Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
NHÂN SINH CỦA PHẬT GIÁO
CHU SỞ
Duy Nguyễn dịch

 

1) Thuyết luân hồi là gì?

Trong vũ trụ có vô vàn “sự thực” mà không thể đưa ra những chứng cớ để chứng minh, nhưng chúng ta không nên phủ định sự tồn tại của chúng. Hơn nữa khoa học ngày nay đã có tiến bộ song vẫn còn những hạn chế về thành tựu nên chưa thể giải đáp đầy đủ những thắc mắc về vô vàn hiện tượng bí ẩn có trong vũ trụ. Thích Ca Mâu Ni (ông tổ của Phật giáo) thường nói với đệ tử là: “Ta là người nói thật, nói đúng chứ không nói bừa”.

 Phật giáo chủ trương “thuyết luân hồi”, hễ chúng sinh nào chưa được giác ngộ đều phải luân hồi mãi mãi trong bể khổ sống chết. Do đó, con người mới phải trải qua hàng ngàn, hàng vạn cuộc đời. Thậm chí có người kiếp trước chỉ là động vật như trâu, bò, lợn, chó, rắn rết.. nhưng chúng ta chưa được giác ngộ thực sự, chưa hiểu điều đó một cách trí tuệ nên không biết đó thôi.  

Mọi người đều biết “không sát sinh” là giới cấm của Phật giáo. Phật giáo chủ trương mọi chúng sinh trong thế gian này đều phải bình đẳng, chính vì vậy con người cần phóng sinh những động vật nhỏ, yếu; không được đang tâm chà đạp chúng.

 

2) Phật giáo phủ định thuyết định mệnh

Thế nào là thuyết định mệnh? Nói giản đơn là con người sinh ra ở đời lành, dữ, phúc, hoạ đều là do định sẵn từ trước không thể nào thay đổi được. Những người tin vào thuyết định mệnh cho rằng tất cả đều do trời xếp đặt kể cả việc sống và chết. Người đã có số thì dù có cố gắng đến đâu cũng không thể thay đổi được số mệnh của mình. Ví dụ số đã không nghèo thì dù có tiêu pha hoang phí đến đâu cũng không thể nghèo đi. Hoặc người hay làm điều ác thì số đã giàu có phong lưu cũng không vì thế mà gặp nghiệp chướng.  

Phật giáo kịch liệt bác bỏ học thuyết định mệnh đó và khẳng định: “Hễ cố gắng phần nào vất vả thì được phần thu hoạch đó” hay “gắng sức thì không phí công!”  

Phật giáo cho rằng tiền đồ và định mệnh của một cá nhân tốt hay xấu đều do việc làm hiện nay của mình quyết định. Nói khác đi là tiền đồ của mình nằm trong tay mình. Ðây là một quan niệm hết sức tiến bộ vì nó thể hiện được một thế giới quan khoa học nhìn nhận thế giới và hành vi của con người.

Sở dĩ chúng tôi dành một số lớn trang trong cuốn sách này để đề cập đến nhân sinh quan của Phật giáo trước khi đi vào vấn đề “sống và chết” vì nhiều lẽ:  

Thứ nhất, trong mọi tín ngưỡng của loài người từ xưa tới nay thì chỉ có Phật giáo là có nhiều giải thích về vấn đề “sống và chết” của con người một cách đầy đủ cặn kẽ. Mặt khác trên con đường tìm hiểu về bản chất của cái chết chúng ta không thể bỏ qua Phật học mà không xem xét.  

Thứ hai, Phật giáo là một học thuyết tin vào trí tuệ chứ không phải là một thứ tôn giáo mê tín, huyền hoặc. Nghiên cứu về Phật giáo có thể bạn sẽ tìm thấy vô số các giải đáp tìm hiểu vể vạn vật, về vũ trụ, đại vũ trụ và cả về thế giởi vi mô xung quanh con người. Những hướng nghiên cứu này, không ngoài mục đích cứu giúp chúng sinh thoát khỏi tai ương, bệnh tật.  

