mười phương. Không đại khắp cùng theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn duyên, hoặc cho là tự nhiên đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thật nghĩa.

    11. Kiến đại hoàn nguyên
    12. A Nan ! Kiến đại có giác chiếu mà không liễu tri phân biệt. Nó nhơn các thứ: Sắc, không, mà có. Như hiện nay ông đang ở trong rừng Kỳ Đà, sớm mai thì sáng, chiều hôm thì tối; đêm trăng tỏ thì sáng, lúc trăng mờ thì tối. Những tướng sáng tối do cái thấy mà phân biệt nhận ra. Vậy cái tánh thấy cùng với sáng tối và hư không là đồng một thể hay là khác thể ?

      A Nan ! Nếu tánh thấy cùng với sáng tối và hư không đồng một thể thì cái sáng tối luôn luôn tiêu diệt lẫn nhau: có sáng thì không tối; có tối thì không sáng. Nếu tánh thấy đồng một thể với tối thì lúc sáng tánh thấy bị tiêu diệt; ngược lại, nếu tánh thấy đồng một thể với sáng thì khi tối đến tánh thấy cũng bị tiêu diệt. Vậy thì tánh thấy làm sao mà thấy được tối sáng ? Bảo rằng: Sáng và tối khác nhau còn tánh thấy không sanh, không diệt. Nếu vậy, thì không nên nói là đồng một thể, vì nó đã khác đi rồi.

      Và nếu tánh thấy đã khác với tối sáng, khác với hư không, vậy ông phân biệt xem tánh thấy hình tướng ra sao ? Ông nên biết: Rời tối sáng và hư không, tánh thấy như lông rùa sừng thỏ, không sao tìm có.

      Ông hãy chín chắn mà tư duy: Sáng, do mặt trời. Tối, bởi đêm không trăng. Thông suốt, là hư không. Ngăn bít thuộc đất liền. Còn cái tánh thấy như vậy, nhơn đâu mà có ? Tánh thấy có giác chiếu, hư không thì bất động, không phải hòa, không phải hợp. Không lẽ cái tánh thấy không do gì mà tự phát sanh ra ? Nên biết: Thể tánh của kiến đại cùng khắp bất động; vô biên hư không cũng cùng khắp bất động. Địa, thủy, hỏa, phong, gọi chung là "lục đại" thể tánh viên dung cùng khắp bất động, không diệt không sanh. Tất cả đều là diệu dụng của Như Lai tàng biểu hiện !

      A Nan ! Ông còn mê mờ không nhận thức được: Kiến, văn, giác, tri của ông cùng thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng. Kiến đại vốn là giác minh. Giác minh tinh kiến (tánh thấy vốn thanh tịnh, hiện lượng và trực giác). Nó thanh tịnh bản nhiên, cùng khắp pháp giới, tùy tâm chúng sanh, đáp ứng với lượng sở tri. Kiến đại thấy khắp pháp giới, tánh nghe, tánh ngửi, tánh nếm, tánh xúc và tánh biết cũng cùng khắp pháp giới nhiệm mầu. Nên biết: Tánh của các đại không có nhất định, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhân duyên hoặc là tự nhiên đều là những phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.

    13. Thức đại hoàn nguyên

A Nan ! Thức đại không có nguồn gốc, nhơn sáu thức căn trần giả tạm mà phát sinh. Nay ông hãy dùng mắt ngó lướt qua khắp hết thánh chúng trong hội nầy xem. Cái tánh thấy của ông như tấm gương, tiếp thu tất cả hình dáng in vào mà không có mảy may phân biệt (hiện lượng tiếp thu tánh cảnh). Rồi ông hãy dùng cái thức của ông, theo thứ lớp mà chỉ ra. Đây là Văn Thù, đây là Phú Lâu Na, đây là Mục Kiền Liên, đây là Tu Bồ Đề và kia là Xá Lợi Phất… Cái thức phân biệt của ông sanh từ mắt ? Hay sanh bởi các tướng ? Do hư không ? Hay không do gì mà thức tự có ra ?

A Nan ! Nếu bảo rằng: Thức do mắt sanh. Phỏng sử không có các tướng sắc, không tối, sáng, cái tánh thấy của ông còn có cơ sở để tồn tại được không ? Cái thấy còn không thể có thì còn y cứ vào đâu để có được cái "thức" phân biệt của ông ? Nếu bảo rằng: Thức sanh do các tướng chứ không phải do cái thấy. Thế thì ông lấy gì để thấy được sáng tối ? Sáng tối đã không thấy thì cũng không biết được các tướng sắc không ! Các tướng còn không có thì "cái thức" do đâu tồn tại ! Nếu cho rằng: Thức sanh do hư không, có ngoài cả các tướng và tánh thấy. Nếu quả thật vậy, thì ông không còn biện biệt được gì; vì chẳng có gì để cho ông phân biệt !

Nếu bảo rằng: Thức sanh không có sở nhơn, đột nhiên mà có. Đó là một tri kiến sai lầm. Có ai phân biệt sáng trăng giữa lúc mặt trời đứng bóng ?

Ông hãy chín chắn mà tư duy: Cái tánh thấy gá vào mắt ông. Các tướng thuộc tiền trần. Có cái hình tướng là có. Cái không dáng mạo là không. Còn cái thức như vậy nhơn đâu mà ra ? Cái thức thì năng động. Cái tánh thấy thì lặng lẽ, không phải hòa, không phải hợp. Nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức cũng vậy. Thế thì không lẽ cái thức phân biệt không do đâu mà tự có ?

A Nan ! Ông nên biết: Thức vốn không xứ sở. Các tánh: Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc, biết cũng như vậy. Tánh của kiến đại và thức đại viên mãn trạm nhiên, cùng với địa, thủy, hỏa, phong, không, gọi chung là thất đại, thể tánh viên dung, không sanh không diệt. Tất cả đều là diệu dụng của Như Lai tàng biểu hiện.

A Nan ! Tâm ông nông nổi, không nhận biết các việc: Kiến, văn, giác, tri cũng như thể tánh của các pháp trong Như Lai tàng: Tánh của thức minh tri. Giác minh là chơn thức. Diệu giác trạm nhiên, khắp cùng pháp giới, ẩn hiện trong mười phương, không có xứ sở, theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết lầm tưởng nhơn duyên hoặc cho là tự nhiên, đều là phân biệt so đo của ý thức. Nó chỉ đúng trong ngôn thuyết luận đàm mà hoàn toàn không có thực nghĩa.

 

TRỰC CHỈ

Năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, bảy đại đều là hiện tượng biểu hiện của Như Lai tàng. Nói cách khác, Như Lai tàng là bản thể của 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới và 7 đại. Đề cập đến bản thể hiện tượng là một vấn đề lớn, một vấn đề mang tính triết học của Phật giáo, nếu ta nhìn Phật giáo qua lăng kính triết học. Nhưng đối với Phật giáo người ta có cho nó là triết học hay không, là triết học điều đó chẳng có giá trị thêm bớt gì. Sự thuyết pháp của Phật nhằm nói lên chân lý khách quan, nói lên cái nguyên ủy của sự hình thành và sự tồn tại khách quan của vũ trụ vạn hữu. Sự thật như thế nào, Phật nói như thế ấy vậy thôi. Giáo lý của kinh Thủ Lăng Nghiêm, triển khai: Tất cả hiện tượng vạn hữu hình thành từ chất liệu của bốn khoa và bảy đại. Rằng hiện trạng vạn hữu do ngũ uẩn tổ hợp mà thành. Từ ngũ uẩn lập ra 12 thứ sắc pháp. Từ ngũ uẩn lập ra 8 pháp tâm vương. Từ ngũ uẩn triển khai 51 thứ tâm sở. Từ ngũ uẩn diễn biến ra 24 thứ pháp bất tương ứng. Từ ngũ uẩn thành lập 95 pháp hữu vi và cũng từ ngũ uẩn mà an lập 6 thứ vô vi pháp. Tất cả ngần ấy thứ đều là hiện tượng của Như Lai tàng, từ chủng tử trong Như Lai tàng duyên khởi biểu hiện ra:

 

TÀNG có nghĩa là kho tàng. Ví như cái kho chứa tất cả hạt giống của ngũ cốc, ngũ quả.