Thứ ba, Phật giáo là một học thuyết khoa học mang tính nhân sinh cao cả. Trong chúng ta ai ai cũng biết câu “Phật ở trong tâm” nói khác đi là “ai cũng có thể trở thành Phật”. Khác với nhiều đạo giáo khác như cơ đốc giáo chỉ cần đưa ra một bộ kinh duy nhất là kinh thánh mang tính tóm tắt là có thể giải thích đầy đủ tính huyền diệu của sự sống? Còn Phật giáo lại cho rằng “Hiện tượng nhân sinh, vũ trụ không phải là đơn giản”. Việc truy tìm tính chân thực của hiện tượng nhân sinh và vũ trụ rất phức tạp mà không thể giải thích mang tính áp đặt như kiểu vũ trụ hay con người do một vị thần linh sáng tạo ra như kiểu chúa trời hay Adam và Eva, Phật giáo quan niệm mọi việc không có sự bắt đầu, nếu có chỉ là sự kết thúc của một quá trình nào đó để chuyển hoá sang một quá trình mới.

 Thứ tư, Phật giáo cho rằng trên con đường tìm hiểu sự vật thì việc hoài nghi không phải là một tội ác hay ngu xuẩn mà hoài nghi là con đường đi đến giác ngộ, “Nghi lớn thì ngộ lớn, nghi nhỏ thì ngộ nhỏ” là câu minh chứng cho tính chân thực đó.  

Thứ năm, Phật giáo cho rằng “chân lý” không có ranh giới, Bản thân nó không phụ thuộc vào bất cứ một tôn giáo nào cả cũng như không hề phụ thuộc vào một cá nhân nào trong lịch sử. Nói như vậy chân lý mà ngay Đức Phật nói ra cũng không phải của riêng người. Từ đó có thể hiểu được rằng Phật giáo không hề sùng bái cá nhân nào, quan niệm mọi giáo lý tồn tại vài nghìn năm ở loài người ít nhiều đều có ích, nếu không nó đã bị trí tuệ của loài người đào thải và bị thời gian mai một đi.

 

3) Thuyết “Nhân quả”

Học thuyết “Nhân quả” của Phật giáo, đó là một giáo lý có tinh thần đặc sắc và tinh hoa. Chúng ta nghe nói đến “Nhân quả của Phật giáo” thì phải hiểu tường tận là sự “quả báo nhân duyên”. Ðiều đó nghĩa là giữa “Nhân và Quả” Phật giáo còn hết sức chú trọng đến chữ “duyên”. Thế nào là “duyên”? Duyên có tác dụng như thế nào. Thí dụ, trồng hạt dưa dưới đất (nhân), nếu không có ánh sáng, nước, phân bón và công người chăm sóc vất vả thì sẽ ảnh hưởng đến sự nảy mầm và khai hoa kết quả sau này.  

Do vậy giả sử có người tuy kiếp trước được tạo ra nhân thiện nhưng đời này không tiếp tục tu trì làm nhiều điều thiện đức thì có thể ảnh huởng đến việc tăng trưởng quả thiện của mình và cũng có thể không đạt được quả tốt (tuy cái nhân thiện của mình vẫn không bị xoá bỏ).  

Khổng Tử đời xưa có nói: “Mạ lên không tốt là do người, tốt mạ lúa không chắc hạt là do người”. Theo lý lẽ đó nếu có người kiếp trước làm điều ác, đến đời này biết ăn năn hối lỗi và làm nhiều việc thiện thì “có thể anh ta không phải chịu quả ác”.  

Thái độ Phật giáo đối với vấn đề “đời trước làm ác, đời này tuy cố gắng nhưng vẫn có thể chịu báo ứng quả xấu”:

1)      1)      Phải tiếp tục làm nhiều điều thiện hơn nữa mà chớ có nản lòng.

2)      2)      Ðối với “quả ác” (Phật giáo gọi là định nghiệp). Không có thể thay đổi được thì con người phải dũng cảm tiếp nhận vì người quân tử dám làm dám chịu chớ nên oán trời hay trách người mà rắp tâm bỏ trốn hay đổ vấy cho kẻ khác.

 Có người hỏi: Tại sao có nhiều người đời này làm nhiều điều thiện nhưng vẫn nghèo, khổ hoặc luôn gặp những điều bất hạnh? Còn những kẻ xấu cả đời làm ác mà vẫn ung dung sống trong cảnh  phú quý và trường thọ?  

Theo Phật giáo thì “làm lành được lành, làm ác bị ác báo, nếu không chịu quả báo là do thời gian chưa đến mà thôi". Điều đó chứng tỏ những người ăn ở hiền lành mà chịu cuộc sống bất hạnh không phải là việc nhân quả báo ứng sai mà vì người này trước kia đã từng làm nhiều việc ác mà đến đời này phải chịu quả ác đó. Phật giáo còn cho rằng việc báo ứng nhân quả có khi đời này làm thì đời này sẽ báo ứng, có khi phải đến đời sau hoặc sau nhiều đời mới có báo ứng. Người xưa đã từng nói: “Thiện ác cuối cùng tất sẽ báo ứng, đạo trời vốn luân hồi, không tin thì ngẩng đầu lên xem, trời xanh đâu có buông tha ai?”  

4) Quan niệm của Phật giáo về hạnh phúc thật sự của loài người

Con người muốn được an lạc thực sự đại khái phải thoả mãn được các yêu cầu sau đây:

l) Tâm thần thanh thản, không phiền não.

2) Ðối với những khổ đau trước mắt thì tuỳ cảnh ngộ mà giải quyết ổn thoả, không oán trời trách người.

3) Ðối với các vấn đề vũ trụ, nhân sinh được giải đáp hợp lý.

4) Ðối với tương lai (đời sau) có đáp án thoả đáng.

5) Tiền đồ, vận mạng, cuộc đời, thành bại, vui khổ của mình không được do người khác thao túng.

 

Trong mọi tôn giáo trên hành tinh thì Phật giáo có thể thoả mãn được hoàn toàn những yêu cầu đó của nhân loại. Nguyên nhân nào khiến cho Phật giáo có thể thoả mãn những yêu cầu trên?

1.      Phật giáo khuyên con người phải biết “tri túc thường lạc” phải học thiên định, lạc quan tiến thủ. Cứ theo đó mà tiến hành thì tâm thần tự nhiên thanh thản, không sinh phiền não (con người nói chung như trẻ con lên 3 mất cái kẹo thì kêu khóc ầm ĩ, còn Phật tử như người lớn hiểu biết không vì thế mà phiền não. Ðó là vì quan điểm trí tuệ, cảnh giới khác nhau).

2.      Phật giáo cho rằng những việc không vừa ý trước mắt là những kết quả của những nguyên nhân mình làm trước đây, nên phải dũng cảm tiếp nhận không được vì thế mà phiền não, không được oán trời trách người.

3.      Tất cả những kinh điển của Phật giáo không phải là thể hiện quyền uy và sự tài giỏi của đức Phật mà giải thích một cách hoàn toàn triệt để vấn đề cơ bản của vũ trụ và nhân sinh, khiến con người được giải thích một cách hợp lý. Do vậy mà nhà triết học người Anh vừa mới qua đời là Rô-xơ đã nói: “Trong các tôn giáo ở trên thế giới tôi thích nhất là Phật giáo”. Ông Tôn Trung Sơn nói: “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật giáo có thể bổ khuyết những điều lệch lạc của khoa học”. Khang Hữu Vi nói: “Sự uyên bác, tinh vi của Phật học..tuy có triết học của các bậc thánh nhưng không có vấn đề nào là không đề cập đến, nội dung của nó thâm diệu”. Chương Thái Viên nói: “Lý luận của Phật giáo khiến cho bậc trí trên thế giới không thể không tin”. Lương Khải Siêu nói: “Tín ngưỡng Phật giáo là chữ tín chứ không phải là mê tín

4.      Kinh Phật viết: “Phật xuất hiện trên thế gian vì một nhân duyên lớn”. Nhân duyên lớn đó (tức là mục đích của Phật đến thế gian này) là gì? Ðó là để chuyển mê thành ngộ, giải thoát mọi khổ đau để con người vĩnh viễn hưởng tự do và sung sướng.

5.      Phật giáo cho là con người là kẻ “đầu đội trời, chân đạp đất”. Trên con người, không có vị thần nào có thể thao túng sống chết, thành bại, hoạ phúc của chúng ta, con người là chủ nhân của mình, là chúa tể của mình, chỉ có mình nỗ lực, phấn đấu thì nhất định có ngày mai huy hoàng, tươi sáng. Do vậy niềm tin Phật giáo có thể làm cho con người được hưởng sung sướng thực sự.

 

5) Thế giới vĩ mô và vi mô của Phật giáo

Ông Tôn Trung Sơn có nói: “Nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho những thiếu sót của khoa học.” Nói một cách khác là Phật học không những phù hợp với khoa học hiện đại mà còn chỉ ra những điều của thế giới cách đây hơn 2000 năm mà ngày nay mới bắt đầu chứng minh phần nào. Thí dụ như học thuyết tương đối về không gian và thời gian. Chúng ta có thể xem kĩ ví dụ này

 a)    Vũ trụ quan của Phật giáo.

Trước đây có những nhà thiên văn cho rằng vũ trụ là có tận cùng, có giới hạn, nhưng quan điểm này bị những phát hiện mới ngày càng nhiều bác bỏ. Trước đây theo học thuyết của Ptolem Atis thì trái đất là trung tâm của vũ trụ, là bất động, mặt trời vận hành vòng quanh trái đất. Lúc bấy giờ, học thuyết đó được giáo hội Rô-ma cho là chân lý vững chắc không còn nghi ngờ gì nữa. Về sau học thuyết này bị Cô-péc-nich và Ga-li-lê bác bỏ. Do vậy mà các ông này suýt bị sát hại. Thế nhưng quyền lực của Rô-ma cuối cùng không ngăn cản được chứng cứ khoa học. Hiện nay ngay một cậu học sinh nhỏ cũng biết rằng trái đất cũng chỉ là một hành tinh nhỏ trong vô số vật chất khác quay xung quanh mặt trời.

 Chúng ta hãy xem tổ chức vĩ đại của vũ trụ trong quan niệm của Phật giáo có phù hợp với khoa học không?

 Phật giáo cho rằng 1000 thái dương hệ hợp thành 1000 tiểu thế giới 1000 tiểu thế giới hợp thành 1000 trung thế giới và 1000 trung thế giới hợp thành 1000 đại thế giới gọi là một quốc độ Phật (nơi mà Phật giáo hoá). Như vậy là một quốc độ Phật có bao nhiêu thái dương hệ? Có tất cả là 10003 bằng 1.000.000.000 thái dương hệ, tương đương với một tinh vân thiên văn học (một hằng tinh do quần hằng tinh, vệ tinh xung quanh cấu thành một hệ thống gọi là thái dương hệ). Thí dụ như thái dương hệ của chúng ta có 9 hành tinh lớn xoay quanh là Trái đất, sao Thuỷ, sao Kim, sao Hoả, sao Mộc, sao Thổ, sao Thiên hoàng, sao Hải hoàng, sao Minh vương cùng với 27 vệ tinh và hơn 1.100 hành tinh nhỏ.

 Thế thì trong vũ trụ cuối cùng có bao nhiêu quốc độ Phật? Kinh A di đà nói rõ: “Từ Tây phương vượt qua 10 vạn triệu triệu quốc độ Phật có thế giới gọi là cực lạc!” nghĩa là từ trái đất ta ở Cực lạc Tây Phương có đến 10 vạn ức Phật độ. Cho nên Đức Phật Thích Ca nói: “10 phương hư không là vô cùng tận, thế giới là mênh mông không bờ bến” (10 phương hư không đồng nghĩa với chữ “Thái không” mà ta thường nói). Ðiều này nói với chúng ta rằng, trong hư không có vô vàn hành tinh không kể xiết, hư không là mênh mông, không bờ bến.

 Sau thời kỳ phục hưng văn nghệ ở Châu Âu, Ga-li-lê dùng kính viễn vọng quan sát các hành tinh trong hư không, nền thiên văn mới dần dần có nhiều tiến bộ. Cho đến ngày nay, chúng ta mới hiểu biết chút ít về cõi hư không mênh mông vô tận, mới biết được rằng trái đất của chúng ta chẳng qua chỉ là một hành tinh nhỏ trong thái dương hệ mà thôi. Còn trong hư không thì có vô vàn thái dương hệ không kể xiết, có hàng triệu triệu mặt trời. Nhưng 2500 năm trước đây, Thích Ca Mâu Ni chưa có kính viễn vọng mà đã báo cho chúng ta biết hư không là vô tận, còn số lượng hành tinh trong hư không thì không kể xiết (Ðức Phật dùng chữ “không thể nghĩ bàn” để hình dung, ý muốn nói là chẳng những không thể đếm hết mà ngay cả đến tưởng tượng cũng không nổi).

 Nếu không phải là một bậc “tiên tri, tiên giác” có một trí tuệ vĩ đại uyên bác như vậy thì không sao miêu tả được bộ mặt thật về vũ trụ vĩ đại, thần bí, bao la mênh mông như thế.

 

 b)    Trong một bán ước có 8 vạn 4 ngàn chúng sinh

Khi đức Phật thuyết pháp. Người đã báo rất rõ cho chúng ta biết rằng: “Chúng sinh trong vũ trụ là không thể đếm được, là không thể tưởng tượng được”. Ngoài trái đất chúng ta ở có chúng sinh ra vô vàn hành tinh trong vũ trụ, cũng có chúng sinh mà chúng ta không thấy được. Đức Phật chỉ một bát nước trên bàn nói: “Trong bát nước này có 8 vạn 4000 chúng sinh” (có nghĩa là số lượng rất nhiều).

 Ngày nay với sự tiến bộ của nền khoa học, không dám phủ nhận rằng ở các hành tinh khác trong vũ trụ có khả năng tồn tại những sinh vật khác. Nhưng chúng ta tin rằng điều mà Phật giáo nói là chính xác tức là trong vũ trụ còn tồn tại vô vàn chúng sinh. Thực tế nếu nhìn qua kính hiển vi, người ta thấy trong bát nước có đến hàng ngàn, hàng vạn sinh thể như vi trùng. Cách đây 2500 năm, Thích Ca Mâu Ni không hề dùng kính hiển vi quan sát mà nói được ra một sự thực phù hợp với khoa học hiện đại, thực đáng để chúng ta khâm phục.

 

c) Sắc tức là không, không tức là sắc.

Theo vật lý học cổ điển thì có hai định luật quan trọng: Một là định luật bảo toàn vật chất, hai là định luật bảo toàn năng lượng. Ðiều đó cho thấy quan niệm về tính độc lập vật lý giữa vật chât và năng lượng. Chúng không thể trao đổi cho nhau được.

 Vật chất trong kinh Phật được gọi là “sắc” (chớ lầm vởi chữ “nữ sắc”). Phật giáo cho rằng “sắc tức là không”, như vậy là đối lập với khoa học. Theo sự giải thích của Phật pháp, thì tất cả mọi sự vật trong vũ trụ đều là “vô thường”, bản thể là “không”, không có cái gì là bất diệt cả như vậy cũng không hợp với khoa hoc.

 Khi định luật Anh-Xtanh được công bố, cho thấy khi một lượng vật chất bị huỷ diệt thì có thể giải phóng một năng lượng lớn khủng khiếp theo công thức E=mc2 thì chúng ta thấy năng lượng và vật chất có thể chuyển hoá cho nhau. Lý thuyết này của Anh-xtanh đã được thực nghiệm minh chứng khi loài người tiến hành thử nghiệm bom nguyên tử vào năm 1945. Rõ ràng bản thể của vật chất (sắc) chẳng phải là không đó sao?

 Ðịnh luật vật lý cũ bị phủ định, Phật học đã một lần nữa được xác minh từ khoa học quan điểm của mình là đúng đắn.

 

Nói cụ thể hoá, thì học thuyết tương đối của Anh-tanh là vấn đề chứng minh tính tương đối của không gian và thời gian. Trong kinh “Diệu pháp liên hoa” thì đã ghi rõ Ðức Phật nói với những người đến nghe thuyết pháp: “Các người ở đây nghe ta giảng kinh cảm thấy thời gian không lâu lắm nhưng thế giới bên ngoài thì đã kinh qua hàng ngàn vạn năm rồi”. Rõ ràng Phật học đã có những đóng góp vô cùng to lớn trong bước đường tìm hiểu về thế giới vạn vật của khoa học nhân loại.

 

 6) Ngũ phúc là gì?

Ngũ Phúc, danh từ này nguyên ở trong thiên “Hồng Phạm” của Kinh Thư. Bây giờ đã trở thành từ ngữ mà mọi gia đình đều biết. Hầu như ai ai đểu quen thuộc thành ngữ “ngũ phúc lâm môn”. Nhưng rất ít người bìết cái mà ngũ phúc là chỉ 5 loạì ngũ phúc nào. Còn nói về nguyên lý của ngũ phúc lâm môn, người hiểu nó lại càng ít.

 Phúc thứ nhất là “trường thọ”, phúc thứ hai là “phú quý”, phúc thứ ba là “khang ninh”, phúc thứ tư là “hiếu đức”, phúc thứ năm là “thiện chung”.

 Trường thọ là không bị chết non, phúc thọ là lâu dài.

Phú quý là tiền của rất nhiều, địa vị tôn quý.

Khang ninh là thân thể khoẻ mạnh, tâm hồn yên lành.

Hiếu đức là tính lương thiện, nhân hậu, bình tĩnh.

Thiện chung là có thể tiên liệu thời kỳ chết của mình. Khi lâm chung không gặp tai họa, thân thể không đau đớn vì bệnh tật, trong lòng không vương vấn và phiền não, ôn hoà tự tại rời khỏi nhân gian.

 Được cả ngũ phúc có thể coi là cuộc đời hạnh phúc mỹ mãn, một khi thiếu điều nào có thể gọi là không hay. Ví dụ nói có người tuy trường thọ mà ít phúc, có người thọ 100 tuổi mà sống nghèo, có người phú quý lai đoản mệnh, có người phú quý nhưng vô cùng lao tâm khổ tứ, có người thoả mãn với cuộc sống thanh bần nhàn du, có người nghèo hèn mà thiện chung, có người phú quý trường thọ nhưng cuối đời gặp tai hoạ chết bất đắc kỳ tử. Cảnh ngộ cuộc đời phức tạp nhiều không kể hết.

 Ðó là mới nói đến sự biến hóa của 5 phúc. Chỉ có 5 phúc toàn bộ đều có cả mới được gọi là thập toàn thập mỹ, còn các trường hợp còn lại đều là tốt đẹp không trọn vẹn. còn gọi là 5 phúc khiếm khuyết. Trong 5 phúc, phúc thứ 4 là quan trọng nhất: Hiếu đức. Vì có cái đức lương thiện, nhân hậu, hiền hoà được coi là “phúc tướng” Tốt nhất. Ðức là nguyên nhân và cái gốc của phúc. Phúc là biểu hiện của kết quả của đức. Con người với “phúc hiếu đức” đôn hậu thuần khiết, lúc nào cũng bố thí, hay làm việc thiện, tích nhiều âm đức, mới có thể bồi dưỡng 4 phúc khác, làm cho nó không ngừng phát triển.

(Trích từ “Thế giới tái sinh” của Chu Sở, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội 1999)
Đánh vi tính: Mỹ Hồ

http://www.buddhismtoday.com/viet/triet/nhansinhquanPG.htm

 


Vào mạng: 15-11-2001

Trở về mục "Triết học Phật giáo"

Đầu trang