NHƯ có nghĩa là bất biến.

LAI có nghĩa là tùy duyên.

NHƯ LAI TÀNG ví như cái kho hàm chứa tất cả chủng tử của hiện tượng vạn hữu. Những chủng tử được chứa trong kho tàng nầy, tùy duyên sanh ra rồi cũng tùy duyên hoại diệt. Diệt mà không mất hẳn, diệt để lại sanh. Sanh mà không trường sanh, sanh để rồi lại diệt. Sanh diệt, diệt sanh; sanh sanh, diệt diệt, vô thỉ vô chung, vô cùng vô cực. Sự sanh diệt, diệt sanh đó, thuật ngữ Phật học gọi là: TÙY DUYÊN BẤT BIẾN; BẤT BIẾN TÙY DUYÊN. Sanh diệt, nhưng sanh diệt trong cái vĩnh cửu. Vĩnh cửu, nhưng vĩnh cửu trong quá trình sanh diệt. Ví như những đợt sóng tùy duyên sanh diệt trên mặt nước bất biến của thể nước H2O của biển cả, của ao hồ, sông rạch…

Ta hãy tư duy để có khái niệm về bản thể Như Lai tàng, qua hình đồ được cụ thể hóa như sau:

NHƯ LAI TÀNG

 

 

 

*

* *

 

ÔNG A NAN VÀ ĐẠI CHÚNG TÁN DƯƠNG PHẬT, PHÁT NGUYỆN VÀ TRÌNH PHẬT NHỮNG ĐIỀU TÂM ĐẮC CỦA MÌNH

 

Ông A Nan và đại chúng nhờ Phật chỉ dạy rằng phương tiện dẫn dụ, lời lẽ khéo léo nhiệm mầu. Cả thính chúng thân tâm thanh thoát rỗng rang. Mỗi người tự biết chơn tâm mầu nhiệm của mình vốn khắp cùng pháp giới và thấy mười phương hư không như xem cành hoa lá đang cầm trên cây, tất cả sự vật hiện tượng trên thế gian đều là diệu dụng của tâm Bồ Đề nhiệm mầu, sáng suốt của mình biểu hiện. Tỏ ngộ lẽ sống chết của cái thân cha mẹ sanh ra, như sự diệt sanh của những bong bóng giữa đại dương rồi chìm tụ tán ! Chỉ có tâm tánh nhiệm mầu khắp pháp giới mười phương mới thật là tâm tánh bản lai thường trú của chính mình.

Ở trước Phật, ông A Nan thay lời đại chúng, xin được nói lên một bài kệ tán dương Đức Phật, phát nguyện và trình lên Phật điều tâm đắc của tận đáy lòng:

 

 

Cao quí thay ! Thủ Lăng Nghiêm Vương ít có

Là pháp diệu trạm, bất động tổng trì

Trừ hết tưởng điên đảo ức kiếp của con

Không trải A Tăng Kỳ mà được pháp thân

Tôi nguyện từ nay cho đến khi thành Phật

Độ chúng sanh như số cát sông Hằng.

Đem thâm tâm phụng sự vì trần quốc

Thế mới đủ đáp đền thâm ân Phật.

Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho:

Đời trược ác tôi thề vào trước

Còn một chúng sanh chưa thành Phật

Thì tôi không nhận hưởng Niết Bàn

Bạch đấng Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi

Tôi hy vọng xét trừ vi tế hoặc

Để sớm lên Vô Thượng Bồ Đề

Tôi sẽ làm Phật sự khắp mười phương

Hư không dù hết, nguyện tôi không cùng.

(HÁN BỘ HẾT QUYỂN 3)


Tựa tập I | Mục lục I | I. 1-2 | I. 3a | I. 3b | Tựa tập II | Mục lục II | II. 4 | II. 5 | II. 6

 


Cập nhật: 1-5-2001

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang