Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
PHẬT HỌC NHẬP MÔN
 
 

MỤC LỤC

 Bài tựa

1.   Lịch sử giản lược Phật Thích Ca Mâu Ni

2.   Tám tướng thị hiện của Thích Tôn

3.   Giải thích giản lược về họ tộc Phật Đà

4.   Dịch giải thánh hiệu Phật Đà

5.   Thánh địa Phật Giáo Ấn Độ

6.   Lịch Phật và cờ Phật

7.   Ý nghĩa ngày Phật Đà hoặc Vệ Tắc Tiết (Ngày kỷ niệm Phật Đà)

8    Biểu đồ giản lược ba yếu tố hình thành Phật giáo

9.   Cảnh giác chúng ta nên có

10. Tam quy y

11.  Nguyên tắc chung của Phật pháp

12.  Phật pháp đại ý

13.  Vũ trụ nhân sinh duyên khởi

14.  Luật nhân quả của nghiệp lực

15.  Nhân duyên và quả báo

16.  Tình huống chung hữu tình trong vũ trụ

17.  Tình huống chung khí giới trong vũ trụ

18.  Phật pháp ngũ thừa phương tiện

19.  Thập thiện ngũ giới và nhị thừa cõi nhân thiên

20.  Lược thuật bát quan trai giới

21.  Sáu căn bản của phiền não

22.  Giải thích giản luợc về thanh văn thừa

Tiếp theo

 
 

            Nội dung quyển “Phật học Nhập môn” được biên soạn từ bộ phận nội dung Phật giáo Nhận thức của Tịnh Không Đại Sư  và Phật giáo Tùng thư của Thái Hư Đại Sư, cùng tổng hợp với “Phật học Nhập môn thủ sách” của Phật giáo Mã Lai. Thêm vào đó là bộ phận tư liệu trong Phật học Giáo bổn của Bồ tát Phương Luân biên tập và mười bốn bài giảng Phật học của Bồ tát Lý Bỉnh Nam biên soạn. Quyển sách này lại được tiến hành trùng tân chỉnh đốn, cải cách, đánh chữ, sắp chữ và được trải qua việc cân nhắc tỉ mỉ của cư sĩ Khưu Thục Chân. Thể chữ dễ hiểu, rõ ràng, hy vọng có thể giúp đỡ việc học tập Phật pháp cho người mới học. Kính dâng đây với tấm lòng biết ơn của tôi.

             Nội dung của quyển sách, từ chương một đến chương tám là nói rõ Phật giáo duyên khởi. Chương chín đến chương mười hai là khuyến khích chúng ta phát bồ đề tâm, siêng tu Phật đạo vô thượng và cương lĩnh tu hành cùng việc nỗ lực học tập. Chương mười ba đến chương ba mươi hai là Giảng thuật giáo lý Phật giáo. Chương ba mươi ba đến chương ba mươi sáu là Nói rõ nhân duyên Phật pháp diễn hóa và truyền vào Trung Quốc. Chương ba mươi bảy đến chương bốn mươi mốt là nói về việc Giảng thuật Phật pháp ở thế gian phải gắn liền với sự giác biết của thế gian. Nghĩa là đời sống con người được giác ngộ nhưng không phải là tín ngưỡng tôn giáo theo kiểu tiêu cực, trốn tránh, mê tín. Chương thứ bốn mươi hai là Giới thiệu danh từ pháp tướng giản dị và Phật giáo thường thức có liên quan đến quyển sách.

Phân loại như trên, chúng tôi hy vọng môn đệ, người mới học Phật có khả năng trợ lực để nhận thức Phật giáo và đi vào phật pháp một cách chính xác, càng trông mong tất cả chúng hữu tình đồng phát tâm bồ đề, cùng chứng đạo vô thượng.

ĐỔNG SỰ GIÁO DỤC PHẬT ĐÀ CƠ KIM HỘI

(Bài tựa của Giản Phong Văn vào ngày 26 tháng 9 năm 1997)

 

I  LỊCH SỬ GIẢN LƯỢC PHẬT THÍCH CA MÂU NI

Từ chương thứ nhất đến chương thứ tám là nói rõ Phật giáo duyên khởi.

            1. Thái Tử Thích Ca đản sanh:

Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh vào năm 623 trước công nguyên. Phụ thân của Ngài tên Tịnh Phạn, là quốc vưong nước Ca Tỳ La Vệ, rất anh minh nhân từ. mẫu thân là Ma Gia phu nhân, công chúa nước Câu Lệ, là người có trí tuệ và đức độ vẹn toàn. Lúc bà bốn mươi lăm tuổi, mang thai thái tử, khi đã đủ mười tháng, trên đường trở về nhà để sanh, bà hạ sanh thái tử tại vườn Lâm Tỳ Ni cách thủ đô khoảng năm dặm. Vừa đản sanh, Thái tử có thể đi xung quanh bảy bước, nơi Ngài dẫm lên hiện ra bảy đóa hoa sen, vả lại ngước mắt nhìn xung quanh, một tay chỉ lên trời một tay chỉ xuống đất và tự nói một mình: “Trên trời dưới đất chỉ có ta được Tôn thôi”. Theo truyền thuyết thời đó, trên trời hoa hương phất phới rơi xuống, từ xa có chín con rồng phun nước tắm cho thái tử. Cha mẹ tuổi già được người con, vui mừng không thể tả. Sau khi đưa thái tử về cung, cả nước tiến hành lễ chúc mừng. Có tu sĩ A Tư Đà đến thăm, Ông nói thái tử có tướng mạo trang nghiêm và dự đoán rằng tương lai thái tử có thể làm Phật đà – Bậc Nhất thiết trí học rộng hoặc là Chuyển luân thánh vương, thống nhất toàn thế giới. Phụ vương đặt hy vọng rất sâu dày nơi thái tử, cho nên thỉnh riêng giáo đồ Bà La Môn nổi tiếng để chọn cho thái tử cái tên. Đó là Tất Đạt Đa, có nghĩa là tất cả công đức thành tựu và kiết tường.

            [Chú giải]

1/  A Tư Đà là tu sĩ theo giáo pháp Bà La Môn. Lúc thái tử Tất Đạt Đa chưa giáng sanh, vị tu sĩ A Tư Đà trong cảnh giới thiền định thấy thiên nữ hiện ra chuẩn bị làm tướng thùy rải hoa trong khi thái tử giáng sinh (Tướng “thùy” là tiếng Phạn còn gọi là thùy ứng, kỳ thùy, tường thùy, linh thùy, tức là hiện lên điềm vui vẻ chúc mừng).

2/ Chuyển luân thánh vương là người có phước đệ nhất thế giới. Có bốn loại phước báo:

a)      Có rất nhiều tài nguyên trân bảo, tài vật, đất đai – là đệ nhất thiên hạ.

b)      Tướng mạo trang nghiêm đoan chánh, đủ ba mươi hai tướng.

c)   Thân thể mạnh khỏe không bệnh và yên ổn vui vẻ.

d)   Thọ mệnh lâu dài – là đệ nhất thiên hạ.

Lúc Chuyển luân Thánh vương xuất hiện thì thiên hạ thái bình, nhân dân yên ổn, không có thiên tai, nhân họa. Đây chính là do trong đời quá khứ, Thánh vương phần nhiều tu phước nghiệp, mà không tu huệ nghiệp xuất thế thì chỉ có thể trở thành đại vương có phước báo thống trị thế giới, lại không thể tu hành ngộ đạo chứng quả.

2. Thời đại ấu niên và thiếu niên:

Thái tử Tất Đạt Đa đản sanh được bảy ngày thì mẫu hậu qua đời. Di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề là kế hậu của vua Tịnh Phạn, nuôi dưỡng thái tử, yêu thương Ngài xem như con ruột, khiến cho thái tử lớn lên và sinh hoạt trong hạnh phúc dễ chịu như  xưa.

Lúc bảy tuổi, thái tử bắt đầu đọc sách, vua Tịnh Phạn mời danh sư dạy thái tử học tập tiếng Phạn, nghiên cứu đọc ngũ minh và tứ phệ đà từ cạn đến sâu. Thái tử thông minh nghe một biết mười. Không mấy năm (Lúc mười hai tuổi) Ngài tinh thông tất cả việc học vấn. Sau đó, thái tử lại học binh pháp và võ thuật cũng đều được rất thông thạo. Có một lần trong hội thi võ của con em vương gia, thái tử đã biểu diễn cuộc đọ sức ưu việt với võ nghệ và cuộc bắn tên hơn người. Người giỏi nhất trong các vương tử, bắn một mũi tên chỉ có thể xuyên thủng ba trống, trong khi đó một mũi tên của thái tử lại có thể xuyên qua cả bảy trống.

Lúc mười sáu tuổi, Phụ thân lệnh cho thái tử kết hôn. Người mà Thái tử cưới là công chúa nước láng giềng, tên Gia Du Đà La, sau đó, sinh ra cậu bé tên La Hầu La. Khi La Hầu La mới lọt lòng, thì Thái tử thở dài rằng: “La Hầu La có tướng thị giả hộ trì chính pháp”. Ý nghĩa gốc là La Hầu La là sợi dây xích nằm ở cổ phụ thân.

Vua Tịnh Phạn rất thương thái tử và hy vọng Người kế thừa ngôi vua. Cho nên vua đặt biệt xây cho Người cung điện ba mùa (Lạnh – Nóng – Âm) và chọn nhiều cung nhân mỹ nữ hầu hạ để khiến thái tử trải qua đời sống khoái lạc. Nhưng thái tử Tất Đạt Đa lại không cảm nhận đựơc hứng thú đối với mọi phú quý khoái lạc của thế gian này.

            [Chú giải]

                        1/  Ngũ minh

a)      Thanh minh ngữ văn học

b)      Công xảo minh – công nghệ học

c)      Y phương minh – y dược học

d)      Nhân minh – luân lý học

e)      Nội minh tông giáo học

2/  Tứ phệ đà: (Phệ đà tiếng Phạn là Veda, là ý nghĩa minh trí).

a)      Lợi câu phệ đà – ca ngợi tông giáo.

b)      Sa ma phệ đà – văn tụng về nghi thức tế tự.

c)      Dạ nhu phệ đà –lời ca về nghi thức tế tự

d)      A xà bà phệ đà – chú thụât tương truyền thế tục.

           3. xuất gia:

Thái tử Tất Đạt Đa là một vương tử, nhưng Ngài nhìn thấy sự đãi ngộ không bình đẳng của bốn giai cấp Ấn Độ đương thời thì rất không hài lòng. Ngài thường nghĩ: “Thủ Đà La vì sao làm nô lệ? Lẽ nào họ không phải là người sao? Có biện pháp gì để khiến họ có được đời sống tự do bình đẳng?”.

Có một lần, thái tử Tất Đạt Đa theo Phụ vương đi đến miền quê du ngoạn. Nhìn thấy nông phu ở đồng ruộng, thân trên không có mặc áo, lại phơi mình dưới ánh nắng gay gắt, toàn thân là bùn lầy, mồ hôi nhễ nhại và thở hì hụt. Trên cổ của con trâu cày thì có sợi dây thừng ghì lại làm cho da trâu bị trầy và chảy máu, lại còn bị người nông phu quất roi. Trên phần đất đã đựơc cày thì lộ ra nhiều con trùng nhỏ, chim se sẻ bay đến giành nhau để mổ ăn. Thái tử sanh tâm đồng tình và khởi lòng từ bi, cảm thâý bần dân vì muốn sinh tồn mà bị thống khổ biết bao! Lại vì sinh mệnh mà đấu tranh tàn sát lẫn nhau. Đúng là một màn bi kịch lớn! Ngài bèn ở dưới gốc cây đại thọ mà lặng lẽ suy nghĩ: “Nên làm thế nào để giúp đỡ họ, để mọi người có được đời sống hợp lý?”. Thái tử suy nghĩ đến nỗi mê say, suýt nữa quên trở về cung. Sau đó, Ngài ra khỏi bốn cửa thành để du ngoạn, tình cờ thấy được tình huống thống khổ của người già, người bệnh, người chết, lại thấy được tinh thần khoái lạc của tu sĩ xuất gia. Nhân các khoảng tư duy này, Ngài biết con người thế nào cũng không tránh khỏi cảnh khổ đau: già, bệnh và tử vong. Vả lại, tất cả chúng sanh vì cầu sự sanh tồn của họ mà bèn gây ra tội lỗi chồng chất, thậm chí tàn sát lẫn nhau một cách không thương tiếc, tạo thành vô số bi kịch. Kết quả, con người vẫn hướng về con đường già – bệnh – chết mà đi. Trong kiếp sinh mạng thảm kịch này thì đời sống con người không hợp lý với mâu thuẫn đó. Vậy nên, làm thế nào để giải thoát khỏi khổ đau?.

Những vấn đề này khiến thái tử không thể an trú ở cung vua mà hưởng thụ những tôn vinh và phú lạc. Cuối cùng, trong một đêm trăng tròn sáng rực của năm đó lúc ngài 29 tuổi, Ngài hạ quyết tâm lớn nhất từ bỏ ngôi vị phú quý, cha mẹ, vợ con  mà chỉ đem người hầu Xa Nặc và cưỡi con bạch mã Kiều Đẫu, nhẹ nhàng rời bỏ cung vua. Ngài vượt qua dòng sông A Nô Ma đến thâm sơn với cánh đồng bát ngát để tìm cầu chân lý giải thoát khổ đau cho người đời.

            [Chú giải]

1/ Bốn giai cấp của ấn độ

a)      Bà la môn

b)      Sát đế lợi

c)      Phệ xá

d)      Thủ đà la

                              2/ Sông A Nô Ma (River Anoma) là con sông nhỏ tích tụ phù sa trải qua hơn hai ngàn năm. Hiện nay, hình như không có mưa. Sông đã cạn. Lúc thái tử Tất Đạt Đa rời cung vua, đã đi qua lưu vực sông này, men theo bờ và đi hướng về phía trước, lại vượt qua Phía nam của dòng sông này mà ngấm ngầm tìm đạo.

             4 .Quá trình tu hành:

Sau khi thái tử Tất Đạt Đa xuất gia, Ngài tự tay cắt rơi mái tóc bên bờ sông A Nô Ma, rồi khoác lên người chiếc áo Cà sa và bảo Xa Nặc mang áo, mão và bạch mã trở về cung, Xa Nặc khóc nghẹn ngào, bạch mã hí lên tiếng đau thương vì không muốn rời bỏ Thái tử.

Vua Tịnh Phạn trông thấy xa nặc trở về, lại nhìn không thấy thái tử cùng về thì đau buồn vạn phần. Lập tức nhà vua điều khiển đại thần đi tìm Thái tử trở về. Nhưng ý chí xuất gia của Thái tử rất kiên quyết, Ngài nói với đại thần đến tìm Ngài rằng: “Tôi nếu như không giác ngộ chân lý (thành phật) thề không trở về cung.” Quốc vương không còn cách nào khác đành phải chọn năm thanh niên trong thân tộc đi theo hầu thái tử  tu hành.

Thái tử hướng về cánh đồng mênh mông mà đi về phía trước. Ngài tiến vào rừng khổ hạnh của vị tiên Bạt Già. Trông thấy những người khổ hạnh đó vì cầu sanh thiên mà tu nhiều khổ hạnh, Ngài cảm thấy không phải là chánh đạo và lập tức phải rời khỏi nơi đây. Vị tiên khổ hạnh thấy chí đạo của Ngài khác thường mới nói với Ngài: “hãy đến rừng khổ hạnh phía nam sông Hằng để tìm danh sư, chắc chắn có thể đạt đến nguyện vọng”. Thế rồi, thái tử đi hướng phía nam vượt qua bờ nam sông Hằng và đến nước Ma Kiệt Đà, và Ngài ở trong thành Vương Xá khất thực. Sau khi khất thực Ngài đi về nham động Ban Đạt, thuộc đảo Bali (Inđônêxia). Vua Tần Bà Sa La biết được, vua một mình đến nham động Ban Đạt, đảo Bali để hỏi thăm thái tử và mời thái tử đi vào cung, cúng dường tất cả thức ăn, vật uống, yêu cầu được nhường ngôi cho thái tử, với tặng một nửa đất nước cùng tài vật cho thái tử và khuyên Ngài hoàn tục. Vì ý chí tu đạo kiên định, nên thái tử không tiếp nhận. Vua Tần Bà Sa La rất kính phục, nói với thái tử rằng: “nếu như Ngài thành Phật thì đừng quên độ tôi”. Thái tử nói: “đại vương, tôi nhất định có thể làm theo tâm nguyện của ông”. Thế rồi thái tử từ biệt vua Tần Bà Sa La, theo con đường thẳng nhỏ của rừng khổ hạnh lại đi tìm danh sư. Thái tử cùng năm người hầu hướng tới phía trước của cuộc hành trình đi tìm chân lý. Ngài hỏi thăm nhà sư tông giáo nổi tiếng lúc bấy giờ là A La La Ca Lan và Uất Đà ca La Ma Phất, nhưng học thuyết của họ đều không viên mãn, không có khả năng đáp ứng hy vọng của thái tử. Ngài bèn lìa họ và di thăm dò nơi khác.

Thái tử ở thôn U Ru Ve La nơi gần sông Ni Liên Thiền mà tu khổ hạnh. Trải qua đời tu sáu năm rất khắc khổ, hàng ngày ăn lúa mè, thân thể gầy ốm, tứ chi mất sức. Sau đó, Ngài tự biết khắc khổ quá đáng thì không thể hoạch được chân lý. Ngài bèn bỏ khổ hạnh mà nhận cháo sữa của Su Ja Ta, cô gái chăn bò, Ngài đã khôi phục sức khỏe. Năm người theo hầu cho rằng thái tử đã mất đạo niệm, nên không theo hầu nữa. Thế rồi, thái tử đến sông Ni Liên Thiền để tắm gội. Chất ô uế sáu năm qua đã được rửa sạch, Ngài đặt quyết tâm là phải truy cầu chân lý cho thật viên mãn.

           5. Thành đạo:

Thái tử Thích Ca một mình vượt qua sông Ni Liên Thiền, Ngài đi đến cây bồ đề Ca Da gần núi Ca Da, lúc bấy giờ có đồng tử cắt cỏ, là người đầu tiên lấy cỏ trải một tòa ngồi cho thái tử dưới cây bồ đề. Thái tử liền tĩnh tọa phía trên tòa cỏ. Ngài phát ra lời thệ nguyện kiên cường: “Tôi không thành chánh giác, thề không rời khỏi tòa này”. (Kinh phật gọi tòa này là Kim Cang Tọa).

           Trải qua đêm khuya của ngày thứ bảy, truyền thuyết cho rằng lúc này thái tử trong thiền định thấy hiện ra cảnh ma nhiễu loạn. Tức là ma vương Ba Tuần sai khiến ma nữ đến dụ hoặc Ngài và phát động ma binh, ma tướng đến đe dọa. Nhưng trước sau gì cũng không phá nổi những gì ma vương Ba Tuần làm Thái tử dao động. Kết quả là ma vương bị hàng phục. Truyền thuyết này chính là nói rõ trong quá trình tâm lý thì Ngài đã khắc phục được tình dục và uy thế trong nội tâm.

Sau khi hàng phục được ma vương, thái tử tập trung toàn lực tinh thần để vươn lên. Ngài vận dụng trí tuệ tối cao để suy nghĩ vấn đề chúng sanh đại địa. Cuối cùng vào nửa đêm đó (năm 588 trước công nguyên). Ngài được ba mươi lăm tuổi. Nhìn thấy minh tinh xuất hiện, Ngài chợt thông suốt giác ngộ tất cả chân lý và hoàn thành vô thượng chánh giác. Từ đó, người đời tôn xưng Ngài là Phật Đà. Thánh hiệu chính là Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chân lý mà Phật Đà giác ngộ là gì?. Điều quan trọng nhất là: Lý Pháp Duyên Khởi. Vũ trụ nhân sinh chính là từ duyên khởi mà có. Vạn pháp là do nhân duyên hòa hợp cùng nương theo mà tồn tại. Ví du: Thân thể chúng ta là do cha mẹ dưỡng dục là duyên, mà sinh mệnh là nghiệp lực của mình mang đến là nhân. Nghiệp lực phiền não của chúng ta là do quá khứ của mình tạo ra, cho nên chúng ta chịu sự chiêu cảm quả báo của thân thể này. Đã có đời sống thân thể quả báo, như thế già, bệnh, chết thì không thể tránh khỏi; cho nên, phải giải thoát nỗi thống khổ của sanh lão bệnh tử. Chỉ có tu đạo mới đoạn  trừ  được “Vô minh”, vì vô minh là phiền não căn bản.

Lúc Phật đà thành Phật dưới gốc cây bồ đề, Ngài nói rằng: “Lạ thay, lạ thay, chúng sanh trong đại địa đều có đức tướng trí tuệ của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc”. Điều này chính là nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật mà không có nguyên nhân và khả năng thành Phật là vì vô minh phiền não chướng nó che lấp Phật tánh. Vì vậy, việc thành đạo của Phật đà là việc liễu ngộ duyên khởi, đoạn trừ vô minh, huệ quang soi sáng, Phật tánh hiển hiện, nội tâm thanh tịnh, và Ngài đã thắp lên hào quang chân lý, chiếu diệu nhân gian.

            6. Nhiệm vụ thuyết pháp tế độ chúng sanh:

            Sau khi Phật đà thành đạo, Ngài bắt đầu công việc thuyết pháp tế độ chúng sanh.

            Lúc đầu, Ngài đến vườn Lộc Uyển giáo hóa năm người Kiều Trần Như v.v… Sau khi họ nghe Phật thuyết về Pháp Tứ Đế thì đắc đạo và trở thành năm vị Tỳ kheo. Đây là Tăng già có sớm nhất trong lịch sử Phật giáo.

            Lại có Da Xá, con ông Trưởng lão Câu Lê Ca nước Ba La Nại và năm người đều là bạn, cùng theo Phật xuất gia. Trưởng giả Câu Lê Ca và phu nhân cũng đến quy y Phật đà, họ trở thành Ưu bà tắc và Ưu bà di sớm nhất.

            Tiếp theo đó, Phật đà một mình lên núi Ca Da hóa độ ba anh em Ca Diếp. Ba người này là lãnh tụ giáo đồ thờ lửa. Người anh cả tên Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp có năm trăm đồ chúng, em thứ hai là Già Da Ca Diếp có hai trăm năm mươi đồ chúng, và em thứ ba là Na Đề Ca Diếp cũng có hai trăm năm mươi đồ chúng, cộng chung là một ngàn đồ chúng. Họ tập hợp đến để xuất gia và hết sức đề cao thanh danh của Phật đà. Phật đà dẫn ba anh em Ca Diếp và đồ chúng ngàn người đi đến nước Ma Kiệt Đà. Vua Tần Bà Sa La cung kính nghinh tiếp, đảnh lễ quy y, mà còn kiến trúc tinh xá Trúc Lâm hiến dâng cho Phật đà và chúng Tỳ kheo. Đây là một tòa tự viện đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, cũng là cơ sở thuyết pháp của Phật đà ở phía nam Ấn Độ xưa.

            Phật đà thuyết pháp tại tinh xá Trúc Lâm thì  có giáo đồ nổi tiếng trong thành Vương xá là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, cũng do sùng bái chân lý duyên khởi của Phật đà thuyết, mà kết hợp với hai trăm người đồ chúng của họ theo Phật xuất gia. Xá Lợi Phất thì đệ nhất trí tuệ, Mục Kiền Liên thì đệ nhất thần thông, họ đều trở thành trợ thủ chuyển pháp luân của Phật đà.

            Không bao lâu, có con của trưởng giả rất giàu có của nước Ma Kiệt Đà tên là Ma Ha Ca Diếp đến quy y Phật đà và trở thành đệ nhất đầu đà. Sau đó, Phật đà Niết bàn, ông được truyền thừa bình bát mà Phật đà để lại.

            Trưởng giả Tu Đạt Đa quy y Phật đà và xây dựng tinh xá Kỳ Viên ở thành Xá Vệ nước Kiều Tát La, ông hiến dâng đạo tràng cho Phật đà thuyết pháp. Tự viện này to lớn hơn tinh xá Trúc Lâm, là cơ sở thuyết pháp của Phật đà ở phía bắc. Vua Ba Tư Nặc và hoàng hậu Mạt Lợi của nước Kiều Tát La cũng đều đến quy y Phật đà và trở thành tín đồ Phật giáo hộ pháp trung thành của Phật đà.

            Năm thứ sáu, sau khi Phật đà thành đạo, Ngài trở về nước thăm phụ thân già yếu. Di mẫu của Ngài là Ba Xà Ba Đề và mấy người em họ như A Nan Đà v.v… và La Hầu La cũng tin Phật, sau này đều đã xuất gia. Vào một năm đó, lúc vua Tịnh Phạn tuổi thọ chín mươi ba và lâm bệnh nặng. Phật đà một mình lại trở về nước thuyết pháp cho phụ vương lúc lâm chung, tiễn đưa, chôn cất và bố thí tài vật tỏ lòng hiếu kính.

            Phật đà là người an ủi và là người cứu hộ của đại chúng. Ngài xem mọi người như là cha mẹ, con trai, con gái của mình để mà thương yêu và bảo vệ. Ngài giúp Tỳ kheo bị bệnh rửa vết thương, giúp Tỳ kheo già xâu kim may vá. Gia tộc Thích Ca và gia tộc Câu Lợi tranh giành nước uống, Ngài không từ khổ nhọc, đưỡng xá xa xôi, Ngài chỉ riêng một mình đi đến giúp họ điều giải. Tỳ Xá Ly bị bệnh dịch lưu hành, Phật đà không sợ truyền nhiễm, Ngài đích thân đi vào thành để an ủi người bệnh, giáo hóa bệnh nhân, vả lại hướng dẫn họ về phương pháp chính trị và dân chủ mà  một quốc gia cần phải có.       

            Phật đà dùng thái độ từ bi vô úy thâm nhập nhân gian để truyền bá chân lý Trung đạo. Phàm người nào đã tiếp xúc với Ngài, Người nào đã nghe Ngài thuyết pháp thì không ai mà không được cảm hóa sâu sắc và tín ngưỡng một cách chân thành.

            Tín đồ Phật đà từ quốc vương, hậu phi, đại thần cho đến bần dân, hành khất, nô lệ, mỗi một tầng lớp trong xã hội, Ngài đều trang trãi cho họ và chuẩn bị đầy đủ những gì họ cần phải có. Đây là sự biểu hiện tính vĩ đại của Phật đà về việc đề xướng bình đẳng, lòng từ bi để cứu độ chúng sanh.

            [Chú giải]

1/         Ưu bà tắc: là cận sự nam, tức là cư sĩ ở nhà thọ ngũ giới.

2/         Ưu bà di: là cận sự nữ, tức là cư sĩ ở nhà thọ ngũ giới.

3/         Đầu đà: tức là khổ hạnh.

4/         Nhân duyên Da Xá quy y Phật đà:

Da Xá là con trai của trưởng giả Câu Lê Ca ở thành Ca Thi. Người này trải qua đời sống phú lạc, nhưng vì đam mê tửu sắc nên khốn khổ bất an. Có một lần, sau khi tan buổi tiệc xa xỉ, ông đã uống say và trở về nhà nằm ngủ, nửa đêm nằm thấy ác mộng. Sau khi tỉnh dậy, ra ngoài phòng nhìn thấy cô vũ nữ, người tình của ông đang trêu đùa cùng một nhạc sư, nhân đó, ông bị ngọn lửa sân thiêu đốt, thần kinh điên đảo, ông liền rời khỏi gia đình, điên cuồng chạy rảo như kẻ mù không biết đường đi. Mãi đến Trời gần sáng, ông đi đến bờ sông gần vườn Lộc Uyển gặp Phật và than khổ. Ông được pháp âm an ủi của Phật đà ban cho, thì tinh thần của ông mới được khôi phục và ổn định. Do nhân duyên này, ông và cha mẹ ông đều quy y Phật đà. Không bao lâu, Da Xá xuất gia và bạn của ông năm mươi người cũng đến theo Phật xuất gia.

5/   Phật đà hóa độ ba anh em Ca Diếp:

Phật đà đến núi Ca Da, trước tiên Ngài hóa độ Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp. Trên núi này có một hang của con rồng lửa, rồng thường hại người, các ngoại đạo không dám đến gần rồng. Đức Phật lại đi hướng về hang rồng của Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp mà tá túc. Vào ngày mai, các ngoại đạo đi đến xem, thấy Đức Phật đã đem rồng lửa về hàng phục. Các ngoại đạo bèn kính tin và quỳ trước Phật, cùng với năm trăm đồ chúng của họ đều nghe pháp và chứng quả. Thế rồi họ lấy vật của ngoại đạo dùng mà bỏ xuống sông, vật trôi xuống hạ lưu. Già Da và Na Đề đang bơi dưới sông, thấy vật trôi thì kinh dị, sợ anh mình bị người hại, mới dẫn đệ tử đi thăm dò, vì nhân duyên này mà cũng được gặp Phật nghe pháp xuất gia. Mỗi người đều có đồ chúng hai trăm năm mươi người cũng xuất gia theo.

6/   Phật đà hóa độ vua Tần Bà Sa La:

Phật đà dẫn ba anh em Ca Diếp và đồ chúng của họ ngàn người đi đến nước Ma Kiệt Đà, vua Tần Bà Sa La cung kính nghinh tiếp Ngài và cho hoàng hậu Vi Đề và văn võ quan chức đều quy y Phật đà. Phật đà thuyết ngũ pháp riêng cho họ:

              a.    Bố thí: là phân phối tài vật mà mình có với tư cách là tự lợi, lợi tha. Đặc biệt là bố thí công đức mới được phước báo, hoạch được phú quý.

   b.   Trì giới: là phải tu trì ba nghiệp thân, khẩu, ý cho thanh tịnh.

   c.   Quả báo: là nói rõ công đức bố thí, trì giới, mới có thể sanh thiên.

   d.   Nhân ác: nói rõ tham dục là làm ác, không thể thoát khổ.

   e.   Tu hành: là phải tu tâm, học giới, định, huệ mới có thể đạt đến chỗ ly khổ đắc lạc.

7/   Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên :

Xá Lợi Phất: “Xá Lợi” Tàu dịch là thu lộ, “Phất” là tử (vì mẹ của ông là nữ luận sư Bà La Môn ở thành Vương Xá, nước Ma Già Đà, lúc sanh sản, mắt của bà tựa như chim Xá Lợi, bà mới cho bà là Xá Lợi. Vì vậy, ông có tên là Xá Lợi Phất (tức là con của Xá Lợi). Cho nên ông được gọi là Xá Lợi Phất, hoặc là Xá Lợi Tử, còn gọi là Thân Tử. Ban đầu, ông là người ngoại đạo, giữa đường gặp tỳ kheo Ma Đằng và được nghe giảng về pháp lý Nhân duyên, ông liền mời bạn tốt của mình là Mục Kiền Liên theo Phật xuất gia. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là hai vị đại đệ tử của Phật trước khi Phật nhập diệt.

                        8/   Ma Ha Ca Diếp:

              “Ma Ha”, Tàu dịch là “Đại”, cũng gọi là Đại Ca Diếp là một trong mười đại đệ tử của Phật. Thân có ánh sáng màu vàng kim, lấp lánh chiếu và khiến các ánh sáng khác bị che lấp, cho nên cũng gọi là “Đại ẩm quang”. Lúc ông chưa xuất gia, gia cảnh giàu có, vì căn thiện đời trước có sẵn nên ông sớm phát nguyện tu đạo. Tuy cha mẹ của ông cưới người con gái đẹp cho ông làm vợ, nhưng ông lại giao ước với vợ là chỉ trên danh nghĩa vợ chồng thôi. Sau khi nghe Phật thuyết pháp ở tinh xá Trúc Lâm, được Phật đà quy y cho ông, ông tu trì khổ hạnh đầu đà và trở thành đệ nhất đầu đà. Sau đó, Đức Phật niêm hoa trước chúng, Đại Ca Diếp lãnh hội được ý Phật mà mĩm cười. Ông thọ nhận Nhãn tạng chánh pháp, được truyền tâm ấn của Phật và trở thành sơ tổ của thiền tông.

9/      Trưởng giả Tu Đạt Đa:

           Là đại thần của vua Ba Tư Nặc, ông thích làm công việc thiện, giúp đỡ người cô quả bần cùng, lại được gọi là Trưởng giả Cấp Cô Độc. Lúc ông đến thành Vương Xá để thăm bạn, một mình đi bái kiến Phật đà, và thỉnh Phật đi đến thành Xá Vệ tuyên giảng Phật pháp. Ông một mình hướng về vườn hoa thái tử Kỳ Đà để mua đất, xây dựng tinh xá Kỳ viên cúng dường Phật đà làm đạo tràng thuyết pháp. Nhân đó, ông được thái tử  Kỳ Đà tặng cây trong vườn hoa, cho nên tinh xá Kỳ Viên còn gọi là “Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên”

10/    Vua Ba Tư Nặc quy y Phật đà:

           Ba Tư Nặc, quốc vương của nước Kiều Tát La, biết Thái tử  Kỳ Đà, con của ông đem vườn hoa thành Xá Vệ ở Thủ đô bán cho trưởng giả Tu Đạt Đa để xây dựng tinh xá Kỳ Viên cúng dường Phật đà, ông sớm đã ngưỡng mộ trước Phật đà. Có một hôm, ông dẫn dắt năm trăm quan đại thần đến tinh xá để bái kiến Phật đà. Vua Ba Tư Nặc hỏi: “Nghe nói ông là một vị Phật đà đại giác ngộ, cho nên tôi đến để bái kiến. Nhưng tôi cảm thấy có nhiều người tu đạo, tu hành lâu năm ở trong tùng lâm núi sâu, mãi đến tuổi già yếu vẫn không thể giác ngộ. Ngài thì trẻ tuổi thế này, làm sao mà đạt đến chánh giác?”. Phật đà đáp rằng: “Trên thế giới có bốn việc không thể xem nhẹ. Tức là:

a)      Vương tử lúc nhỏ tuổi sẽ là đại vương thống trị quốc gia trong tương lai.

b)      Rồng nhỏ lúc mới sanh là rồng lớn của vị lai.

c)      Lửa đốm nhỏ có thể thiêu cháy cánh đồng.

d)      Tăng lữ trẻ tuổi chỉ cần tâm có thể thanh tịnh, giữ gìn đạo nghiệp, hoằng pháp lợi sanh, bất luận già trẻ, giàu nghèo đều có khả năng đạt đến chánh giác.

              Cho nên, bốn việc trên thật là không thể xem thường.”

              Phật đà lại hướng về vua Ba Tư Nặc nói rõ về Phật tánh bình đẳng: “Mỗi người chỉ cần đoạn ác tu thiện, chuyển mê thành ngộ, đều có thể thành Phật. Sau khi vua nghe, rất tin phục, bèn quy y Phật đà và trở thành đại hộ pháp trung thành của Phật giáo.

11/    Phật đà trở về nước và các vương tử xuất gia:

  Các vương tử A Nan Đà, Đề Bà Đạt Đa, A Na Luật, Bạt Đề, Bà Sa theo Phật xuất gia. Em ruột của Phật đà là Nan Đà và con là La Hầu La trước sau đều theo Phật xuất gia.

12/    A Nan Đà:

Tàu dịch là “Khánh Hỷ” có tướng mạo trang nghiêm, sức trí nhớ rất dai, hai mươi lăm năm làm thị giả Đức Phật, là đệ nhất đa văn.

        7. Niết bàn (viên tịch):

            Phật đà thuyết pháp bốn mươi lăm năm, bôn ba nơi pháp tòa không chút rãnh rỗi cho nhục thể, chân dẫm lên khắp hai bờ sông Hằng. Năm đó, Ngài được tám mươi tuổi, từ  nước Ma Kiệt Đà đến Tỳ Xá Ly, Ngài làm sự giáo huấn một lần sau cùng. Lúc này thân thể Phật đà bị nhiễm bệnh, tự biết sẽ Niết bàn nội trong ba tháng, mà Ngài còn đi dần về phía trước. Mỗi lần đi qua một thôn trang, Ngài bèn lợi dụng thời gian để nghỉ ngơi, rồi hướng về thôn dân để thuyết pháp. Ở thôn Ba Bà, Ngài tiếp nhận sự cúng dường sau cùng của người thợ kim thuộc tên Thuần Đà (thợ sắt). Xu hướng bệnh của Ngài càng nặng. Thế rồi, Ngài lại đi bộ đến cây Sa La Song Thọ ở ngoại thành Câu Thi Na La, Phật đà chọn nơi khoảng giữa của hàng Sa La Song Thọ làm chỗ nhập Niết bàn.

            A Nan Đà đã trải xong Y Tăng Già Lê (đại y) của Phật đà. Lúc Ngài hạ hông bên phải để nằm xuống, thì A Nan Đà phủ kín Y Tăng Già Lê cho Phật đà và Phật đà đã mỏi mệt không kham được. Lúc đó, một vị ngoại đạo tên Tu Bạt Đà La (Subahadra) đến xin gặp, Phật đà lại phấn chấn tinh thần nghiêng về phía ông mà thuyết pháp và ông trở thành đệ tử hóa độ sau cùng. A Nan Đà v.v… theo làm thị giả Phật đà, thấy xu hướng bệnh của Ngài trầm trọng mười phần khó qua. Đức Phật nói với A Nan Đà v.v… rằng : “Ta khó qua khỏi, các con hãy tin tưởng và can đảm phó thác mình, hãy mau nắm đèn chân lý, hãy cầu giải thoát trong chân lý”. A Nan Đà ba phen thỉnh Phật ở đời, Phật đà đáp: “Tự tánh của vạn pháp vẫn quy về ở sự tịch diệt. Ai ai có sanh ắt có tử, nhục thể của ta làm sao vĩnh viễn tồn tại? Sinh mệnh của ta chấm dứt ở đây, ắt phải theo pháp tánh tự nhiên mà quy về tịch diệt”. Các vị La Hầu La, A Nan Đà và A Na Luật nghe rồi đều không ngăn được dòng lệ! Thế rồi, chúng đệ tử cùng đề cử A Nan Đà thỉnh vấn Phật đà bốn vấn đề:

                              1/ Lúc Phật đà ở đời, chúng con nương theo Phật đà làm thầy. Sau khi Phật đà Niết bàn, chúng con nương theo ai để làm thầy?

                              2/   Lúc Phật đà ở đời, chúng con nương theo Phật đà an trụ. Sau khi Phật đà Niết bàn, chúng con nương vào đâu để an trụ?

                              3/   Lúc Phật đà ở đời, Tỳ kheo tánh ác có Phật đà điều phục. Sau khi Phật đà Niết bàn, Tỳ kheo tánh ác được điều phục như thế nào?

                              4/   Lúc Phật đà ở đời, ngôn giáo của Phật đà khiến mọi người dễ sanh lòng tín giải. Sau khi Phật đà Niết bàn, kinh điển kiết tập như thế nào mới có thể khiến cho người khởi tin?

            Phật đà nói: “Ta đáp lại cho các con bốn vấn đề, các con cố gắng nhớ:

                              1/   Sau khi ta Niết bàn nên dựa theo giới luật làm thầy.

                              2/   Sau khi ta Niết bàn nên dựa theo Tứ niệm xứ an trụ.

                              3/   Sau khi ta Niết bàn, tỳ kheo có tánh ác nên “Tránh xa” (không vãng lai và đàm thoại với họ), hãy để ý điều này.

                              4/   Sau khi ta Niết bàn, các câu ở đầu câu của tất cả kinh điển nên để “Như thế, tôi nghe” để làm chứng tín.”

           A Nan Đà và chúng đệ tử bên thân Phật đà rơi lệ. Phật đà an ủi, giống như con thuyền từ mẫu rằng: “Các con đừng bi thương, giáo pháp mà ta nói một đời rất nhiều, chỉ cần các con y theo để thực hành, thì chính là pháp thân của ta vĩnh viễn ở thế gian này”. Ngài còn nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Người siển đề đoạn trừ thiện căn cũng có thể thành Phật”. Nửa đêm trăng tròn tháng năm, Ngài đã nhập Niết bàn một cách thong dong an tĩnh.

             Quốc vương nước Câu Thi Na La và các chúng đệ tử của Phật đà đã cử hành lễ hỏa táng rất long trọng cho Phật đà. Xá Lợi của Phật do quốc vương của tám nước thỉnh để xây tháp cúng dường. Các tháp Xá Lợi này, mãi đến bây giờ vẫn còn lưu lại ở nhân gian, mà tinh thần từ bi cứu tế một đời của Phật đà vĩnh viễn cho chúng ta ngưỡng mộ và sùng bái.

            [Chú giải]:

1/   Phạn ngữ “Niết bàn”, Tàu dịch là “Viên tịch”, tức là tất cả trí đức được viên mãn, tất cả hoặc nghiệp đều tịch diệt.

2/   Phạn ngữ  “Xá Lợi”, Tàu dịch là linh cốt hoặc là kiên cố tử, là công đức tu Giới, Định, Huệ kết tinh mà thành.

         8.  Chân lý tôi viên mãn:

            Phật Đà đem chân lý giác ngộ của Ngài thuyết ra, để chỉ rõ cho chúng ta phương pháp thế nào là làm người? Và do làm người như thế nào mới thành Phật? Điều này chính gọi là làm “Phật pháp”.

            Sau khi Phật Đà thành đạo cho đến khi Niết bàn, Ngài mãi tuyên thuyết Phật pháp. Từ bài thuyết pháp ban đầu ở vườn Lộc Uyển cho năm Tỳ kheo, đến bài thuyết pháp sau cùng ở Câu Thi Na La cho Tu Bạt Đà La. Phật pháp mà Ngài đã thuyết từ ba mươi lăm tuổi đến tám mươi tuổi, tất cả là bốn mươi lăm năm.

            Những giáo pháp này là của Phật Đà, thuyết vào năm đó Ngài nhập Niết bàn (tức là 90 ngày, sau khi Đức Phật nhập Niết bàn). Do năm trăm đại A La Hán cùng đề cử  Ma Ha Ca Diếp làm trưởng tòa, và tập hợp để biên tập tại nham động Thất Diệp, núi Linh Thứu, ở ngoài thành Vương Xá. Đầu tiên, vì giữ giới nên Ưu Ba Li tụng ra luật tạng. Kế đến, do A Nan Đà, đệ nhất đa văn tụng ra kinh tạng. Trải qua ấn chứng của đại chúng, giáo pháp của Đức Phật đã hoàn thành việc kiết tập lần thứ  nhất.

          Sau đó, kinh điển lại trải qua việc tập hợp và chỉnh lý mấy lần, hon nữa được phiên dịch lại thành các loại văn tự, truyền bá đi đến các nước trên thế giới. Kinh Phật mà Trung Quốc phiên dịch, mãi lưu truyền đến bây giờ, gọi chung là : “Đại tạng kinh”, thì rất có giá trị văn hiến.

          Nội dung của Phật pháp đã nói rõ chân tướng vũ trụ, ý nghĩa đời sống con người và phép tắc đạo đức. Mục đích của Phật pháp là dạy chúng ta làm thế nào để ngưng ác hành thiện, chuyển mê thành ngộ, lìa khổ được vui, quên mình lợi người. Phật pháp thật là chân lý tối viên mãn trên thế giới, là học vấn mà đời người rất cần. Ai ai cũng có khả năng để nghiên cứu, tu học Phật pháp và hoằng dương chánh pháp mới có thể chuyển ta bà thành cực lạc.

II    TÁM TƯỚNG THỊ HIỆN CỦA THÍCH TÔN:

               Tám tướng thị hiện là sự tích của một thời đại Phật đà được thuật đơn giản như sau:

               1.   Giáng Đâu suất: Đầu tiên, Ngài trụ vào nội viện của cõi trời Đâu suất Đà. Muốn giáng sinh nhân gian, trước hết Ngài quan sát cơ duyên thích hợp của năm hạng bậc, tức là: thời gian, địa điểm, quốc gia, gia đình và cha mẹ, rồi sau đó giáng xuống nhân gian.

              2.    Thác thai: Ngài cưỡi voi trắng sáu ngà, miệng voi ngậm hoa sen trắng, giáng vào thai mẹ.

              3.    Xuất sanh: Ngày trăng tròn tháng năm của năm 623 trước công nguyên, ở vườn Lâm Tỳ Ny,  Ngài theo hông bên hữu của Ma Da phu nhân mà xuất sanh.

              4.    Xuất gia: Năm Ngài hai mươi chín tuổi, quán sự vô thường của thế gian và muốn truy cầu chân lý đời người trong vũ trụ để giải thoát đau khổ của sinh tử, nên Ngài lìa bỏ cung vua để đi vào núi tu đạo.

              5.    Hàng ma: Ở rừng khổ hạnh gần sông Ni Liên Thiền, sau khi tu khổ hạnh sáu năm, Ngài đến dưới cây đại bồ đề gần núi Già Da, và hàng phục ma quân trên tòa Kim Cang.

  6.    Ngày trăng tròn tháng năm của năm 588 trước công nguyên, ban đêm Ngài thấy sao vàng sáng rực, bỗng nhiên ngộ đạo. Năm đó, Ngài ba mươi lăm tuổi (nơi thành đạo tức là bồ đề Già Da Ấn Độ bây giờ.)

             7. Chuyển Pháp luân:

             Sau khi thành đạo, Ngài thuyết pháp độ sanh, thời gian bốn mưới lăm năm.

             8.     Nhập Niết bàn:

            Ở đời, Ngài thọ tám mươi tuổi, thị nhập Niết bàn giữa hàng cây Sa La Song Thọ, thành Câu Thi Na La.

            Trong kinh Nhân quả, có nói đến truyền thuyết về đời trước của Phật đà:

            Về đời trước, thuở quá khứ vô lượng kiếp, lúc bấy giờ có Phật Nhiên Đăng trụ ở đời, và có một vị tiên nhân tên là Thiện Huệ, vị này quy y với Phật và mua được năm nhành hoa sen để cúng dường Phật. Lúc bấy giờ, Phật Nhiên Đăng thọ ký cho tiên nhân Thiện Huệ rằng: “Tương lai thành Phật Thích Ca Mâu Ni”. Có một hôm, tiên nhân Thiện Huệ thấy Phật Nhiên Đăng đến. Vì đất bùn lầy, Thiện Huệ liền đem áo da nai đang mặc trải trên đất, lại lấy tóc trên đầu rải lên, đợi Đức Phật đi qua. Thế rồi, Phật Nhiên Đăng thọ ký thêm cho Thiện Huệ rằng: “Tương lai thành Phật ở thế giới Ta bà để độ chúng sanh”. Thiện Huệ bèn xuất gia tu hạnh Bồ tát, mãi đến khi Đức Phật Ca Diếp trải qua bao nhiêu thời kiếp, thì công hạnh của Bồ tát Thiện Huệ mới được viên mãn, khi Ngài mệnh chung được sanh vào cõi Trời Đâu suất.

            Xét:

            Cõi Đâu suất, chính là cõi trời Dục giới ở. Cõi này có hai viện, viện trong và viện ngoài. Viện ngoài chính là chỗ cư trú hưởng phước của Người và Trời, sung sướng vô cùng. Viện trong chính là các vị bổ xứ lên, là chỗ Bồ tát sắp sửa kế thừa ngôi vị của Phật mà ở. Công đức tu của Bồ tát viên mãn thì hết một đời này liền có thể thành Phật. Vì thế lại gọi là Nhất sanh bổ xứ. Bồ tát Thiện Huệ đã lên bổ xứ, ở trong cõi này mà diễn thuyết diệu pháp cho các chúng trời, cùng việc theo dõi và quán sát nhân duyên về căn tánh của các chúng sanh đã thành thục. Thời cơ đã đến, Bồ tát liền xuống sanh ở nhân gian mà thành tựu Phật đạo.

            Khi Bồ tát từ cõi trời Đâu suất giáng xuống nhân gian, thị giả của chư thiên phóng đại quang minh, Bồ tát cưỡi voi trắng sáu ngà, miệng voi ngậm hoa sen trắng, oai thần vòi vọi, giáng vào thai mẹ vào lúc sao sáng xuất hiện mà ứng hiện ở đời. Đây đúng là cốt truyện của tướng lẻ tẻ trong tám tướng thị hiện của Đức Phật.

 

III   GIẢI THÍCH GIẢN LƯỢC VỀ HỌ TỘC PHẬT ĐÀ :

Giải thích sơ lược về sự phân biệt họ gia tộc của Phật Thích Ca Mâu Ni- họ chủng tộc – bốn lọai họ và các dân tộc trực thuộc.

1.      Tất Đạt Đa Kiều Đạt Ma:(tiếng pali là SIDDHATTHA GOTAMA, tiếng phạn là SIDDHARTHA GAUTAMA) – Tất Đạt Đa là tên thời thơ ấu của thích Ca Mâu Ni, có nghĩa là “kiết tường” và “tất cả công đức thành tựu”. Kiều Đạt Ma là họ gia tộc của Phật Đà, có thể gọi tắt là Kiều Đạt Ma, chính là họ của thái tử Tất Đạt Đa, cũng có người dịch GOTAMA là Cù Đàm.

2.      Phật Thích Ca Mâu Ni: (SAKYAMUNI BUDDHA) - Thánh hiệu tôn xưng sau khi Phật thành đạo là Thích Ca Mâu Ni Phật. Đây là dùng chủng tộc của Thích Ca làm họ mà không dùng Kiều Đạt Ma gia tộc làm họ, cho nên nói “Thích Ca “là họ của Phật, “Mâu Ni” là tên của Phật.

3.      Thích Ca Mâu Ni là thuộc về vương tộc Sát đế lợi, giai cấp thứ hai của bốn loại họ của Ấn Độ xưa( hoặc goi là bốn họ, tức là bốn giai cấp).

4.      Nếu như lấy việc phân bố dân tộc của thế giới để mà nói thì lúc đó hơn hai ngàn năm trước công nguyên, dân tộc Nhã Lợi An xâm nhập Ấn Độ, họ đã chinh phục người Đạt La La Điện, dân tộc nguyên thủy của Ấn Độ. Quốc gia mà họ xây dựng sau khi định cư là thuộc về dân tộc Nhã Lợi An .

5.      Bốn họ của Ấn Độ xưa (bốn giai cấp), giai cấp cao quí nhất là Tăng lữ, gọi là Bà La Môn, nhiệm vụ của họ là giảng truyền kinh điển, chuyên lo cúng tế , được hưởng đặc quyền. Giai cấp thứ hai là quí tộc và quốc vương, gọi là Sát Đế Lợi. Giai cấp thứ ba là Phệ Xá, nhiệm vụ của họ là canh tác, trồng  trọt ruộng vườn, kinh doanh công thương nghiêp, không có đặc quyền. Giai cấp hạ tiện nhất là nô lệ và hầu hạ, gọi là Thủ Đà La, nhiệm vụ của họ là phục dịch ba giai cấp trên, có thể nói ngay cả quyền lợi làm người cũng đều không có. Sau khi phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo, Ngài chứng ngộ thấy rằng: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, nên ngài đề xướng lòng từ bi bình đẳng. Vì thế, lúc đó ngài có thể chiết phục giáo đồ Bà La Môn đến qui y phật giáo.

[Chú giải ]:

IV   DỊCH GIẢI THÁNH HIỆU PHẬT ĐÀ:

             Sau khi thái tử Tất Đạt Đa Kiều Đạt Ma thành đạo, thánh hiệu được gọi là Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca là họ của Phật, dịch nghĩa là “Năng nhân”, Mâu Ni là tên của Phật, dịch nghĩa là “Tịch mặc”. Năng nhân là tượng trưng cho đức hạnh của Phật Đà có lòng từ bi cứu thế, hy sinh quên mình lợi người. Tịch Mặc là nói chân lý vũ trụ nhân sinh mà Phật ĐÀ đã chứng ngộ, biểu trưng cho công năng trí huệ cao thâm tối thắng có tự lợi của Ngài .

Phật: tiếng Phạn là Phật đà da (BUDDHA), ý nghĩa là đấng giác ngộ, là bậc thánh tiên tri, tiên giác. Đấng giác ngộ này có ba nghĩa, một là tự giác, hai là giác tha, ba là giác hạnh viên mãn. Cho nên Phật đà là bậc đại thánh có đầy đủ vạn đức và ba giác viên mãn.

V   THÁNH ĐỊA CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ:

       Thánh địa của Phật giáo Ấn Độ được thuyết minh rằng:

1.Thích Ca Mâu Ni Phật là thái tử của vua Tịnh Phạn, nước Ca Tỳ La Vệ.

2.      Vườn Lâm Tỳ Ni là nơi đản sanh của Phật đà.

3.      Bồ đề Ca Da là nơi thành đạo của Phật đà.

4.      Vườn Lộc Uyển của nước Ba La Nại là nơi chuyển pháp luân đầu tiên của Phật đà. Phật đà thuyêt pháp tứ đế cho Kiều Trần Như v.v… mà trong lịch sử, Phật giáo gọi bài pháp mà Phật thuyết lần này là Kinh chuyển pháp luân (PRAVARTA SUTRA). Năm người Kiều Trần Như v.v… nghe Phật thuyết pháp mà ngộ đạo, là năm Tỳ kheo ban đầu trong lịch sử Phật giáo, cũng tức là có sự bắt đầu của Tăng già.

5.      Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt Đà, xây dựng tinh xá Trúc Lâm ở thành Vương Xá cúng dường đạo tràng cho Phật thuyết pháp, là một tòa tự viện lớn có sớm nhất trong lịch sử Phật giáo.

6.      Xá Vệ thành là đô thành của nước Kiều Tát La. Trưởng giả Tu Đạt Đa xây dựng tinh xá Kỳ Viên này để cúng dường đạo tràng cho Phật đà thuyết pháp, là tòa tự viện lớn thứ hai trong lịch sử Phật giáo.

7.       Câu Thi Na La thành, tức là đô thành của nước Câu Thi Na La, là nơi Niết bàn của Phật đà. Phật đà Niết bàn ở giữa hàng cây Sa La Song thọ, thành Câu Thi Na La. Vương quốc của nước Câu Thi Na La là vua Ma La Tư (The King of the Mallas of Kusina) cùng  các cao Tăng sắp xếp cho di thể của Phật đà, và cử hành lễ hỏa táng ở phía đông thành.

8.      Sau khi Phật nhập Niết bàn, Ngài Ma ha Ca Diếp được năm trăm vị đại A la Hán cùng nhau đề cử Ngài làm thượng thủ và cử hành kiết tập tạng kinh lần thứ nhứt ở nham động Thất Diệp, núi Linh Thứu, ngoài thành Vương xá. Kinh tạng được A Nan Đà đệ nhẩt đa văn tụng ra, Luật tạng được Ưu Ba Li đệ nhất trì giới tụng ra.

9.      Vật kỷ niệm hiện tại về việc kiến trúc Tứ thánh địa của Phật giáo Ấn Độ là:

1)      Vườn Lâm Tỳ Ni có trụ đá do vua A Dục xây dựng.

2)      Bồ đề Ca Da có đại tháp Kim Cang (còn gọi là tháp Đại bồ đề).

3)      Vườn Lộc Uyển có tháp Chuyển pháp luân.

4)      Thành Câu Thi Na La có tháp Niết bàn.


 

VI    LỊCH PHẬT VÀ CỜ PHẬT:

            Hội hữu nghị Phật giáo thế giới vào năm 1950 dương lịch là hội nghị lần thứ nhất được cử hành tại CoLomBo, đảo Srilanca Ấn Độ, thảo luận về sự thật lịch sử có liên quan với niên đại giáng sinh - thành đạo - niết bàn và năm tháng xuất gia – thành đạo – niết bàn của Đức Phật. Theo lịch sử Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền ghi chép thì mỗi bên có khác, cho nên lịch Phật được làm ra quy định chung như sau:

1.   Phật đà giáng sinh vào ngày trăng tròn tháng năm của năm 623 trước công nguyên.

2.   Lúc Phật đà xuất gia là hai mươi chín tuổi. Tức là ngày trăng tròn tháng năm của năm 588 trước công nguyên. Ban đêm, Ngài thấy sao sáng rực mà ngộ đạo.

3.   Phật đà thuyết pháp bốn mươi lăm năm, nhập Niết bàn tám mươi tuổi. Tức là nhập diệt vào nửa đêm của ngày trăng tròn tháng năm, năm 543 trước công nguyên.

   4.   Lịch Phật được tính ra từ  khi Đức Phật nhập Niết bàn.

           Phương pháp tính lịch Phật: tức là lấy năm mà Phật giáng sinh 623 trước công nguyên trừ đi 80 tuổi của Phật thì được niên số của Phật nhập Niết bàn là 543 (Phật Niết bàn vào năm 543 trước công nguyên). Ví dụ, lại đem 543 cộng cho năm nay 1972 dương lịch thì được 2515 năm. Nhưng tính đến ngày Phật đản năm nay nên cộng thêm một năm. Cho nên lịch Phật năm nay sau ngày Phật đản của năm 1972 là 2516 năm. Phương pháp tính lịch Phật là dựa theo cách tính này mà suy ra.

         Nếu như tính từ khi Phật đà giáng sinh đến bây giờ có được bao nhiêu năm? Thì nên lấy năm 623 trước công nguyên lúc Phật giáng sinh, lại cộng cho năm nay năm1972 dương lịch thì được 2595 năm, nhưng đến ngày chào mừng Phật đản năm nay cộng thêm một năm thì đã có 2596 năm.

         Còn hội nghị lần này, thảo luận về việc quy định có quan hệ với cờ xí của Phật giáo: tức là căn cứ vào Thánh thể của Phật đà lúc thành đạo, Ngài phóng ra sáu loại màu sắc ánh sáng để chế thành cờ Phật: 1. màu lam 2. màu vàng 3. màu hồng 4. màu trắng 5. màu chanh  6. năm màu có trên là màu cờ hỗn hợp. Như bản đồ:

BẢN ĐỒ CỜ XÍ CỦA PHẬT GIÁO:

 

LAM

VÀNG

HỒNG

TRẮNG

CHANH

LAM

VÀNG

HỒNG

TRẮNG

CHANH

 

VII    Ý NGHĨA NGÀY PHẬT ĐÀ HOẶC VỆ TẮC TIẾT

(ngày kỷ niệm Phật đà):

            Vệ Tắc Tiết (Vesak) là cách gọi đơn giản của một danh từ “Vệ Tắc Tiết” (Vaisakha), là cái ngày của tháng năm ở nước Ấn Độ xưa. “Vệ Tắc” mà đệ tử Phật giáo chúng ta nêu lên thì không phải để nói lên một tháng đó, mà nói lên một ngày, là một ngày đó (ngày 15 tháng 4 âm lịch) của ngày trăng tròn, tháng thì tháng năm của thần thánh. Cho nên Vệ Tắc là ý nghĩa của ngày trăng tròn.

   Vào tháng 9 năm 1967 dương lịch, hội hữu nghị Phật giáo thế giới ở Bankok nước Thái Lan, đã cử hành hội nghị lý sự. Vệ Tắc Tiết mà nghị quyết vốn lập ra, được đổi thành “Ngày Phật Đà (Buddha day). Vào tháng 4 năm 1968 dương lịch, hội Thế Hữu họp tại phòng họp Tammany, thành phố Washington, đã cử hành đại hội Giới thứ chín, quyết định lần hai để lấy ý kiến và đổi Vệ Tắc Tiết thành “Ngày Phật đà” (nếu như chúng ta có thói quen dùng Vệ Tắc Tiết thì vẫn có thể dựa theo mà dùng). Như vậy, ngày Phật đà chính là ngày biểu thị ánh sáng rực rỡ của trí tuệ, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn của Phật Đà. Ánh sáng đó chiếu diệu toàn cầu, làm tăng trưởng ý nghĩa tông giáo về các lòng từ bi bình đẳng. Ý nghĩa của ngày này làm cho việc khởi xướng hòa bình thế giới càng thấu triệt và hoàn toàn thích hợp.

            Ngày nghỉ hoặc thánh tiết chỉ là kỷ niệm một việc nào đó, có lúc là sinh nhật của người nào, hoặc ngày độc lập, ngày ghi nhớ công lao chiến thắng của một nước. Còn Vệ Tắc Tiết hoặc ngày Phật đà không chỉ kỷ niệm một việc, mà kỷ niệm ba sự kiện, ba đại sự trong một đời của Phật đà, ngày kỷ niệm sự tích của một thời đại giáng sinh, thành đạo và Niết bàn. Vì Phật đà giáng sinh, thành đạo, niết bàn đều là ngày trăng tròn tháng năm dương lịch (the full Moon of May), cho nên ngày này cũng được gọi là ngày chúc mừng thống nhất ba thời kỳ.

            Nhưng có người gọi là “Hoa tiết”, theo truyền thuyết vì Phật ra đời ở vườn Lâm Tỳ Ni, lúc đó trên trời rải xuống nhiều hương hoa. Lúc Đức Phật nhập Niết bàn, trên trời cũng rải hoa. Còn ở cõi này, chúng ta thường cúng các loại hoa hoặc nước thơm, trái cây tươi. Dù cho cúng lễ vật gì cũng chỉ là biểu thị sự cung kính, ái mộ trước Phật mà thôi.

               Còn về hội ủy viên Vệ Tắc, của tổ chức đoàn thể Phật giáo, đặc biệt là dùng xe hoa du hành, treo cờ xí Phật giáo. Tất cả đây, không phải là để thu hút sự chú ý của mọi người đối với ngày lễ này, mà còn có các việc bố thí, tụng kinh, đều là để thúc đẩy đệ tử Phật giáo hành thiện tu đức mà chớ quên thánh giáo. Đệ tử  Phật giáo dù cho bận rộn thế nào đi nữa, vẫn tham gia các việc du hành đối với ngày chúc mừng Phật Đản. Từ chỗ không bỏ qua mà còn tham gia có thành ý hết sức vui vẻ, thì việc tiết lộ nhiệt thành của nội tâm này là sự biểu hiện rất tự nhiên.

               Ở Trung Quốc cho rằng ngày mùng tám tháng tư  âm lịch của mỗi năm, là ngày Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh, mà trong những năm gần đây cho đến nay, hội Phật giáo Trung Quốc cũng có lúc thuận theo xu hướng đổi và dùng ngày dương lịch là ngày tám tháng tư.

 

VIV    CẢNH GIÁC CHÚNG TA NÊN CÓ:

            Từ chương chín đến chương mười hai là khuyến khích chúng ta phát bồ đề tâm, siêng tu Phật đạo vô thượng và cương lĩnh tu hành.

            1.   Pháp thế gian vô thường:

Trước tiên nói về hoàn cảnh môi trường: vì nó là cách nhìn chung của bên trong tam giới. Toàn bộ thế gian, bất luận là vật lớn hay nhỏ, tế hay thô đều theo luật thành - trụ - hoại - không mà không ngừng biến hóa, do không mà có là “thành”, thành đến bão hòa là “trụ”, rồi theo sự biến hoại là “hoại”, hoại đến nỗi không còn là “không”. Như một loại đồ sành trong phòng ốc, cố nhiên là phải thành - trụ - hoại - không. Chính là núi non, biển cả, theo đó cũng phải thành - trụ  - hoại- không. Cho nên biển xanh kể ra cũng biến thành tang điền, tang điền kể ra cũng biến thành biển xanh. Vậy chúng ta có thể thấy vạn pháp là vô thường, quyết định không có một vật nào có thể làm chỗ dựa.

            Lại nữa, trong thế gian, tất cả loài hữu tình, bất luận là bần cùng hay phú quy, ắt cũng nương vào sanh - trụ - dị - diệt mà không ngừng tuần hoàn. Đầu thai để xuất ra là “sanh”, dần dần lớn lên mà khỏe mạnh là “trụ”, già suy tàn là “dị”, thọ mệnh lâm chung là “diệt”. Hạng người hầu, thê thiếp, hành khất nào, cố nhiên cũng phải sanh - trụ - dị - diệt. Nghĩa là hạng vương công, hào kiệt, phú quý cũng phải sanh - trụ - dị- diệt. Hạng này chết rồi thì hoặc lên thiên đường, hoặc xuống địa ngục, hoặc vô bụng ngựa, hoặc vào thai lừa, không có ai mà không theo nghiệp thọ sanh vậy. Thế nên, sáu nẻo luân hồi không hình hài, vô cùng tận. Người xưa nói: việc sanh tử là việc lớn, há không đau khổ thay!

      2.   Thân người khó được:

            Kế đến nói về bản thân: chúng ta nay được làm thân người, nhân duyên của việc làm thân người này rất là quý báu. Bởi vì muốn ra khỏi tam giới thì nên hiểu rõ sanh tử, ắt phải mượn con đường lĩnh hội đạo lý để tu hành mà chứng từng phần. Còn năm đường kia trong lục đạo đều khó tu chứng. Ví như ở cõi Thiên đạo, đam mê lạc cảnh, nên việc giải thoát chỉ là bất chợt, mà việc tu hành thì không thấu đáo. Còn như ở cõi A tu la thì tập khí đời trước sân hận nhiều, đi ngược lại với đạo mà không chịu tu hành. Chúng sanh trong cõi ngạ quỷ bị thiêu đốt trong lửa đói, kêu gào xin ăn, giống như sợ ăn không kịp nên không tu hành được. Và con đường súc sanh thì ngu si hôn muội, chỉ biết ăn ngủ mà không biết tu hành. Còn như cõi địa ngục thì các sự khổ bị nung nấu nối tiếp luôn mà chịu tội không ngừng, lại càng không thể tu hành. Chỉ có cõi nhân đạo, tuy cũng có khổ nhưng rất gần gũi để chuyển đạo, dễ mở ra sự giác ngộ, vả lại còn giữ được niềm an vui nho nhỏ là nắm được con đường chính xác để đến chỗ chứng quả. Cho nên cổ đức nói: Tâm trọn vẹn lo lắng để hướng về Bồ đề thì chỉ có cõi nhân đạo là có khả năng mà thôi.

            Nhưng muốn được làm thân người lại không phải là việc dễ. Thời gian tốt cho chúng sanh đầu thai là thời gian nghiệp thức căn bản của A lại da (tục gọi là linh hồn) là cái lậu hoặc của hôn mê bị nhào xuống theo nghiệp mà thọ sanh, lúc đó chỉ thấy được nhân duyên giao hợp của nam nữ mà không biết việc tốt xấu, thiện ác của nó. Trong nhân duyên giao hợp đó, cái số để đầu thai sanh vào cõi nhân đạo chỉ được một hai người; cái số đầu thai để sanh con đường khác thì e rằng trong trăm ngàn vạn ức không ngừng nghỉ. Cho nên, ngày xưa khi đức Phật Thích Ca nói kinh Niết Bàn, Ngài bèn bảo Ca Diếp rằng: người mà được thân người như đất trên móng tay (Ấn Độ gọi chữ tay là móng), người mà bị mất thân người như đất trong đại địa. Thế nên nếu bỏ thân người này, muốn đầu thai sanh làm người lại, thì như leo lên đỉnh núi cao, như sợi chỉ rũ xuống rối ben mà có khả năng xuyên thẳng qua lỗ kim. Cũng như khúc gỗ trôi lềnh bềnh trong biển lớn, gỗ trôi hướng về chỗ có một lỗ hang, có con Rùa mù trườn cái đầu đúng lúc vào lỗ hang thì cái cơ duyên của Rùa để bám víu thì rất mỏng manh. Vả lại, một khi đầu thai để sanh vào đường khác, bất luận là cõi trời, cõi ngạ quỷ, cõi địa ngục thì cái số thọ mệnh thật là lâu xa. Tức là con đường súc sanh số thọ mạng tuy ngắn ngủi hơn, lại e rằng phải triển chuyển sanh nhiều lần. Như ngày xưa, con Kiến mà Ngài Xá Lợi Phất thấy ở trong vườn của thái tử Kỳ Đà, đã trải qua bảy vị Phật đời quá khứ cho đến nay là chín mươi mốt kiếp mà vẫn thọ thân Kiến, không được giải thoát. Cho nên Kinh nói: Một khi thân người mất rồi thì vạn kiếp khó trở lại. Suy nghĩ điều này thật đáng sợ!

            3.   Phật pháp khó nghe:

         Lại nói về Phật pháp: Phật pháp mà chúng ta nghe, đó là ngôi báu chân chính. Bởi vì tài vật, vàng bạc của thế gian chỉ có thể giúp thân mà không thể giúp tâm, cố nhiên không thể là ngôi báu. Các triết học tông giáo, chỉ có thể giúp tâm nên chỉ làm tăng thêm sự phân biệt mà không thể giải thoát, cũng không thể là ngôi báu. Chỉ có Phật pháp mới có thể phá mê khai ngộ, mở ra trí tuệ chân chánh, khiến cho lìa khổ được vui, và giúp chúng ta hiểu rõ việc giải thoát sanh tử một cách rốt ráo. Cho nên gọi là ngôi báu vậy.

        Như  thế Phật pháp khó nghe,  phải có đầy đủ nhân duyên và thiện căn mới được nghe. Nếu như sanh ở biên địa, không có người hoằng dương thì triệt để không gặp được, hoặc gặp nhưng không phải chân thật. Đặc biệt là đời mạt pháp, tà thuyết hoành hành, tà đạo bên trong tông giáo thì còn dễ phân biệt, còn như có sự hỗn độn của việc ngoại đạo dựa vào Phật pháp như mắt cá lẫn lộn với hạt châu thì chúng ta khó có kinh nghiệm phân biệt, hoặc tuy gặp được chánh pháp, lại không thể hiểu. Kinh nói: “Phật pháp tuy có trí tuệ nhưng không thể hiểu nếu không có người nói”. Lại nữa, hoặc là hiểu nhưng không tin, tin để làm đạo. Đã không có căn để tin thì đạo không có chỗ nhập vào, cho nên đều không thể gọi là “Văn”; nếu như gặp đạo thật chánh chơn mà còn có thể hiểu, có thể tin theo với ý nguyện vui vẻ mà làm mới, thì có thể gọi là văn.

            4.   Cảnh giác về tứ mã:

            Ô hô ! Vô thường đến rất mau, một khi hơi thở không đến, cuộc đời liền trở nên bị ngăn cách vào biển sâu của sanh tử. Một khi đọa tam đồ thì cuộc đời này vạn kiếp khó trở lại. Chúng ta vì sao may mắn mà được làm thân người, lại vì sao may mắn mà được nghe chánh pháp. Thế thì chúng ta nên nỗ lực như  thế nào?

            Kinh Tạp A Hàm nói cho biết rằng: Thế gian có bốn loại ngựa. – Loại thứ nhất là dùng cái đầu quay lại nhìn bóng roi thì biết là đuổi chạy nhanh, mà không đợi roi chạm vào thân. – Loại thứ hai là cũng chỉ cần roi đặt nhẹ vào đuôi thì biết là đuổi chạy nhanh. Còn như – loại thứ ba thì phải đợi roi đập khẻ vào thân mới biết là đuổi chạy nhanh. Còn về – loại thứ  tư thì phải đợi roi thép nhọn chọt vào xương làm cho thân bị thương mới bằng lòng lên đường. Bởi vì, người ta cảnh giác theo lợi căn hay độn căn mà tập trung ngựa để phân ra loại tốt xấu vậy. Người xưa nói: thấy được sự chết chóc của người khác thì lòng mình nóng nảy như lửa. Không phải nóng nảy lo lắng cho người khác mà mình phải nhìn xem bánh xe luân hồi sẽ đến với mình. Người học Phật là ngựa tốt trong số ngựa đó chăng ?

            Các hành nghiệp vô thường không thể kéo dài cho ngày lâm chung. Cổ đức có kệ rằng: thân người khó được, nay đã được. Phật pháp khó nghe, nay đã nghe. Thân này sống không phải độ cho ngày nay, mà càng phải sống như thế nào để độ thân này. Xin mọi người phải khởi tâm để mà tu.

X   TAM QUY Y:

            Tam quy y tức là trở về nương tựa với Phật, trở về nương tựa với pháp, trở về nương tựa với Tăng. Chữ “Quy” của quy y là đổi đen thành trắng, chuyển nhiễm thành tịnh, đưa tâm địa của mình trụ vào cảnh giới chánh niệm thanh tịnh. Chữ “Y” là ý nghĩa nương tựa. Nghĩa của hai chữ quy y thông thường được đơn giản gọi với các nghĩa: y cáo, cứu độ, cung kính. Nếu như tam quy y được nói một cách nông cạn dễ hiểu thì quy y Phật là ta nương tựa chỉ thị của Phật đà. Quy y  Pháp là ta nương tựa giáo nghĩa để cầu được chân lý. Quy y Tăng là ta nương tựa Tăng già để được dẫn đạo và có niềm tin đúng đắn về Phật giáo. Nói cách khác: đã quy y Tam bảo thì có thể được cứu độ. Giống như tàu thủy trong biển lớn cần phải có kim chỉ nam, như những đứa con lạc đường trở về với sự ôm ấp của Mẹ hiền thì ngay lúc đó chúng mới có thể hoạch được sự ấm áp và sự an ủi trong tình Phụ tử và tình  huynh đệ.

            Quy y Tam bảo là đi vào nghi thức bước đầu của Phật giáo, nó biểu thị chánh tín làm một người đệ tử của Phật. Muốn biết mình là để tử trung thực của Đức Phật thì phải thực hành giáo lý Phật đà. Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài nói với đệ tử trong môn hạ rằng: “Các việc ác chớ làm, nhiều việc thiện vâng làm, hãy làm trong sáng tâm ý của mình. Đó là lời dạy của chư Phật”. Lời nói này là giáo nghĩa tinh thâm quan trọng của Phật giáo, chỉ cần nương theo giáo lý mà phụng hành, không làm các việc ác, làm nhiều việc thiện thì tâm địa nhất định sẽ yên vui.

            Mọi người hãy nhớ: Phật đà là bậc gương mẫu chính giác, là đại đạo sư cho chúng ta. Giáo lý của Ngài là món thuốc bào chế mát mẻ diệt trừ phiền não và nỗi đau khổ, nó chỉ cho chúng ta thấy chánh đạo trong đời sống con người. Tăng già là làm cho Phật pháp hưng thịnh, là đại biểu cho Phật Đà để chuyển pháp luân. Công đức Tam bảo là công đức mà mọi người phải suy nghĩ cho kỹ, nghĩa là trong từng giây phút, chúng ta phải niệm đấng đạo sư chí tôn (Phật đà), để không quên Phật pháp, đó là kim chỉ nam của đời sống, không quên Tăng già là đại biểu cho đấng chí tôn. Vì nó khiến cho tư tưởng chúng ta được thuần chánh, tâm địa không bị hành vi xấu ô nhiễm thì tư tưởng chúng ta mới tốt đẹp. Đồng thời, mọi người càng phải nỗ lực công tác lợi tha, biểu thị tinh thần Phật pháp cứu thế làm lợi ích cho người, hoàn thành sinh hoạt Phật hóa một cách mỹ mãn và vui tươi.

 

XI  NGUYÊN TẮC CHUNG CỦA PHẬT PHÁP:

            Pháp lạc của Phật Đà, nói rộng ra tuy có tám mươi bốn ngàn trí tuệ, nhưng giản lược lại thì không ngoài ba cương lĩnh lớn, đó là Giới, Định, Tuệ. Đó được gọi là Tam vô lậu học, vì nó có thể đoạn trừ phiền não, có khả năng làm cho hiểu rõ sanh tử. Cho nên Giới còn được gọi là Vô lậu (lậu như là phiền não). Tam vô lậu học này có thể nói là bổn thể của Phật pháp. Nếu như rời bỏ ba điều này thì không phải là Phật pháp chân chánh.

            1.  Giới tức là giới luật. Ví như, gia đình có quy tắc của gia đình, quốc gia có phép tắc của quốc gia, tu học Phật pháp thì cần giữ giới luật của Phật. Đây là căn bản của việc học Phật. Nhờ trì giới mới có thể ngăn ngừa việc sai trái, chấm dứt việc ác và làm cho ba nghiệp thanh tịnh. Trong ba tạng kinh điển, tạng luật thuộc về Giới học. Cho nên nói là: “Ba nghiệp luật quy”- là quy định ba nghiệp. Nếu không phải giới thì là cái gì ? Nhưng giới có giới cấm chỉ và giới cưỡng chế. Giới cấm chỉ là giới tiêu cực bỏ ác, giới cưỡng chế là giới tích cực làm thiện. Cho nên giới cũng là bao hàm tất cả pháp thiện.

2.      Định tức là thiền định. Thiền là cách gọi tắt của tiếng Phạn “Thiền na”. Định là danh từ “Tam muội” của tiếng Phạn dịch ra. Nghĩa quan trọng của thiền định là ở chỗ làm cho tâm ngừng lo lắng và lắng đọng phan duyên - Vọng tưởng bên trong không phải khởi lên, phan duyên bên ngoài không bị ảnh hưởng (ngoài không chấp tướng, trong không động tâm). Điều đó lại chính là then chốt của việc nhập đạo. Trong ba tạng kinh điển, tạng kinh mà thuộc về Định học, được gọi là “Kinh thuyên nhất tâm”, nhất tâm lại là định. Nếu như có khả năng nhập định thì công đức của bổn tánh tự nó có thể dẫn phát. Ví như nước trong bồn, nhiễu động thì bùn lẫn lộn, nước không trong suốt, yên lặng thì trong nước có ánh sáng lấp lánh. Làn nước tâm của chúng sanh cũng như thế. Cho nên công đức thần thông của Định cũng bao hàm khắp.

3.      Huệ tức là trí tuệ. Trí là quyết đoán, tuệ là chọn lựa. Đây là mục đích cuối cùng nhất của việc học Phật để khai phát trí tuệ, nhờ đó chúng ta mới có khả năng bỏ hoặc mà chứng lý. Có nghĩa là phá các phiền não và chứng lý chân thật. Trong ba tạng kinh điển, luận tạng thuộc về huệ học. Cho nên gọi là “Luận biện tà chánh”, mục đích của nó là khai phát trí tuệ. Nhưng trí thì có thực trí và quyền trí. Muốn đạt được sự phân biệt và phân tích tà – chánh, cái mà chúng ta có khả năng đạt được lý chân thật ở trong đó là thực trí, dùng thực trí để có lực nhiếp hóa chúng sanh một cách khéo léo là quyền trí. Cho nên Huệ cũng là quyền trí bao hàm khắp.

            Chúng ta nên biết, Tam học có thứ lớp của nó, trước tiên ắt phải trì giới rồi sau mới có định. Nếu như chúng ta có khả năng nhập định thì tự nhiên huệ được khai phát. Vì vậy, kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhiếp tâm là giới, nhân giới sanh định, nhân định phát huệ thì gọi là Tam vô lậu học”.

XII    ĐẠI Ý PHẬT PHÁP:

            Toàn bộ giáo pháp của Phật Đà, nếu như muốn luận về đại ý, thì cũng có thể hết sức suy nghĩ ba câu này: “Các việc ác chớ làm, vâng làm các việc thiện, hãy làm trong sáng ý của mình”. Đây lại là nói lên sự tác dụng của Phật pháp. Cho rằng: “Các việc ác chớ làm”, là nói: hễ việc dù lớn hay nhỏ mà có hại cho chúng sanh, đều không thể làm, mà “Vâng làm các việc thiện”, chính là nói hễ việc dù lớn hay nhỏ mà có lợi ích cho chúng sanh, đều nên làm. Hai câu này hợp lại cũng chính là mục đích cấm chỉ và cưỡng chế trong Giới học. Còn như một câu “Hãy làm trong sáng ý của mình” Chính là nói: phải khiến cho ý nghiệp được thanh tịnh vô nhiễm (tu tâm thanh tịnh), mà thiền định chính là công phu của ý nghiệp thanh tịnh, và trí tuệ lại là hiệu quả của ý nghiệp thanh tịnh. Cho nên bổn thể và tác dụng của Phật pháp có thể hỗ tương phối hợp đúng lúc. Kinh Niết Bàn nói: “Việc ác chớ làm, vâng làm các việc thiện, hãy làm trong sáng ý của mình, là lời dạy của chư Phật”, có thể thấy đây là sự giáo hóa thông hành của chư Phật.

            Trong truyện ký có chép: đời nhà Đường có cư sĩ  Bạch Hương Sơn, có lần ông đi qua tham học với thiền sư Điểu Khòa để thỉnh vấn đại ý Phật pháp, thiền sư  liền đáp rằng: Các việc ác chớ làm, vâng làm các việc thiện. Cư sĩ Hương Sơn cười cho rằng: nếu là hai câu này thì đứa bé ba tuổi cũng có thể nói được. Thiền sư liền quát lên rằng: “Đứa bé ba tuổi tuy có thể nói được, nhưng ông lão tám mươi lại chưa ắt làm được”. Tiết mục khó giải quyết này, đối với người học Phật thực ra rất đáng để ngẫm nghĩ!

XIII    VŨ TRỤ NHÂN SINH DUYÊN KHỞI:

            Khi Phật Đà ở dưới cây bồ đề, nửa đêm nhìn thấy sao sáng, Ngài Chứng ngộ: tất cả vạn hữu đều là từ nhân duyên mà sanh khởi, không có một sự vật nào ngoại lệ của năng lực này. Cho nên “Các pháp từ nhân duyên mà sanh, các pháp từ nhân duyên mà diệt”, và “duyên khởi thì tánh không, tánh không thì duyên khởi”, nó chính là trở hành một định luật bất biến vĩnh cữu. Đức Phật gọi định luật này là “Duyên khởi”.

            Vũ trụ nhân sinh duyên khởi là một giềng mối của sự quan hệ gắn bó khắp nơi. Như là một cây trong vườn hoa, nó phải dựa vào nhân duyên của các lớp thổ nhưỡng, thủy phân và hạt giống thì mới có đủ khả năng sinh khởi và tồn tại, đây gọi là “Duyên khởi”. Thực ra, “Nhân duyên” của các thứ như đất, nước, hạt giống, nó là của việc sinh trưởng cây này, bản thân nó còn phải nhờ vào nhân duyên khác. Nhân duyên lại phải tựa vào nhân duyên, như thế này mà đẩy lên và tạo điều kiện để đi, nên nó có thể dính dáng đến tất cả vạn hữu. Nói cách khác, cây này có thể nuôi dưỡng phong cảnh, sau khi lớn lên, vật liệu gỗ có thể đốn chặt để làm gia cụ, mà gia cụ có thể cung cấp cho người ứng dụng. Do nhân duyên cây được sinh ra lại có thể làm nhân duyên cho đồ vật khác nên nó được dẫn đến và tạo điều kiện để nói lên rằng: mỗi vật tương trợ nhau lại có thể dính dáng với tất cả vạn hữu. Vạn vật giúp cho lớn lên bởi một vật, một vật lại có thể gắn bó đến vạn vật. Vũ trụ vạn hữu chính là một giềng mối có quan hệ gắn bó nhau như thế đó.

            Lại như việc sinh tồn của một người, lúc nhỏ phải dựa vào sự dưỡng dục của cha mẹ, đã lớn lên thì phải chịu sự giáo dục của nhà trường, còn phải nhờ vào sự giúp đỡ của bạn bè. Tất cả sinh hoạt vật chất mà cái ăn, cái mặc có được là phải nhờ vào sự  bảo hộ của việc sinh tồn, sự cung cấp của người nông phu, công nhân và thương nhân, còn phải nhờ vào sự tổ chức của quốc gia, sự canh gác của quân cảnh. Tất nhiên phải cần có nhân duyên tầng tầng lớp lớp này thì một người mới có đủ năng lực để sinh tồn. Đồng thời, năng lực tri thức của một người là họ phải tất nhiên ra sức để giúp xã hội làm việc, làm nhân duyên cho người khác. “Bạn gieo ruộng, tôi dệt vải, người khác xây phòng ốc cho người nọ ở”, nhân loại là động vật của xã hội, xã hội là tổ hợp mà quần chúng phân công hợp tác, quan hệ duyên khởi mà nó nương tựa nhau để cùng tồn tại thì hết sức rõ rệt. Cho nên xã hội nhân sinh cũng là một giềng mối duyên khởi gắn bó nhau như thế này.

           Vạn hữu đều là sự tương quan duyên khởi. Giữa vũ trụ không có một sự vật nào có thể xa rời sự vật khác mà tồn tại lẻ loi. Trong xã hội cũng không có một người nào có thể xa rời người khác mà tồn tại đơn độc. Con người dĩ nhiên cần sự trợ giúp của quần chúng thì xã hội mới có đủ khả năng sinh tồn, tất nhiên cũng nên cống hiến năng lực của mình cho quần chúng xã hội để giúp đỡ sự sinh tồn của người khác. “Mọi người vì tôi, tôi vì mọi người”. Tất cả hãy đến từ quần chúng, tất cả hãy trở về cống hiến cho quần chúng. Không nên xem trọng lợi ích riêng tư quá, quên đi quần chúng xã hội mà chúng ta nương tựa để sinh tồn. Chúng ta hãy nên đem sự dung hóa của con người vào trong quần chúng xã hội, để phục vụ phước lợi nào đó cho quần chúng xã hội, và làm rõ chân lý duyên khởi mới có thể “Làm người vô ngã” chân chính mà hợp tác và trợ giúp nhau.

XIV    LUẬT NHÂN QUẢ CỦA NGHIỆP LỰC:

         “Nghiệp”, chữ này, văn từ Pali gọi là Ca Mã(Kamma), chính là ý nghĩa của hành vi và tạo tác. Bất cứ hành vi nào phàm là có ý hướng xuất ra từ thân, khẩu, ý đều có thể gọi là tạo tác. Tất cả hành vi thiện hoặc ác của một hạng người mà họ bày tỏ, đều có thể cấu tạo thành nghiệp. Nói cách khác, nghiệp có thể hiểu là sức ý chí tạo tác mà thành đạo đức hoặc không đạo đức. Tức là tất cả động tác của sức ý chí có phản ứng hoặc có kết quả. Một ý nghĩa riêng của chữ Ca Mã(Kamma) cũng có thể giải thích là nhân quả.

         “Nghiệp”, đã là phản ứng của sức ý chí, như thế các nghiệp thiện ác được tạo tác từ sức ý chí thì chủng tử của các nghiệp này đều chứa ở trong A lại da thức, nên vạn duyên chủng tử sẽ hiện hành, đến lúc hiện hành thì quả báo sẽ rõ ràng. Nhất định nhân thiện được quả thiện, nhân ác được quả ác. Tức là nghiệp mà luật nhân quả cho là nghiệp lực thì không thể tiêu diệt. Kinh Tạp A Hàm nói:

                     “Theo hạt giống gieo xuống

                       Do đây bạn liền nhận được hạt giống không sai biệt.

                       Người làm thiện hoạch được hạt giống thiện

                       Người làm ác hoạch được hạt giống ác

                       Hạt gieo mọc lên là giống gì

                      Bạn liền nếm được quả đó.”

            Luật nhân quả như trên đã nói, thì mỗi người tự làm tự chịu, không ai có thể thay thế được. Bạn đã có kết quả này chính là do nhân đó trồng ra. Cũng như hạt giống sinh ra quả, quả chính là từ hạt giống đó ra. Đây chính là nhân quả không hồ đồ. Quả, nhất định là từ chủng tử trong nhân mà khai hoa kết thành.

            Phật đà dạy chúng ta hãy tin nghiệp lực, tin nhân quả. Theo luật nhân quả của nghiệp lực mà nói thì nghiệp báo có ba thời kỳ nghiệp:

1.      Nhận nghiệp theo đời này: Tức là hiện đời tạo nghiệp thì hiện đời sẽ chịu quả báo.

2.      Nhận nghiệp theo đời kế tiếp:Tức là hiện đời tạo nghiệp thì đời sau chịu quả báo.

3.      Nhận nghiệp theo đời sau: Tức là hiện đời tạo nghiệp thì đời thứ hai hoặc sau nhiều đời chịu quả báo.

Đây chính là ba đời, từ ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Nhân quả chứng minh là chúng không thể bị tiêu diệt, nhân như thế được quả như thế. Thiện có thiện báo, ác có ác báo, chính là định lý của luật nhân quả nghiệp lực, ai cũng không thể trốn tránh. Chỉ có nắm lấy sức ý chí thuần chánh mới khiến cho hành vi thuần thiện. Nếu mỗi người có phẩm đức tốt đẹp của từ ái, khoan dung, nhẫn nại, rộng lượng, không tranh, không chấp mà hướng về thiện nghiệp, lợi tha để nỗ lực thì hoa quả hạnh phúc sẽ được vun bồi từ  trong tâm điền của chính mỗi người chúng ta.

XV  NHÂN DUYÊN VÀ QUẢ BÁO:

            Nhân duyên sanh ra vạn pháp, là lý luận trọng yếu trong Phật pháp, do từ nhân duyên mà nói ra quả báo. Nhân là nguồn gốc của sự vật, duyên là một loại trợ lực, quả báo là kết cục đến sau cùng. Do nhân mà được quả, toàn do lực lượng của duyên mà trợ thành. Cho nên sự quan hệ của duyên đối với nhân là trọng yếu, là việc mà chúng ta luôn chú ý.

            Duyên, là một loại quan hệ giao thiệp hỗ tương sanh khởi giữa tất cả sự vật. Phật giáo thêm vào những quan hệ sau đây để nghiên cứu phân tích và có thể dùng hai pháp Sắc và Tâm để phân biệt mà nói rõ về điều đó. Tâm pháp nương theo bốn duyên mà sanh khởi:

1.      Nhân duyên, cũng gọi là Thân nhân duyên, tức là chủng tử của nghiệp thức trong tự tâm. Chủng tử  kia là nhân chủ yếu của tâm pháp thành thục. Cho nên gọi là Thân nhân duyên.

2.   Vô gián duyên, cũng gọi là Đẳng vô gián duyên, tức là tâm phan duyên. Niệm trước, niệm sau tiếp tục không gián đoạn. Cho nên gọi là Vô gián duyên.

3.   Sở duyên duyên, là chỉ ra đối tượng mà tâm niệm chúng sanh phan duyên. Kinh nói:  “Tâm vốn không sanh, nhân cảnh mà có.” Cho nên tất cả ngoại cảnh đều là duyên của sở duyên.

4.      Tăng thượng duyên: ngoại trừ ba loại duyên trên, tâm có thêm vào lực lượng khác, đều gọi là Tăng thượng duyên. Bốn duyên này sinh ra pháp. Ví như người biết hút thuốc, nghĩ rằng chủng tử hút thuốc là tập khí xuất ra từ  trong tự tâm. Tức là Thân nhân duyên; dục niệm của hút thuốc không gián đoạn tức là vô gián duyên; đã gặp được khói thơm, tức là sở duyên duyên; bị mắc nghiện thuốc dữ dội là Tăng thượng duyên. Bốn duyên này đã làm cho hành vi hút thuốc được thành thục.

            Sắc pháp nương theo hai duyên mà sanh khởi là:

a.      Thân nhân duyên: như một giống dừa được gieo, có khả năng sinh cây dừa là nhân. Nó lại rất có sự quan hệ thân thiết gọi là thân nhân duyên.

b.      Tăng thượng duyên: Ví như đất bùn màu mỡ cùng với ánh sáng mặt trời, không khí, độ ẩm, thủy phân v.v… nó giúp cho sự trợ lực của giống dừa trưởng thành và lớn lên, gọi là Tăng thượng duyên. Việc sinh khởi của tất cả các pháp của thế gian đều không lìa sự quan hệ của bốn duyên này.

            “Quả” của quả báo được nghiên cứu, cũng có thể phân làm ba loại: Hiện quả, Lai quả, và Hậu quả. Cái nhân làm việc thiện, ác thì cái quả được chiêu thành thục ở một đời hiện tại này gọi là Hiện quả; được chiêu thành thục ở đời sắp tới, gọi là Lai quả; được chiêu thành thục ở nhiều đời sau, sau nữa, thì gọi là Hậu quả. Đây là trong thời gian từ ba đời, thì nhân quả được nói rõ là tánh tất nhiên sanh trưởng và thành công của mỗi việc, mỗi vật. Có nhân như thế mới chiêu quả như thế, sự quan hệ giữa chúng tuy rất có phức tạp nhưng có điều là không sai biệt một ly, một tí, một đường nét nào. Đồng thời, quả báo sở dĩ có quả thành thục ở hiện đời, có quả thành thục ở đời sắp tới, có quả thành thục ở đời sau. Nguyên nhân của nó, đại khái có hai loại:

1/   Lực lượng của nhân có chậm có sớm, như một hạt bí và một hạt đào gieo xuống đất cùng một lúc. Hạt bí năm đó nảy mầm, nó có thể kết thành quả bí, mà hạt đào nảy mầm, nó phải trải qua ba, bốn năm mới có thể kết trái đào.

2/   Lực lượng của duyên có mạnh, có yếu, như bốn duyên tiến hành đồng thời, điều kiện đầy đủ thành thục thì tự nhiên quả có sớm một chút. Ngược lại, chỉ có một loại, hai loại trợ duyên thì sức của nó không đầy đủ hoặc là do bồi dưỡng nhân không tốt, hoặc ánh sáng mặt trời không đủ cho nhân, thiếu không khí, nên sự thành thục của đào và bí này do có ngọn như thế tự nhiên lại phải chậm chạp.

           Có những người không rõ định lý của nhân duyên và quả báo thì hoài nghi cho rằng luật nhân quả nếu như cái mà họ đáng để tiếp cận, thì như thế nào mới chứng minh rõ ràng là người tốt, họ làm nhiều việc thiện ở thế gian lại chịu khổ báo hoặc không được chết tốt? Và những người có khuyết điểm làm ác đó, ngược lại ngày đêm hưởng lạc, lại trải qua cuộc sống giàu có tự tại? Chứng cớ của đạo lý này được nhãn quang soi chiếu cho nhân quả ba đời là rất giản đơn. Tức là người tốt bây giờ chịu khổ báo, vì trong quá khứ, nhân ác của họ nặng nề, duyên nay đã thành thục, nên trước tiên họ chịu quả khổ. Nhưng đời nay, mặc dầu họ làm tốt nhưng nhân thiện yếu kém, thiện duyên chưa thành thục, phải đợi đời sắp tới, mới được quả tốt. Ngược lại, người ác làm ác lại được quả báo tốt, cũng là đạo lý này. Vì nhân tốt mà đời trước họ gieo thì đã thành thục, nên trước tiên hưởng phước báo, còn nhân ác mà đời nay họ tạo, nghiệp duyên chưa thành thục nên khổ báo vẫn ở đời sắp tới, bất cứ họ như thế nào cũng trốn không khỏi khổ báo. “Nhân quả đến thì trước sau đều có báo, nó chỉ tranh nhau đến sớm và đến muộn.” Lời nói này mãi cho chúng ta ngẫm nghĩ.

          Định luật nhân quả còn có hai yếu điểm:

        - Một là nhân quả không thể tiêu diệt, trừ phi bạn không gây nhân. Nếu gây rồi thì dù cho nhân tốt hay xấu thì chủng tử nó vĩnh viễn lưu lại trong nghiệp thức, không thể hoại diệt, vạn duyên sẽ khởi lên và  tiến hành mà chiêu thọ quả báo. Nếu như đã gây nhân ác mà muốn không nhận ác báo, thế thì không có biện pháp. Muốn có biện pháp, chỉ có tu tập Phật pháp, đoạn tận phiền não trong ba cõi, hoạch được thánh quả xuất thế, mới có thể miễn trừ niềm đau khổ của việc thọ báo trong luân hồi.

        - Hai là mấu chốt của việc thiện ác không ngang nhau, đã gieo nhân ác thì chịu sự phân phối quả báo của nó. Chúng ta không thể cho rằng lại tạo ra việc thiện tốt, thì có thể xóa đi mấu chốt và san bằng cái tội gánh chịu này. Nên biết lý của Phật, Trời thì vô tư, không nhận hối lộ, chẳng qua là chúng ta làm nhiều việc thiện, tăng nhiều thiện duyên, khiến cho ác báo từ nặng chuyển thành nhẹ. Điều đó gọi là “Báo nặng mà chịu nhẹ”, điều này thì có khả năng. Đồng thời lại do vì thiện duyên tăng nhiều, ác duyên giảm dần, cũng là biện pháp tốt nhất khiến cho quả thiện mau được thành thục. Chúng ta có thể thấy và muốn quả báo được tốt từ nhân duyên tốt, thì đời người còn tại thế hãy làm nhiều việc thiện, vẫn rất là điều cần thiết.

XVI  TÌNH HÌNH CHUNG HỮU TÌNH TRONG VŨ TRỤ:

            Trước khi giới thiệu phương tiện Phật pháp ngũ thừa, chúng ta nên trước hết nhận thức tình huống chung thế giới về y báo và thân tâm chánh báo của chúng hữu tình trong vũ trụ và hiểu rõ ba cõi là không an lạc, cho nên tu học Phật pháp để ra khỏi ba cõi, kết thúc nỗi lo lớn của sanh tử.

Đức Phật nói thế gian gồm có hai loại:

-     Một là hữu tình thế gian, chỉ cho hoàn cảnh động vật.

-         Hai là khí thế gian, chỉ cho hoàn cảnh khoáng vật và thực vật.

            Trước tiên chúng tôi giới thiệu về hữu tình thế gian. Nói theo nghĩa rộng, tất cả chúng sanh, ngoài Đức Phật ra thì Thanh văn, Duyên Giác, Bồ tát, Thánh nhân cũng thuộc về hữu tình. Nói theo nghĩa hẹp, tuy là chỉ cho phàm phu trong sáu đường, nhưng nay nghĩa này được độc đoán để chỉ cho cảnh giới Thánh nhân. Phàm phu chúng ta không thể quan hệ sử dụng, cho nên không phải phạm vi hoàn cảnh của chúng ta.

     1. Tình hình trong lục đạo:

Tất cả hữu tình của thế gian, được Phật đà tóm tắt lại quy thành sáu loài lớn, gồm có: Trời, Người, A tu la, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Đây tức là  “Sáu đường”. Đối với động vật, ở trên đời, chắc chắn có nhiều nhà sinh vật học cũng có cách phân loại khác nhau, lại vì bị sự giới hạn của trí tuệ và học vấn của con người nên họ mãi không viên mãn, không chu đáo bằng trí tuệ của Phật đà. Đó là vì Phật đà không những có thể thấy cái mà mắt thịt phàm phu thấy (như hai đường là cõi người và cõi súc sanh, mà đường súc sanh phàm phu cũng thấy thiểu phần của nó), vả lại, Phật đà cũng có thể thấy cái mà mắt thịt của phàm phu không thấy (như bốn đường là cõi Trời, A Tu La, Ngạ quỷ và Địa ngục). Người học Phật cho rằng họ tin vào lời nói của bậc Thánh và dùng sự suy xét đo lường  để quy hướng về. Đương nhiên, không thể vì lý do chúng ta không thấy được cái ngã của chúng ta, rồi cho rằng đó là chuyện hư  ảo hoang đường, là chuyện không có.

            Tình hình của chúng sanh trong sáu đường thì ngàn vạn sai khác. Từng cái, từng cái để nói rõ thì không rườm rà lắm, nay chúng tôi tóm tắt nêu lên hai đầu mối và tạm nói đại khái.

a)   “Loại cảm thọ”, Loại là chỉ cho chủng loại của thân tâm chánh báo. Loại cảm thọ là chỉ cho sự cảm nhận hưởng thụ của thế gíới y báo, y báo trong đó, các loài mà có nhiều giống, chúng ta chỉ nêu lên loại sống lâu, vì có phước trội hơn.

b)   “Khổ ách”, khổ là đau khổ, ách là tai ách. Quả báo của sáu đường cố nhiên là có sai khác. Tóm lại, chúng ta phải luôn quán xét để biết Thọ là khổ.

(1)         Cõi Trời:

Trời là thiên nhiên tự nhiên, có nghĩa là hưởng lạc thù thắng, thân hình thù thắng. Chúng sanh ở cõi này là thủ lĩnh của sáu đường, oai đức rất được tôn quý, thần thông sử dụng tự tại. Cho nên gọi là Thiên.

             “ Loại cảm thọ” nói tóm gọn thì hết thảy được phân làm ba giới, tức là dục giới, sắc giới, và vô sắc giới (cũng gọi là không giới). Từ dưới trở lên, tính ra có 28 tầng trời. Trong đó, dục giới có sáu tầng, cũng như ở nhân gian có dục vọng của nam nữ  và của ăn uống. Tầng thứ hai của dục giới gọi là Đao Lợi thiên. Ở đỉnh núi Tu Di có sẵn tầng trời thứ  33 (nói sơ về mặt cắt ngang của tầng trời 33 này), tức là bốn góc của đỉnh núi, mỗi góc có tám vị trời. Trong tám vị trời thì vị thiên chủ là Đế Thích, là vị trời mà thế tục tôn là Ngọc Hoàng thượng đế, tức là từ đây mà nói. Mà tầng trời thứ sáu thì gọi là trời Tha hóa tự tại lại là chỗ ở của Ma Vương Ba Tuần. Lại nữa, cõi sắc giới có 18 tầng trời Tứ thiền, các tầng trời này họ đều có thiền định, đã không có dục vọng của nam nữ  và của ăn uống mà còn mang các màu sắc của thân hình lầu các. Trong đó, ba tầng trời tứ thiền ở phía trước, mỗi tầng có ba vị trời. Tầng trời tứ thiền thứ  tư  có 9 vị trời. Lại nữa, cõi vô sắc giới có bốn tầng trời nghĩa là khi họ nhập vào tứ  thiền  định  thì không còn hình tướng, chỉ tồn tại thần thức.

            Các loại hưởng thụ trên trời, họ đều thù thắng hơn ở nhân gian. Như thức ăn được gọi là mỹ vị với một chén kiểu khác nhau tùy theo phước đức. Y áo của họ được gọi là thiên y vô phùng, không giống như người đời ngàn may trăm vá. Còn như thọ mệnh thì cũng thật lâu hơn người đời: như bốn vị trời làm vua ở tầng trời thứ nhất, thọ mệnh 500 tuổi, lại được cho rằng 50 tuổi của người đời tính ra bằng một ngày ở đây. Như thế các tầng trời được tăng dần cho đến cõi trời Phi tưởng và Phi Phi tưởng thì ở đó họ được thọ tám mươi đại kiếp. Điều này vì đời trước họ có tạo nhân duyên thập thiện thượng phẩm nên mới được quả báo thù thắng như thế.

           “Khổ ách” được tóm tắt: cõi dục giới có ngũ suy, lúc tuổi thọ sắp hết, trên đầu của chúng sanh đó tự nhiên hoa héo, mồ hôi dưới nách chảy ra, xiêm y cấu nhiễm, thân thể hôi hám, chỗ ngồi không thoải mái, nên được gọi là ngũ suy. Lúc ngũ suy hiện ra thì địa ngục cho biết là sẽ chết nên họ âu sầu lo sợ và khổ sở. Lại nữa, cõi sắc giới có tam tai. Ban đầu là hỏa tai, là lúc kiếp lửa hưng thịnh, từ sơ thiền trở xuống, khi lửa cháy hết hóa thành tro tàn. Hai là thủy tai, lúc kiếp nước dâng lên thì chúng sanh từ nhị thiền trở xuống đều gặp chỗ sâu mà chìm xuống. Ba là phong  tai, lúc gió lớn thổi thì từ  tam thiền trở xuống cho đến vi trần đều không khác nhau. Ô hô! Về chỗ trụ, khí giới còn không tồn tại, huống gì chúng sanh ở nhờ thì sao có thể vĩnh viễn tồn tại? Thậm chí, người ở cõi tứ thiền, tuy thiền định có thâm sâu, một khi mệnh chung không có phúc lạc để nhập thiền thì bị cơn gió thổi va chạm vào thân, họ chỉ có được nhãn thức, các thứ còn lại đều có sự khổ. Lại nữa, bốn vị trời của cõi vô sắc, tuy không có sự khổ thô kệch của hai cõi của tầng phía dưới, nhưng vẫn có sự khổ vi tế của các bệnh như bị thương tích (Trời không vô biên xứ), như ung thư (Trời thức vô biên xứ), như bệnh (Trời vô sở hữu xứ), như mũi tên đi vào thân thể (Trời Phi Phi tưởng xứ). Vả lại họ, lúc thọ mệnh hết thì định lực bèn mất, thần thức khi chết sẽ bị đọa, ví như ở núi cao chợt rơi xuống khe suối sâu.

(2)          Cõi người:

            Người, tiếng Phạn là Ma Nâu Xa, dịch là ý. Vì cõi này mà chúng sanh tạo ra tất cả việc, đều do ý khởi ra trước. Kinh Pháp Uyển nói: Người là nhẫn vậy – Đối với việc nghịch thuận ở đời, người ta có khả năng an nhiên chịu đựng.

            “ Loại cảm thọ” nói tóm tắt:  cõi người được phân bố trên bốn tinh cầu lớn, việc hưởng thụ về tuổi thọ đều khác nhau. Như tinh cầu Phất Bà Đề, thọ 250 tuổi, Nam Diêm Phù Đề thọ 100 tuổi, Tây Quắc Ni thọ 500 tuổi. Bắc Uất Đan Việt thọ 1000 tuổi. Dù cho lấy tinh cầu Nam Diêm phù Đề mà nói (cũng tức là địa cầu chúng ta ở) thì loài người mà trên Ngũ Đại Châu ở, từ nhan sắc, da, tóc, phong tục tập quán, cho đến đất đai, tài nguyên, cũng chênh lệch rất nhiều. Nhưng kinh Thư nói: chỉ có con người là linh hồn của vạn vật. Kinh Lễ cũng nói: con người là tâm hồn của thiên địa, là đầu mối của ngũ hành. Bởi vì vậy, con người dễ gần gũi với đạo, rất có khả năng ngừng vọng tâm, có năng lực chịu đựng để tu hành. Đây là vì đời trước chúng sanh hành thập thiện trung phẩm, nên cảm thọ được thân của cõi này.

           “Khổ ách” nói tóm tắt : là các loại tam khổ, bát khổ.

(3)         Cõi A Tu La, từ ngữ này dịch là Vô đoan chánh, còn dịch là Vô tửu, hoặc gọi là Phi thiên. Vì chúng sanh cõi này, nam thì xấu, nữ  thì  đứng đắn, cho nên gọi là Vô đoan chánh. Lại vì cõi này, họ chọn toàn bông hoa tươi đẹp để cất rượu ở biển lớn và muốn rượu trở nên nồng nàn, nhưng vì nghiệp lực của cá rồng, nên mùi vị của rượu không có khả năng biến hóa, cho nên gọi là vô tửu. Vì họ nhiều sân hận, nhiều đố kỵ, nên tuy có phước trời, nhưng không có đức trời. Cho nên được gọi là Phi thiên.

            “Loại cảm thọ” được tóm tắt rằng: chúng sanh ở cõi này có sự phân biệt và nhiếp thuộc bốn cõi: trời, người, súc sanh và ngạ quỷ. Cho nên kinh Lăng Nghiêm nói: Trong tam giới có bốn loại Tu La, nếu như ở cõi ngạ quỷ thì chúng sanh dùng sức hộ pháp len lõi vào cõi rỗng không, và ở đây theo đường noãn sanh là đường mà ngạ quỷ hướng về để nhiếp thọ. Nếu như ở cõi Trung thiên, phước đức hết thì phải đọa lạc. Nên chúng sanh chọn chỗ ở gần với mặt trời, mặt trăng, ở đây theo thai sanh là nơi mà con người hướng về để nhiếp thọ. Có vua A Tu La nắm giữ thế giới, vua này không sợ sức lực xuyên thấu nào có cùng khả năng với Phạm vương và trời Đế Thích Tứ thiên mà tranh quyền. A Tu La này do biến hóa mà có, là nơi loài trời hướng về để nhiếp thọ. Riêng có một phần rơi vào Liệt Tu La, mà sanh vào lòng biển lớn, chìm vào miệng hang của nước; buổi sáng du hý trong hư không; buổi chiều trở về biển nước tá túc. A Tu La này, do không khí ẩm ướt mà có, là nơi súc sanh nhiếp thuộc. Đã là bốn đường phân biệt và nhiếp thuộc thì các thân hình mà họ thọ hưởng cũng theo loại của nó, phần nhiều có loại khác nhau. Tóm lại, do ở trong nhân duyên, họ tuy hành ngũ thường ( quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu) lại mang tâm đố kỵ, kiêu mạn, là chỗ gọi là hành thập thiện hạ phẩm mà cảm thọ thân vào cõi này.

            “Khổ ách” nói tóm lại: mỗi cõi tùy theo loại của nó mà thọ khổ khác nhau. Tức là nói đến loài Trời ở nẻo Tu La, ngoại trừ một số loại khổ ra, còn lại là loại vì thường xuyên đấu với Trời Đế Thích, hoặc cắt lóng tay, hoặc phá hoại thân của họ, hoặc lại dẫn đến tử vong, hoặc là đau lòng vì mất khí tiết, và cứ tiếp tục như thế. Nếu như nó bị cắt đứt đầu thì đầu nó liền rơi xuống. Còn ba nẻo Tu La khác thì cái khổ của nó càng nhiều.

(4)         Cõi súc sanh:

            Súc sanh, tiếng Phạn là Để Lật Xa, cũng gọi là bàng sanh. Vì thân hình san sát của nó (thân của nó phần nhiều nằm ngang), và hành vi của nó cũng ngang ngang(tâm phần nhiều không ngay thẳng), cho nên được gọi là bàng sanh.

             “Loại cảm thọ”, nói tóm lại: chúng sanh ở cõi này bao hàm rất rộng, nào là chim bay, thú chạy, nào là loài có vỏ cứng, có lông vũ, hoặc là loài có bốn chân, không chân, loài đi dưới nước, dưới đất, trên không, đều nhiếp thuộc chúng sanh. Súc sanh thành tựu ra đời, được phân làm bốn loại lớn:

1) Thai sanh: ví như các loài bò, ngựa, hàm chứa trong thai mẹ mà xuất ra.

            2)  Noãn sanh: ví dụ như chim se sẻ, chim ngỗng do ấp trứng nở ra.

3) Thấp sanh: ví dụ như con tằm, con trùng bay, do ẩm thấp dơ uế và khí ẩm mà sinh ra.

4)  Hóa sanh: như các loài rồng, không sanh mà bỗng nhiên có, chỉ do nghiệp lực biến hóa mà sinh. Nếu bàn về việc thọ mệnh, thì có loài sanh buổi sáng chết buổi chiều, có loài sinh ra vào mùa xuân, mùa hạ, lại chết vào mùa thu, mùa đông. Có loài trãi qua ngàn trăm năm rồi sau đó mới chết, ngàn vạn sai khác, nhưng thân hình hưởng thụ của nó cũng rất chênh lệch, không đều nhau.

            “Khổ ách”, nói tóm lại: hoặc khổ về lao dịch, hoặc ăn no, hoặc bị người giết, hoặc nuốt nhau, loài này khổ vô cùng. Học giả Tây phương thời cận đại có nói: “Cá lớn nuốt cá bé, cạnh tranh nhau do Trời sắp đặt”. Trong câu này, chính là nói tình huống thực sự của con đường súc sanh. Tóm lại, vì đời trước tham dục, ngu si, tạo thập ác ngũ nghịch trong hạ phẩm mà cảm thọ thân của cõi này.

            (5)  Cõi ngạ quỷ:

            Ngạ quỷ, tiếng Phạn dịch là Xà Lê Đa, Bệ Lệ Đa, Bế Lệ Đa, Tỳ Lễ Đa, Ti Lợi Đa, Di Lê Đa, tức là cõi quỷ, nẻo quỷ, đường ngạ quỷ. Lại nữa, quỷ là sợ vậy. Ngạ là đói kém, chúng sanh của cõi này phần nhiều chịu đói kém và sợ hải, cho nên gọi là ngạ quỷ.

            “Loại cảm thọ”, nói tóm lại: chia làm ba loài, chín loại.

   1)   Quỷ vô tài: vì không phước đức, nên không ăn được.

   2)   Quỷ thiểu tài: vì là thiểu nên được ăn uống chút ít.

3)   Quỷ đa tài: vì là đa nên được ăn uống.

            Quỷ vô tài lại chia làm ba:

a.      Quỷ Diễm khẩu: là quỷ có ánh sáng lửa nóng mạnh, thường từ miệng ra. Cho nên quỷ ăn uống bị dội ra và thức ăn cũng hóa thành tro tàn. Ngày xưa, mẹ của tôn giả Mục Liên chính là đọa vào thân này.

b.      Quỷ châm yết: bụng lớn như núi, cổ nhỏ như  lổ kim.

c.       Quỷ khứu khẩu: trong miệng hôi thối, tự chịu ác báo.

            Quỷ thiểu tài cũng phân làm ba loại:

a)      Quỷ châm mao: lông bén như kim, khi đi sẽ bị lông đâm vào mình.

b)      Quỷ khứu mao: lông bén mà hôi, tự nhổ ra mà chịu khổ.

c)      Quỷ bướu lớn: bướu lớn của cổ họng thòng xuống, tự móc mủ ra ăn.

            Nên biết, gọi là quỷ thiểu tài, thiểu là ăn uống được, không phải thật như cách ăn tịnh diệu của nhân gian, ăn luôn đến cả hầm xí, phẩn uế, giống như là đã ăn sơn hào hải vị.

Quỷ đa tài chia làm ba loại:

a)      Quỷ đắc khí: là quỷ thường được cúng tế, do nó ăn thức ăn bỏ.

b)      Quỷ đắc thất: là quỷ thường được ở ngõ hẽm, bờ ruộng, là nơi đồ ăn thường được bỏ.

c)      Quỷ thế lực: là quỷ đủ oai đức thế lực, thường được nhân gian cúng tế. Ví như nhân gian cúng Thành Hoàng, Thổ địa, Vương gia, cho đến một  hạng thần kỳ đều thuộc về loại này.                                                              

            Các loài quỷ đói ở khắp các nẻo, tùy nơi sinh ra mà chịu hình thù của nó hoặc ở bãi biển, hoặc ở núi rừng, hoặc tựa như hình người, hoặc tựa như hình thú, cũng tự nó khác nhau.Tuổi thọ của nó có 500 tuổi, lại được cho rằng một tháng ở nhân gian tính ra bằng một ngày của nó.

            “Khổ ách” nói tóm lại: vì quỷ bị nhân duyên nghiệp lực mà không nghe được danh từ nước uống. Nước trong trẻo mà nó thấy được đều biến thành máu mủ, không ăn uống được, đói khát khó chịu, vả lại thường bi đao trượng bức bách. Cho nên nó sợ hải khác thường. Đây đều là đời trước, chúng sanh do tâm ý nịnh hót và nói dối, tạo ra thập ác phẩm trung, mà cảm thọ thân ở cõi này.

(6)  Cõi địa ngục:

            Địa ngục, tiếng Phạn là Nê Lê, dịch là khổ cụ, chính là chúng sanh tạo ác mà chịu khổ về khí cụ, lại vì chỗ ở là dưới đất, cho nên gọi là địa ngục.

            “Loại cảm thọ”, nói tóm lại: gồm có ba loài.

                         1/ Địa ngục căn bổn, tức là địa ngục tám lạnh, tám nóng.

                        2/ Địa ngục cận biên, tức là địa ngục có 16  nơi giao du mạnh mẽ.

                        3/ Địa ngục cô độc: là địa ngục của ba nơi: ở giữa núi, trong nước, khoáng dã. Hình thể và thọ mệnh của nó và chịu khổ nặng nhẹ tùy theo mỗi nơi khác nhau.

            Trong các địa ngục đó, có địa ngục A tỳ là chịu tội kịch liệt nhất. Tóm lại, do tạo tác thập ác, ngũ nghịch thượng phẩm, mà cảm thọ thân ở cõi này.

            A tỳ, dịch là vô gián, vì là một trong tám địa ngục căn bản lớn và có đủ  năm loại vô gián:

1/   Một là Thú quả vô gián: Cuối cùng, thân này hết thì mãi đọa ở chỗ đó, vì không trải qua thân Trung ấm.

2/   Hai là Thọ vô gián: chịu khổ không gián đoạn, vì không có khoảng ngừng nghỉ.

3/   Ba là Thời vô gián: quyết đinh một kiếp (chỉ cho Trung kiếp), vì loại này tương tục không chấm dứt.

4/   Bốn là Mệnh vô gián: vì nó chấm dứt của một kiếp.

                           5/   Năm là Hình vô gián: địa ngục được nới rộng tám mươi do tuần, thân hình của chúng sanh cũng tám mươi do tuần, vì trong đó liên tiếp không gián đoạn, một người hay nhiều ngươi đều đầy khắp.

             Nếu như bàn về thọ mệnh, theo địa ngục tám nóng mà nói thì đây là địa ngục sơ đẳng hoạt động, thọ mệnh cũng giống như  trời Tứ vương là 500 tuổi. Mà biết rằng 500 tuổi của trời Tứ vương tính ra bằng một ngày ở đây. Một ngày đêm của địa ngục tương đương với 900 vạn tuổi của nhân gian. Địa ngục Nhị Hắc Thằng, thọ mệnh giống như Trời Đao Lợi là 1000 tuổi, mà được biết rằng 1000 tuổi của Trời Đao Lợi bằng một ngày ở địa ngục. Một ngày đêm của địa ngục tương đương với hơn 3.600 vạn tuổi của nhân gian. Như thế, tính theo cõi lục dục mà tăng dần cho đến A tỳ, là thọ mệnh một Trung kiếp. Cái khổ của nó là thọ mệnh như thế, sao mà không sợ?

            “Khổ ách”, nói tóm tắt: đầy đủ các loại khổ, hoặc là hầm lửa, hoặc là băng cứng, hoặc là núi đao, hoặc là rừng kiếm, hoặc là cối nghiền, hoặc là chảo sôi, hoặc là phẩn sôi, hoặc là núi vây, rất nhiều và khó thuật lại. Nói về phẩn sôi thì ở trong một con sông phẩn sôi nóng lớn, chúng sanh bị xua đuổi khiến cho họ vào trong đó, bên trong có con trùng, con vòi có răng bén hoặc là theo lổ mủi mà vào, và sẽ xuất ra ở bàn chân, hoặc là từ dưới chân mà đi vào và xuất ra ở trong miệng, vừa cứng vừa hôi, đầu nóng mà còn bị đâm chích. Khổ như thế, sao mà chịu được?

                  2 . Luân hồi lẫn nhau

            Vì có chúng sanh hữu tình của sáu loài lớn được nói ở trên, cho nên gọi là chúng sanh trong lục đạo, đạo giống như con đường vậy. Con đường là có nghĩa năng thông, nghĩa là chúng sanh trong sáu đường vì luân chuyển trong tứ sanh (thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, và hóa sanh) tuần hoàn trong tam giới, thông đạt lẫn nhau, cho nên gọi là đạo. Đây thường được gọi chung là “Lục đạo luân hồi”. Tình hình luân hồi là mỗi người theo nghiệp lực, hoặc có người biến thành quỷ, hoặc có người thăng thiên. Người xưa nói: “Dùi trong bụng ngựa, đi vào thai lừa, than bùn đã mấy độ trở về, hoặc lúc đó đã có đi ngang điện Thiên đế, hoặc hướng đến chảo đồng của Diêm vương”. Thế thì có suy tính chăng? Ngày xưa Thượng đế cõi Trời Đao Lợi, còn không tránh được, phải đi vào nhà đồ gốm biến thành lừa (như tỷ dụ trong kinh Pháp Cú), huống gì phàm phu dưới đây?

            Đạo lý làm người có liên quan với lục đạo luân hồi, trong kinh điển nhà Phật, có dùng mười hai nhân duyên để nói rất rõ điều này, như kinh Dịch trong sách Nho cũng có nói vài lời để chúng ta biết được tình huống của quỷ thần: “Tinh khí là vật, du hồn là biến đổi”, “Nơi các vật cùng loại đồng thời tụ họp, thì vật có được là vạn phần”, nhưng chúng ta cũng có thể biết được ít phần của vật. Còn như sự thực của lục đạo luân hồi, chỉ có người có đủ thiên nhãn, túc mệnh thông mới biết được nơi mỗi chúng sanh, họ từ đường nào đến? Đi về đường nào? Từ đó họ có thể thấy và hiểu rõ lục đạo. Nếu như người chưa đủ nhị thông, chỉ cần xem rộng các lịch sử thì cũng không khó hoạch được nhiều thực chứng. Chỉ vì chúng ta đã không nghiên cứu kinh điển lại chưa đọc lịch sử Đức Phật, hơn nữa vì không tin những điều Thánh hiền nói mà cân nhắc nên có tình trạng một mực hoài nghi bài xích.

            Trong sáu đường này, ba đường trời, người, tu La, vì trong nhân duyên đó phần nhiều là tốt nên quả báo cũng tốt, nên gọi là ba đường tốt. Ba đường Quỷ, Súc sanh và Địa ngục, vì trong nhân duyên đó phần nhiều là ác, quả báo xấu, nên gọi là ba đường ác. Ba đường ác này lại gọi là tam đồ. Đồ gồm hai nghĩa: một là đồ thán, trích nghĩa của chữ tàn hại, chúng sanh trong đó phần nhiều thích tàn hại. Hai là đồ đạo, trích nghĩa của chữ sở thú, là chúng sanh tạo ác, là nơi thúc đẩy chúng sanh hướng về:

1/   Đao đồ: tức la đường ngạ quỷ, thường là bị đao trượng bức bách .

2/   Huyết đồ: tức là đường súc sanh, tất nhiên vì chịu chảy máu mà chết.

3/   Hỏa đồ: tức là đường địa ngục, vì bốn phương trên dưới toàn là biển lửa.

            Lại nữa, phàm phu của sáu đường hoặc lên ba đường thiện, hoặc đọa ba đường ác. Trong kinh ví dụ rằng: “Thoạt nổi thoạt chìm”. Nghĩa là toàn thể sáu đường của tam giới, chính là như một biển khổ lớn, sóng nghiệp trong biển cuồn cuộn tuôn trào, làn sóng trước vừa mới lôi chúng ta ra ngoài biển, thế thì chúng ta còn chưa hít đủ cái biết của một mạch khí tươi mát thì làn sóng sau theo đến, rồi lại dìm chúng ta xuống đáy biển. Như  thế, có lúc thoạt nổi, có lúc thoạt chìm, mãi mãi không lìa được một biển khổ lớn này. Đây chính là hoàn cảnh hữu tình của chúng ta chăng!

Khí giới, tức là chỉ cho quốc độ mà chúng sanh hữu tình nương tựa và nói về khí vật được cung cấp để họ dùng, hoặc là danh khí thế gian, hoặc là danh khí thế giơí.

            Dù cho quốc độ hay khí vật thì căn cứ vào sự thực mà nói thì quốc độ hay khí vật đều là sở biến và sở duyên của tất cả chủng thức mà mỗi bản thân hữu tình tự có. Nhưng chủng loại hữu tình thì nhiều, hơn nữa hoàn cảnh khác nhau rất xa. Cho nên, khí giới của sở biến, sở duyên từ đó mà đa thức, đa dạng. Ví dụ, sông nước mà nhân loại thấy được thì ngạ quỷ chỉ thấy là phẩn uế và lửa dử. Kim ngân lưu ly mà người trời thấy thì cá tôm nhìn thấy giống như là khói, sương mù và không khí. Nghĩa là nhân loại cùng nhau diễn tả, chỉ vì cái khác và cái giống của chủng loại (tánh của đồng loại) nên nghiệp quả tương tợ, cái thấy thì hơi giống, nhưng theo cách riêng của học thuyết về tình tục, địa lý, thời gian, thì cách nói của những học thuyết đó phần nhiều không giống nhau. Cho nên xưa nay người giảng Phật học, do đó mỗi học thuyết phần nhiều là tranh luận, cũng rất dễ gây ra cho người ta sanh nghi ngờ.

            Thực ra, Phật đà thuyết pháp mục đích ở chỗ thực tướng, khiến các hữu tình hiểu rõ bổn thể, mà thực tướng thì không thể giải nói, Ngài chỉ tùy thuận cơ cảm của các loại hữu tình mà nói pháp theo căn cơ, phương tiện để dẫn dắt họ trở về. Cho nên thuyết pháp, có lời Ngài nói theo ý của mình, có lời Ngài nói theo ý của người khác, có lời Ngài nói theo ý của mình và người khác. Nếu như chúng ta biết sắp xếp như “Tứ tất đàn” của Phật đà thì lời Ngài nói theo ý của người khác, là lời nói có trước đây hai ngàn năm ở Ấn Độ không phù hợp với học thuyết tình và tục của hai ngàn năm sau, còn việc ý liệu thì từ trong đó và tất cả nghi hoặc để tranh luận, tự nhiên sẽ được giải thích một cách lạnh lùng.

            Vả lại, ngày nay học thuyết tình tục được công nhận cũng không phải là chân lý, dù rằng được xác lập và không dời đổi. Nó được đặt ra khiến cho việc thị hiện của Phật đà càng đến thêm, nên học thuyết Phật đà lại là một cõi riêng mà lời nói thì theo ý của người khác. Tóm lại, lời nói mà Phật đà theo ý của người khác bất luận là đối với chúng sanh loại nào, ở nơi nào, thời gian nào, đều là phương tiện hướng dẫn chúng sanh ngộ nhập thực tướng. Đó tức là chỗ vi diệu thù thắng của Phật pháp.

            Thế thì, người học Phật chỉ cần một mực dùng “Ngôn lượng của Thánh” làm sự nương về, tin sâu, không nghi ngờ mà không làm hại đối với học thuyết tục tình ngày nay. Hãy điều chỉnh và thông hiểu thích đáng, thì tự nhiên ở “Thế giới Tất đàn” sẽ được lợi ích hoan hỉ, ở “mỗi mỗi người là nhân Tất đàn” sẽ được lợi ích sanh thiên, ở “Đối trị Tất đàn” sẽ được lợi ích phá mê hoặc, ở “Đệ nhất nghĩa Tất đàn” sẽ được lợi ích ngộ nhập thực tướng, nhưng chớ nên cho phép nghi ngờ kinh điển mà vọng động sửa đổi kinh điển, tạo nên nghịch tội phỉ báng Phật, phỉ báng pháp vậy. Nguyên tắc này bây giờ chính là nguyên tắc căn bản để lược thuật về khí giới như Phật đà đã thuyết cho nhân gian.

1.      Phạm vi khí giới:

            Nói đại khái về phạm vi khí giới, để nói một cách thẳng thắng về một “Thế giới” (chỉ về hệ thế giới đại thiên) thì có hai mươi tám tầng trời, như vậy, trên dưới mỗi tầng trời có các loại thế giới này. Để nói một cách vòng quanh, cứ một thế giới của “Hệ đại thiên” thì có một số tiểu thế giới hợp thành.

            Như thế, vòng quanh thế giới, mỗi thế giới có vô lượng thế giới của “Hệ đại thiên”.

            Ví như thế giới hệ đại thiên mà chúng ta ở, tên là “Ta bà” (hoặc dịch là Sách Hạ, nghĩa là kham nhẫn. Chúng sanh ở cõi này kham nhẫn tam độc và phiền não, vì không chịu ra khỏi nên có tên này). Đáng lẽ phương hướng không có định vị trí, vì tạm lấy học thuyết tục tình của nhân loại mà nương vào sự quan hệ của địa cầu và thái dương rồi giả thiết ra “Bốn phương đông, tây, nam, bắc”. “Bốn góc” đông nam, đông bắc, tây nam, tây bắc và trên dưới, hết thảy là mười phương. Lại giống như cõi thế giới Ta bà, trong mười phương, mỗi phương có vô lượng thế giới, vả lại mỗi tầng thế giới đều có tên của nó. Như phương đông có thế giới của Phật A Súc, phương tây có thế giới của Phật A Di Đà, phương nam có thế giới của Phật Bảo Thắng, phương bắc có thế giới của Phật Thành Tựu v.v… Căn cứ vào lời kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thế Giới có tỏ rõ: Ánh sáng rực rỡ như lửa đốt phổ chiếu mười phương tên là “Thế giới chủng”. Thế giới chủng phân ra hai mươi loại, trong đó thế giới loại thứ  mười ba rất là trung ương, chính là Ta bà mà chúng ta ở, tức là có mười ba thế giới số sát trần Phật xoay quanh, thì ánh sáng rực rỡ “Thế giới chủng” của hai mươi loại Phật sát, cứ mười phương, lại mỗi ánh sáng có thế giới số vi trần xoay quanh. Trong đó, mỗi mỗi thế giới, hoặc tịnh hoặc uế, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc tốt hoặc xấu, vốn không phải là chung chung, mà khí giới trong hư không thì vô lượng vô biên, chủng chủng vô tận, thì há có nói hết. Đây là do sự phát đạt của thiên văn học ngày nay thúc đẩy sự hiểu biết vô tận về “Thái dương hệ”, “Ngân hà hệ”, cho đến  “Rừng tinh tú” càng có thể được hỗ trợ nhau để phát minh. Nếu như có ánh sáng rực rỡ bất đồng, thì đại bộ phận của ánh sáng rực rỡ phía sau vẫn là giả định, nương theo để tạo ra cái lý thôi thúc. Nhưng ánh sáng rực rỡ phía trước mới là hiện lượng mà Phật đà nương vào tất cả chủng trí để thân chứng mà thôi.

           Tình huống chung của ngày nay là tiến một bước để thấy rõ tổ chức của thế giới, chính là gần đạt được tỷ dụ, tức là dùng thế giới Ta bà làm ví dụ, vốn là điều mà các kinh luận nói, chúng ta hãy tạo ra một kế hoạch để mà hướng dẫn.

2.      Kế hoạch thuyết dẫn tổ chức tam giới Ta bà:

Trước tiên theo cách nói trực tiếp: hai mươi tám tầng trời chia ra thành tam giới. Sơ giới là “Cõi dục giới” có sáu tầng trời, theo thứ tự  là:Trời Tứ Vương, Trời Đao Lợi, Trời Dạ Ma (trời Thời Phân), trời Đâu Suất (trời Tri Túc), trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự  Tại. Nói theo trong kinh điển thì trời Tứ Vương ở giữa núi Tu Di. Chúng sanh cư trú hỗn tạp trong năm nẻo ở trên các tinh cầu và dưới núi Tu Di, nhưng vẫn là phạm vi dục giới. Chúng sanh cõi này, đều có cái dục của nam nữ và của ẩm thực. Trên sách vỡ thế gian cũng nói về “Tánh năng của thực và sắc” vậy, cho nên gọi là dục giới. Trung giới là “ Sắc giới” bao gồm 18 tầng trời của cõi Tứ thiền, tức là ba cõi sơ thiền: Phạm chúng thiên, Phạm Phụ Thiên, Đại Phạm Thiên. Ba cõi nhị thiền là: Tiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Quang Tịnh Thiên. Ba cõi tam thiền là Tiểu Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên. Chín cõi tứ thiền là Vô Vân Thiên, Phước Sanh Thiên, Quảng Đông Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Phiền Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên. Chúng sanh phạm vi này, có đủ các thiền định, tuy có hình sắc về khí giới và thân nhưng do nghiệp quả mà hóa sanh, không có giới tánh âm dương của nam nữ, chỉ dùng thiền duyệt nuôi dưỡng thân tâm, nên đã không có cái dục ẩm thực và nam nữ, cho nên gọi là sắc giới. Đỉnh giới là “Vô sắc giới”bao gồm bốn tầng trời: trời Không Vô Biên Xứ, trời Thức Vô Biên Xứ, trời Vô Sở Hữu Xứ, trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Chúng sanh phạm vi này nương vào định Tứ Không, không những không có cái dục ẩm thực của nam nữ, cũng không có cái thân sinh ra nghiệp quả và các hình sắc của khí giới ( chỉ có sắc về định quả), cho nên gọi là Vô sắc giới. Nên biết, hai giới trước (dục giới và sắc giới) có hình khí, vô sắc giới thì không có hình khí. Cái mà không có hình khí tức là như hư không, đầy khắp trong hai giới trước, gọi chung là tam giới Ta bà. Tam giới được gọi như thế tức là nơi ở của phàm phu trong sáu đường, sanh tử lưu chuyển, đầy dẫy tội ác và cấu uế, cho nên kinh Pháp Hoa dụ cho là hỏa trạch, là nơi cấu uế, bất an vậy.

            Kế đến, theo cách nói vòng quanh: chúng sanh vừa sanh trở lại thì lạc vào hệ Lô, tức là dùng núi Tu Di làm trung tâm, phía ngoài núi có bảy loại núi vàng, bảy loại biển nước thơm. Vòng quanh của bốn phía có một núi đại thiết vi, trong đó có tứ đại bộ châu (đông thắng thần châu, tây ngưu gia châu, nam thắng bộ châu, bắc câu lô châu), tám châu loại trung bình và các loại châu nhỏ có vài trăm, đều được tập hợp lại mà thành.

           Nếu như cho rằng học thuyết tục tình ngày nay được thông hiểu là học thuyết mà kinh luận gọi là Bộ Châu, ý muốn nói về tinh cầu trong hư không. Nhưng Nam Thắng Bộ Châu chúng ta đang ở cũng tức là địa cầu được nói đến. ( Nói về địa cầu, tứ phía là biển, giữa là đất liền, rất phù hợp với nghĩa của chữ  “Châu” là bãi cát bồi. Nhưng hệ Tô Mê Lô trong Câu Xá Luận có nói, cũng là cái mà ngày nay gọi là “Thái Dương hệ”. Cũng có nói về bảy loại núi kim vì giống như là nói ra quỹ đạo vận chuyển của tinh cầu (vì người trong địa cầu nhìn mặt trời và các tinh tú họ đều muốn thâý rõ ràng. Trong sự trông mong ấy, họ giống như là ngọn núi vây quanh từ thấp lên cao, cho nên dụ cho núi); bảy loại biển nước thơm, lại hình như quá lời để cho thấy không khí giữa quỹ đạo và quỹ đạo. Nhưng hệ Tô Mê Lô này, chính là sức nhiếp thu quang nhiệt mà mặt trời đưa tới, cũng tức là phạm vi quản lý của trời Đao Lợi. Qua đó, ngày xưa hệ này không phải là sức nhiếp thu quang nhiệt của mặt trời, càng không phải là cõi địa cư, nhưng nó là thuộc về cõi hư không cư  chăng!

            Chính vì mỗi tầng của phạm vi thế giới được tăng thêm chiều rộng và chiều cao gấp bội nên trời Đao Lợi đi dần ra ngoài. Tỷ như rộng cao gấp bội thì có khí giới của trời Dạ Ma, đến nỗi khí giới của trời Sơ thiền cũng có rộng cao gấp bội. Như thế khí giới được tăng thêm lên trên nữa, đến Đại Phạm thiên thế là phạm vi của “Một tiểu thế giới”. Nhưng khí giới của Đại Phạm thiên hợp với một ngàn tiểu thế giới thì phần cao và rộng lại tăng thêm gấp bội, lên đến cõi nhị thiền thì gọi là“Tiểu thế giới”. Nhưng cõi Nhị thiền hợp với một ngàn tiểu thiên thế giới thì phần cao và rộng lại tăng thêm gấp bội, lên đến cõi Tam thiền thì gọi là “ Trung thiên thế giới”. Cõi Tam thiền lại hợp với một ngàn Trung thiên thế giới thì phần cao và rộng cũng tăng thêm gấp bội, lên đến trời Tứ thiền thì gọi là “Đại thiên thế giới”. Nhân vì một đại thiên thế giới thì chứa tam thiên thế giới như là tiểu thiên, trung thiên, đại thiên mà thành, cho nên lại gọi là tam thiên, đại thiên thế giới; đó tức là lãnh thổ Đại tự tại thiên của trời Sắc Cứu Cánh. Cũng là một lãnh vực Đức Phật giáo hóa, cho nên gọi là Phật độ. Thống kê được biết cõi Phật có mười ức thái dương, tức là có mười ức hệ Tô Mê Lô vậy. Ta bà ngày nay tức là thế giới Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, mà trong thế giới Hoa Tạng chỉ là một thế giới trong một thế giới chủng, trong hai mươi thế giới chủng thì Ta bà ở vào chủng thứ mười ba vậy.

XVIII     PHẬT PHÁP NGŨ THỪA PHƯƠNG TIỆN:

            1.  Thí độ theo khế cơ:

            Kinh điển Phật đà giáo hóa được gọi là khế kinh, vì khế kinh không những phải hợp với lý thuyết của Như Lai, mà còn phải hợp với căn cơ chúng sanh. Cổ đức nói: người không có khế cơ mà thuyết pháp thì lời thuyết pháp giống như lời nói suông, cho nên khế cơ có tán trợ hay không  mới là quan trọng.

            Căn cơ chúng sanh, do đời trước trồng bồi nhiều ít không giống nhau, nên nó khiến cho việc tu học đời này nhanh chậm có khác. Người có độn căn vì đời trước tâm tư  hôn mê, có nghe cũng nhiều nhưng không hiểu, hơn nữa nhãn quang của họ đơn giản, chỉ vạch ra lợi hại trước đó, cho nên họ chỉ nói được pháp thế gian. Đối với họ, pháp thế gian chỉ là phương tiện tiếp dẫn. Cho nên pháp thế gian của họ không thể được tiếp nhận và tán trợ có hiểu quả đối với các pháp cao xa hơn. Nghĩa là người bậc trung trở xuống thì không thể đóng góp với lời cao xa vậy. Người có lợi căn do đời trước thì tâm tư  nhanh nhẹn, hoặc nghe một mà biết mười, hơn nữa nhãn quang xa rộng, hiểu nhiều nhân quả của quá khứ  vị lai, thì họ phải là người nói “Pháp xuất thế gian”, độ giải thoát rốt ráo cho đến ngày nay. Nếu như tán trợ các pháp mà nông cạn, tất nhiên là không đủ ý nghĩa của pháp, nghĩa là người bậc trung căn trở lên mới có thể tán trợ lời nói cao xa vậy. Như thế, thí độ theo khế cơ mà đáp ứng được chỗ đúng, chỗ sai. Cho nên, hoặc gieo (thiện căn trồng đời nay), hoặc chín mùi (thiện căn đời nay đã thành thục), hoặc là giải thoát (giải thoát cứu cánh đời nay) thì mỗi người trong chúng ta đều là người không có quá trình vô ích vậy.

            2.  Pháp thế gian – Nhị thừa : nhân thiên.

            Pháp thế gian bao gồm nhị thừa cõi người, trời.

            Nói về nhân thừa, tức là người độn căn được cư xử đối đãi trong những người độn căn.

           Nói về thiên thừa là người lợi căn được so sánh trong cách đối đãi nhau giữa những người độn căn. Thừa : vốn là công cụ vận tải, như các loại xe, thuyền…. Ngày nay chữ thừa được ví dụ để chỉ cho tất cả Phật pháp. Phật pháp có khả năng vận tải phàm phu đến thánh địa, cho nên gọi là thừa.

           Nhân thừa là tỷ như lớp thấp ấu học trong chế độ trường học, chỉ chú trọng điều kiện rất cơ sở để làm người. Vì đó mà nhân thừa chỉ biết phước báu cầu ở hiện đời, như các loại trường thọ, phú quý, bình an… cho nên nói đó là đạo lý làm người, mục đích dạy là để thọ trì “Ngũ giới”, giữ gìn nhân cách vững chắc, tương lai có thể bảo vệ và không làm mất đi thân làm người.

           Thiên thừa là tỷ như lớp cao của ấu học trong chế độ trường học, nói đến nhiều phương pháp thăng thiên. Vì đó mà thiên thừa ít có mưu tính phước trời thắng diệu, như các loại ăn mặc, trân bảo, cung điện tự nhiên, cho nên nói đó là đạo lý thăng thiên, mục đích dạy thực hành “Thập thiện”, đều là thiền định của thế gian (tứ thiền bát định), tương lai sẽ có thể nương vào sâu cạn, phước định, hành thiện của thừa này mà chúng ta được thăng nhanh đến các tầng trời cao thấp. 

           Nên biết, trong kinh điển tam tạng có dạy: phàm nói pháp trì giới, bố thí, thiền định (tứ thiền bát định), tức là để nhân thừa và thiên thừa nhiếp thọ. Đó chính là Phật đà quyền biến bố trí cho người độn căn, miễn đọa tam đồ, vì vậy nhân thiên thừa mà không ra khỏi tam giới, thì không phải là giải thoát chân chánh, Thậm chí thăng đến trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng, thọ mệnh tuy dài và thông đạt đến tám vạn đại kiếp, khi mệnh chung vẫn luân hồi trở lại. Cho nên Vĩnh Gia đại sư chứng đạo ca rằng: “Hãy xả bỏ chấp tướng của địa vị phước trời, tỷ như đón tên bắn trong hư không, thế lực hết thì tên rớt xuống đất, người xem xét trông đợi mãi thì đời sau không được như ý”, cho nên điều này chỉ là quả nhỏ an nhàn của sinh diệt thế gian, không thể lầm lẫn  cho là pháp môn cứu cánh.

            3.  Pháp xuất thế gian – tam thừa : Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát :

            Pháp xuất thế gian là chỉ cho nhân, thiên, thừa, vượt ra khỏi tam giới, vĩnh viễn xa lìa học vấn rốt ráo của sanh tử. Pháp này lại được phân làm ba: 1. Thanh văn thừa 2. Duyên giác thừa 3. Bồ tát thừa. Tức là, nói Thanh Văn thừa cho người có căn tánh tiểu thừa, nói Duyên Giác thừa cho người có căn tánh trung thừa, nói Bồ tát thừa cho người có căn tánh đại thừa.

                        1/   Thanh Văn thừa là tỷ như lớp tiểu học của chế độ trường học, vì nghe thanh âm giáo huấn của Đức Phật mà hiểu rõ đạo lý: khổ, không, vô thường mà tu pháp “Tứ đế” đoạn trừ kiến hoặc và tư hoặc mới chứng quả A La Hán, cho nên gọi là Thanh Văn thừa.

         Kiến hoặc và tư hoặc là căn bổn sanh tử  nội trong tam giới, kiến hoặc và tư hoặc được phân biệt rõ (xin xem mục XXI, Sáu căn bổn của phiền não).

         A La Hán là quả cao nhất của Thanh Văn thừa, gồm có ba nghĩa:

                        a.  Nghĩa sát hại: Phá trừ các ác của thân, khẩu, nó giết sạch bọn giặc phiền não của kiến hoặc và tư hoặc.

                        b.  Nghĩa ứng cúng: Đoạn trừ phiền não về mê hoặc đạo và vọng tâm, về não loạn  lý sự của các pháp  ở mức cao, kham thọ sự cúng dường của người trời.

                        c.  Nghĩa vô sanh: vĩnh viễn đi vào Niết bàn  không lại bị thuyết phân đoạn trong tam đạo làm cho sanh tử (tức là cho rằng cái hoặc của kiến hoặc và tư hoặc là phiền não đạo, nghiệp phiền não thấm nhuần gọi là nghiệp đạo, nó chiêu cảm cái kiếp nội trong tam giới: dục giới, sắc giới, và vô sắc giới nên gọi là khổ đạo). Nên biết con người Thanh văn chỉ một thời gian là ra khỏi khổ vì tự hiểu chữ Hán, nhưng không có chí giáo hoá người khác, cho nên gọi là tiểu thừa.

                           2/   Duyên giác thừa là tỷ như lớp trung học trong chế độ trường học, căn tánh của loại người này ít nhạy bén, vâng giáo pháp “ Mười hai nhân duyên” của Phật, tu đạo giác ngộ, đoạn trừ kiến hoặc và tư hoặc nhưng lại tiếp cận tập khí phiền não mà chứng quả Bích Chi Phật, cho nên gọi là Duyên Giác thừa. Còn Bích Chi Phật, là từ ngữ  được dịch ra là Duyên Giác như trên đã nói, cũng gọi là Độc Giác, vì chúng sanh ở đời, sanh ra không thấy Phật, không theo Phật nghe pháp, vì sức tu học đời trước mà họ quán sát được hoa bay, lá rụng và tự một mình ngộ đạo cho nên gọi là Độc giác. Tập khí đó là tập quán của không khí phiền não như vật hôi hám chứa trong đồ dùng, vật tuy bỏ được nhưng mùi hôi vẫn còn. Cho nên kinh Niết Bàn có nói: “Thanh văn, Duyên giác có tập khí phiền não, cho rằng y của tôi, bát của tôi”; đó tức là tập khí của kiến hoặc mà trong Đại Trí Độ Luận có dẫn chứng: “Tham lam của Nan Đà, ngã mạn của Tất Lăng Già, sân hận của Xá Lợi Phất”, chính là tập khí của tư hoặc. Nên biết hạng người Duyên Giác tuy chỉ do tự lợi hạnh phúc và ân huệ nhưng vì có khả năng hướng dẫn người khác loại kinh thuộc về Tam bộ: Vô lượng thọ, Quán vô lượng thọ và A Di Đà, cho nên gọi là Trung thừa.

                           3/ Bồ tát thừa là tỷ như đại học của chế độ trường học, căn tánh hạng người này rất nhạy bén, từ khi mới phát tâm, liền có đủ thệ nguyện rộng lớn, tu hành “ Lục độ vạn hạnh”, phổ độ chúng sanh, trãi qua ba đại A tăng kỳ kiếp họ chứng thành Phật quả, cho nên gọi là đại thừa. Bồ tát thừa, nói đâỳ đủ là Bồ đề tát đỏa, dịch giác hữu tình, vì có khả năng tự giác, lại có khả năng giác ngộ tất cả hữu tình vậy.

            Nên biết, Phật pháp còn có tên ngũ thừa, hoặc tam thừa (Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát) hoặc nhị thừa (đại thừa, tiểu thừa), đều là phương tiện mà Phật đà đặt ra, thực ra chỉ có một Phật thừa mà thôi! Cho nên kinh Pháp Hoa nói: “ Chỉ có một thừa pháp, không hai cũng không ba”. Bởi vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật, nhưng vì căn tánh của chúng sanh không đồng nhau, nên Phật Đà lúc nào cũng uyển chuyển nói ra thuyết nhị thừa, tam thừa mà có được ngũ thừa. Nhưng không có thuyết nào không phải là thang treo để bước lên cho việc rốt ráo thành Phật. Cho nên Đức Thích Tôn thuyết pháp 45 năm, trong thời gian đó Ngài đã điều giải mạnh mẽ, đào luyện trạng thái bất an do dự , Ngài đợi cho đến trong buổi pháp hội, căn cơ chúng sanh thành thục thì mới khai hiển thực quyền, thông hiểu ba thừa nhưng quy về một thừa, rồi sau đó mỗi mỗi pháp đều thành tựu pháp của Phật. Cố nhiên, chúng sanh nên biết rất rõ dụng ý chân thật của Phật Đà, cũng nên hiểu rõ biện pháp phương tiện của Phật Đà. Phần sau chính là dựa theo thứ lớp ngũ thừa mà tường thuật rõ ràng về pháp môn tu hành của ngũ thừa.

XIX   NHỊ THỪA CÕI NHÂN THIÊN VÀ NGŨ GIỚI THẬP THIỆN:

            Trong Phật pháp ngũ thừa, thì nhị thừa cõi nhân thiên tuy là thuộc về pháp thế gian, lại là nền tảng của tất cả Phật pháp xuất thế gian. Tỷ như lớp mẫu giáo ngày nay, vẫn chưa là lớp chính thức nhập học. Muốn sự giáo dục Phật học được có căn bản về tiểu, trung, đại thì nên trước hết giải thích Phật pháp về nhân thừa “Ngũ giới” và Phật pháp thiên thừa “Thập thiện”.

 

Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa. Nhưng Phật pháp thì cho rằng nhân, thiên thừa là nền tảng để hướng về với đại thừa và thẳng đến Phật thừa. Cho nên nhân thiên thừa tức là bậc thềm đầu tiên của Phật thừa. Vì đó, Phật pháp lưu thông ở thế gian, chúng ta nên lấy nhân loại làm trung tâm để đặt ra giáo pháp cho phù hợp với thời cơ: đầu tiên là ngũ giới, gọi ngũ giới là chánh pháp nhân thừa, là chánh pháp có khả năng trì ngũ giới, có thể bảo vệ không để mất thân người (không đọa ác đạo luân hồi). Lại vì ngũ giới được phổ quát hóa thành nghiệp đạo thập thiện, nên chúng ta gọi nghiệp đạo thập thiện là thiên thừa. Thiên thừa có khả năng tu thập thiện và đạt đến thượng phẩm, đời sau có thể hưởng thọ phước Trời.

            Ngũ giới nghĩa là:

1.      Không sát sinh.

2.      Không trộm cướp.

3.      Không tà dâm.

4.      Không vọng ngữ.

5.      Không uống rượu.

Ngũ giới này là do thập thiện thu gom lại, ý nghĩa nội dung của ngũ giới không sai biệt với thập thiện bao nhiêu. Chỉ vì ngũ giới được đo lường bởi hành vi tu tạo của thân, còn thập thiện là động niệm của tâm đức sáng. Do dĩ chúng ta có thể giải thích – hành vi không vọng ngữ của giới thứ tư trong năm giới được khai triển thêm bốn giới là: không ác khẩu, không nói lời hai lưỡi, không nói dối, không thêu dệt. – Hành vi của giới không uống rượu ở giới thứ năm được khai triển: không tham, không sân, không nghi ngờ. Năm giới được triển khai ra chính là:

1.      Không sát sanh.

2.      Không trộm cướp.

3.      Không tà dâm.

4.      Không ác khẩu.

5.      Không hai lưỡi.

6.      Không vọng ngữ.

7.      Không thêu dệt.

8.      Không tham.

9.      Không sân.

10.  Không nghi ngờ.

Đó là giới pháp thập thiện hoặc gọi là nghiệp đạo thập thiện. Bây giờ, nghiệp đạo thập thiện được lược thuật sau đây:

1.      Không sát sanh mà từ tâm là do có lòng nhân _ sát là sát hại, sinh là sinh mệnh. Không sát hại sinh mệnh chúng sanh gọi là không sát sanh. Tức là đối với tất cả chúng sanh phải đều coi như nhau, chớ tàn sát gia hại. Do vì chủ trương của Phật giáo là sự bình đẳng về Phật tánh và đề xướng từ bi cứu thế, cho nên Đức Thích Tôn dùng giáo nghĩa từ bi bình đẳng để làm sự cứu giúp chúng sanh bị sát hại, cho chúng ta thấy chúng sanh đều có Phật tánh, cho nên không thể sát hại. Mà Mạnh Tử cũng có lần nói: “Nghe  âm thanh của mình không nỡ ăn thịt của mình.” Ông không nói về Phật tánh, nhưng cũng là đưa ra lòng nhân ái, mà thương xót chúng sanh bị sát hại. Do đó, xem ra, do lòng nhân mà chúng ta có khả năng từ tâm, không sát hại cõi sinh mệnh, sinh linh thì có thể chấm dứt việc tranh đấu, cừu hận do mình tự nhiên sinh ra và liền có thể tiêu diệt thì như thế, thiên hạ há không thái bình sao?

2.   Không trộm cướp thì có nghĩa, có lợi, có tiết và có dụng _ trộm gọi là lừa dối trộm cắp. Cướp gọi là cưỡng đoạt bức bách. Không trộm cắp cưỡng đoạt tài vật nhà người thì gọi là không trộm cướp. Nhân vì tất cả sự vật, di chuyển chủ quyền thì phải nương vào chính nghĩa. Không  cho mà lấy, không phải phần mà lấy, không có công mà lấy, đều là hành vi trộm cướp. _ Sinh hoạt của cải có đủ mà lại dục vọng thì gọi là “Lợi”, lợi lọc gây tạo ở mức thích nghi gọi là “Nghĩa”. Biết lợi mình và thuận lợi người, tức là lấy lợi người làm lợi mình thì gọi là “Nghĩa lợi”. Mỗi người hành nghĩa lợi, tiết kiệm đồ dùng hằng ngày, phụng dưỡng cha mẹ, duy trì sinh hoạt gia đình, vui với tình cha con, anh em của mình, và qua lại tiền bạc với bằng hữu mà có thể thận trọng giữ gìn không để phát sinh sự trộm cướp thì xã hội mới có thể an ninh, cá nhân và gia đình cũng có thể được hạnh phúc.

3.   Không tà dâm là giữ lễ kiên trinh, lương thiện. Tức là ngoài việc nương vào việc vợ chồng kết hợp chính thức thì không được hành dâm. Nếu như không phải vợ của mình mà tuỳ tiện kết hợp dâm dục, thì gọi là tà dâm. Tình dục giữa nam nữ có khả năng đoan chánh thì gọi là không tà dâm, cũng chính là giữ lễ kiên trinh lương thiện. Cũng tức là sau khi đã xây dựng gia đình thì vợ chồng nên kính nhau như mến khách, không có hành vi dâm loạn nào khác, mới có thể cư xử nhau một cách hoà kính và trở thành gia đình mỹ mãn.

4.   Không vọng ngữ  mà thành thật, không lừa dối_ người mà dùng cách lừa bịp có phương pháp, dùng lời gian trá, nói đùa, nói hoang mang, đúng nói không đúng, không đúng nói đúng thì gọi là vọng ngữ. Không vọng ngữ chính là nói thành thật, không nói lời hư ngụy lừa dối. Nếu như có thể xa lìa vọng ngữ , mới có thể làm được việc thành thật và trong sự tiếp xúc giữa cha mẹ, anh em, thân thuộc, bạn bè cho đến sự việc của người khác, việc này việc nọ chúng ta đều có thể tín nhiệm và hỗ tương nhau thì thật là được cái đạo an vui.

5.   Không lưỡng thiệt  là không có tranh chấp đúng sai _ không lưỡng thiệt tức là không đâm thọc, không ly gián tình cảm của người khác. Người đời không tu khẩu nghiệp nên thường có cái lo lắng về hai lưỡi: là cái gọi là bệnh từ miệng vào họa từ miệng ra, thật là tội đầu sỏ giết người không thấy máu. Nếu có thể xa lìa hai lưỡi, nói lời chân chánh, há có đầu mối tranh chấp thị phi?

6.   Không ác khẩu mà phát ra lời hiền hòa _ không ác khẩu tức là không nói lời thô ác huỷ nhục người khác, và không nguyền rủa lời độc ác với người khác. Thường  người ta phần nhiều mắc phải về ác khẩu chửi mắng người, vả lại làm tổn thương ba đời tổ tông cha mẹ của người, là tạo ra đại ác khẩu. Kinh nói: “Người phạm ác khẩu, phải chịu quả báo súc sanh”. Cho nên không ác khẩu mà lại phát ra lời từ  ái, hòa kính thì có thể tích đức thành thiện, là người được kính ái.

7.   Không ỷ ngữ mà lại nói lời có lễ _  cái gọi là ỷ ngữ, tức là hoa ngôn xảo ngữ, tuỳ tiện vô lễ, nói lời không chánh đáng, khiến người ta sinh ra các tà niệm, hoặc khởi ra lời chọc ghẹo, mở miệng lung tung, cho rằng giải trí, đều gọi là ỷ ngữ. Người nói lời ỷ ngữ này không chỉ vô ích cho mình mà còn có thể gia hại người khác, là nguyên nhân của nghiệp báo, chết đọa ác đạo. Nếu sinh làm người thì vĩnh viễn gặp hạ tiện, cho nên phải nói hợp với lễ nghĩa, lời nói chánh đáng chân thật không trái ngang, mới gọi là không ỷ ngữ. Nếu như có thể xa lìa ỷ ngữ, thì tâm chánh ngôn thuận, có lễ độ phong nhã, trang nghiêm oai nghi, cũng ắt là người được kính ngưỡng.

8.   Không tham lam keo kiệt mà từ tâm bố thí _ tài vật của mình không chịu bố thí cho người, thì gọi là “Keo kiệt”. Tài vật của người khác chỉ muốn trở về mình, thì gọi là “Tham”. Người tham lam keo kiệt, tìm cầu ngũ dục : tài, sắc, danh, thực, thuỳ, chớ biết dừng thì trở thành thói quen tạo ra tội nghiệp chồng chất. Cho nên muốn xa lìa tham lam keo kiệt thì không nuối tiếc tài vật của mình, cũng không tham cầu tài vật của người khác. Dùng tiền tài thích đáng trong việc mưu sinh để phụng dưỡng cha mẹ, giáo dục con cái. Ngoài phí dụng gia đình còn có thể nhất tâm cứu tế từ ái đối với người nghèo khổ, cô quả, bệnh hoạn, bần cùng hoặc đóng góp sự nghiệp phước lợi xã hội, tức là từ tâm bố thí. Kinh nói: “Người có năng lực bố thí là người sẽ được phú quý”. Nhưng người đó không thể có lòng tham. Phật Đà nói: “ Tham nhiều nghiệp cũng nhiều, gây tạo ít thì nghiệp cũng ít, vạn loại là việc khổ não, trừ được lòng tham thì khổ não trong nhất thời thôi!”. Đời người vì tham mà chịu khổ. Phật giáo chính là khuyên người hãy từ  tâm và bố thí để đối trị với lòng tham lam keo kiệt.

            9. Không sân khuể mà hiền hòa nhẫn nhục để tích phước _ sân khuể tức là vạn sự  không thuận nhau, chôn vùi hận thù ở trong tâm, phát phẫn nộ ở ngoài thân, thậm chí tỳ khí bộc phát, có thể hướng tới tai họa sát hại. Thường người ta nói: “ Lửa đốt rừng công đức”. Lời này nói rằng: một người bất kể làm bao nhiêu việc thiện, lửa sân hận một khi phát lên, phát giận với người, cho đến dùng vũ lực đánh nhau, phát sanh nỗi bất hạnh chồng chất. Vì thế, công đức việc thiện đã từng làm qua khiến cho lửa sân hận nó đốt tới khô sạch. Cho nên phải dùng lòng từ bi, bao dung và nhẫn nhục để đối trị sân hận. Tức gọi là: “Chữ  Nhẫn có một con dao ở phía trên, nghĩa là người ta không nhẫn thì họa chiêu lấy. Có khả năng nhẫn được là nắm cây dao trong khoảnh khắc. Sau khi qua rồi, mới biết nhẫn là cao hết”. Nơi tỉnh Sơn Đông Trung Quốc, từ xưa đã có xuất hiện một vị Trương Công, trăm nhẫn mà thành vàng, dùng nhẫn mà hoạch được phước. Cho nên phải siêng tu cái đức tính đẹp của từ bi, nhẫn nhục. Dùng sự viễn ly sân hận mà qua được hoạn nạn, thì gọi là không sân khuể, tức là có thể thành tựu đại sự nghiệp tự lợi và lợi tha.

10. Không ngu si mà nghe nhiều được tăng trí tuệ _ Ngu si là vô minh, mê muội, không có trí huệ, hành vi hỗn loạn. Nếu như có khả năng nghe nhiều chánh lý (Phật pháp) thì tăng tiến trí tuệ, khiến có thể truyền nhập chánh kiến, làm được người thiện hiểu rõ sự lý. Kinh Phật nói: Tu huệ Bát nhã để đối trị ngu si, khiến cho xa lìa tà kiến, thì gọi là không ngu si.

            Bên trên, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm là tạo ba nghiệp thiện của thân. Không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không ỷ ngữ là tạo bốn nghiệp thiện của miệng. Không tham lam keo kiệt, không sân hận, không ngu si là tạo ba nghiệp thiện của ý. Ý tức là tâm. Do đó, tâm có sự tồn tại của phiền não vô minh, cho nên gọi là ý.

            A Nan Đà có lần hỏi Đức Thích Tôn: ba nghiệp thân, khẩu, ý, cái nào là quan trọng? Đức Phật đáp: “ Ý nghiệp là quan trọng nhất, kế đó là khẩu nghiệp, kế nữa là thân nghiệp”. Do ý nghiệp thanh tịnh và do sự tác động của thân và khẩu nên lời nói mới có thể đoan chánh thì hành vi tạo tác sẽ hướng về điều thiện. Kinh A Hàm có câu kệ rằng: “ Các việc ác chớ làm, vâng làm nhiều việc thiện, tự làm thanh tịnh ý của mình là lời dạy của chư Phật”.Vì vậy, có thể biết ý thanh tịnh, tâm đoan chánh là điều trọng yếu nhất. Đức Phật nói: nguồn động lực tạo nghiệp của đời người, chính là được xuất ra từ  tâm thức của mỗi người. Cho nên mỗi người đều có thể đi cải tạo từ nội tâm của mình. Thân, khẩu, ý là nơi phát động của nghiệp. Phải khiến cho thân, ngữ, ý mỗi lúc được tồn thiện, bỏ ác. Nghĩa là có thể tạo thành nghiệp thiện, lợi mình, lợi người. Ngược lại, thân, khẩu, ý làm ác, tồn ác thì có thể tạo ra mười ác nghiệp trong đời sau, ắt nguy hại cho xã hội nhân quần và theo pháp luật phải chịu sự trừng phạt. Đúng vậy, đời người tạo nghiệp thì  chính mình tự làm, tự chịu , cũng gọi là định luật nhân quả và nghiệp lực của Phật giáo.

            Đại sư Thái Hư nói: “Mong dứt nghiệp nhờ Phật Đà, sạch nghiệp do nhân cách, người thành tức Phật thành, đó gọi là chân hiện thực”. Lời này nghĩa là nương vào chân lý của Phật Đà mà dừng nghiệp để tu tập trí đức, bồi dưỡng nhân cách một cách kiện toàn, mới là nghĩa chân thật của việc học Phật. Chánh pháp nhân thiên thừa mới là nhân cách kiện toàn khiến cho con người đạt đến giáo pháp phẩm đức hoàn mỹ. Mọi người, ai cũng phụng hành Nghiệp đạo ngũ giới thập thiện - một phương diện chế chỉ hành ác ở bên ngoài - một phương diện tịnh hóa hành thiện ở nội tâm để mà đạt đến việc xây dựng tịnh độ nhân gian, thì mới là mục đích của Phật giáo cho hiện thực của đời người, cũng chính là Phật giáo thích hợp cho sự cần thiết của thời đại.

            [Chú giải]:

            1/ Trăm nhẫn thành vàng _ Trương Công tỉnh Sơn Đông, nhà ông năm đời đều ở đây. Nhờ trăm nhẫn mà gia đạo của ông hưng thịnh. Căn cứ theo lời phát nguyện của ông thì trong một đời, ông phải hành một trăm sự kiện đại nhẫn nhục. Sau khi đã nhẫn đến 99 lần, lúc lần thứ 100 thì một hôm nọ, cháu trai của ông cưới vợ. Đột nhiên có một đạo nhân đến, muốn thử công phu của ông có thật sự nhẫn nhục hay không? Đạo nhân bèn xin ông cho cô dâu mới này trước tiên làm vợ chồng một đêm với mình. Sự kiện này khiến Trương Công cảm thấy rất là khó chịu, nhưng ông thoạt suy nghĩ rộng ra: Việc khinh nhục gì tôi cũng đều chịu đựng qua được, việc nhẫn nhục một lần sau cùng này có gì mà không thể qua chăng? Thế rồi, ông khuyên cháu trai của mình hoàn thành đại nguyện trăm nhẫn của ông là hãy nhẫn nhục một chút. Sau đó, vị đạo nhân này ở trong phòng của tân nương nhảy không nghỉ, trong miệng nói không dứt: “Xem có rách, nhảy có qua”. Nhảy đến Trời sáng, hốt nhiên ngả xuống đất mà chết. Tân nương sợ hải kêu lên. Trong lúc đợi mọi người đến xem, thì vì đạo nhân đã biến thành một người bằng vàng, do đó ông trở nên giàu có. Cho nên nói Trương Công trăm nhẫn thành vàng. Nơi đó của tỉnh Sơn Đông đến bây giờ vẫn có một toà “Bạch Nhẫn Đường” nguy nga để kỷ niệm đức hạnh nhẫn nhục của ông.

            2/ Thập thiện nghiệp và thập ác nghiệp : Hai loại này, mỗi loại chia làm ba phẩm. Xét theo trên dưới phẩm cấp của loại, nó được hình thành luân hồi lục đạo. Tức là người hành thượng phẩm thập thiện thì lên Trời, trung phẩm thành Người, hạ phẩm thành A Tu La. Người hành thượng phẩm thập ác đi vào địa ngục, trung phẩm là ngạ quỷ, hạ phẩm thành súc sanh. Cho nên chúng sanh trong lục đạo đều do ba nghiệp thân, khẩu, ý của mình mà tạo nghiệp. Ba nghiệp khởi lên là do tâm chúng ta bị động niệm, cho nên chúng ta phải cẩn thận trong từng giờ khắc, chớ khiến cho tạo tác và phải siêng tu hành thiện.

            3/ Ngũ dục tức là năm sự ham muốn: tài, sắc, danh, thực, thuỳ, nó khởi lên trong tâm. Với tâm tham cầu thì gọi là tham dục. Nhưng dục có sự phân biệt: pháp dục và thế dục. Pháp dục là tìm cầu chân lý Phật pháp. Thế dục là ngũ dục mà thế gian đắm nhiễm dục lạc. Chúng ta với thân phận là đệ tử của Phật giáo, thà rằng có thể có pháp dục, chớ không thể có cái tham của thế dục.

XX   LƯỢC THUẬT BÁT QUAN TRAI GIỚI:

            Bát quan trai giới:  giới bát quan trai cũng gọi là tám giới trai. Kinh Thập thiện giới nói: “Bát quan trai là giới của chư Phật Như Lai ở quá khứ và hiện tại. Vì người tại gia mà chư Phật chế ra pháp xuất gia”. Có thể biết tám giới trai là thích ứng cho đệ tử  Phật giáo tại gia. Khiến họ có khả năng tuỳ phần, tuỳ lực mà học tập pháp môn phương tiện của giới pháp xuất gia. Bát quan trai giới là do năm giới, lại thêm vào ba giới mà hình thành tám giới:

1.  Giới không sát sanh _ Kinh Giới có chép: Thượng đẳng từ chư Phật Thánh nhân cho đến cha mẹ, Sư Tăng; hạ đẳng từ  loài bọ gậy biết bay, cựa quậy cho đến loại vi trùng đếu là côn trùng. Chỉ cần loài có sinh mệnh, chúng ta cũng đều không thể sát hại. Phương pháp sát hại: Có cách là chính mình tự cầm các loại hung khí như dao, súng, hoặc dùng tay chân làm tổn thương, sát hại sinh mệnh đối phương, hoặc sai khiến người khác đi giết hại, lại có thấy xem người khác làm tổn thương và hại sinh mệnh của loài vật mà trong lòng sinh ra hoan hỷ, đều là vi phạm giới pháp sát sanh. Nhân đó Đức Phật cấm chỉ việc hành ác, sát hại chúng sanh thì gọi là giới không sát sanh.

2.  Giới không trộm cắp _ những điều mà giới luật được chế ra: trên từ vật phẩm quý trọng như vàng bạc, dưới cho đến cây kim, ngọn cỏ không thể không cho mà lấy. Bất cứ là vật dụng tam bảo của tu viện Phật giáo, hoặc vật dụng trong gia đình, hoặc cưỡng đoạt vô lý, hoặc trộm cắp, hoặc lường gạt mà lấy v.v… đều là phạm giới trộm cắp. Nếu có khả năng xa lìa tội bị trộm cắp, không cưỡng đoạt trộm cắp thì gọi là giới không trộm cắp.

3.  Không tà dâm _ tức là hoàn toàn cấm chỉ dâm dục. Giới này giống với giới xuất gia, không phải là giới không tà dâm trong ngũ giới. Cho nên kinh nói: “Vì người tại gia mà chế ra giới pháp xuất gia”, thì là giới bất dâm.

4.  Giới không vọng ngữ _ tức là cấm chỉ lời nói dối, nhiếp thu giới bốn nghiệp thiện của miệng.

5.  Giới không uống rượu _ tức là cấm chỉ uống rượu. Vì lúc say rượu tri giác và lý trí hôn mê, sẽ làm ra việc hồ đồ của các thứ như: sát, trộm, dâm, vọng.

6.  Không thoa son phấn, nước thơm, không đeo bông, không mặc y phục sặc sỡ, không xem và thưởng thức các loại âm nhạc, kỷ nữ ca múa- tức là trên mặt không thoa son phấn, không lấy dầu thơm thoa thân, cũng không có thể đeo các loại trang sức vòng, vàng, nên mặc y phục một màu ( thông thường là y phục màu xám tro. Người xuất gia mặc y áo xuất gia, không được bỏ quy tắc này). Không được đi xem kỷ nhạc ca múa (bao gồm tiết mục ca múa trên truyền hình), hoặc đi đến chỗ nhạc trường để giải trí.

7.  Không được ngủ nằm giường nệm cao rộng _ Không thể ngủ nằm giường nệm cao rộng và tráng lệ.

8.  Giới không ăn phi thời _ Không phải giờ ăn cơm thì không thể ăn cơm, tức là không ăn quá ngọ.

Trong tám giới trên, bảy giới trước là thuộc về giới pháp, giới thứ tám là thuộc về trai pháp. Cho nên gọi chung là tám giới trai. Tám giới trai này là giới pháp phương tiện thọ trì một ngày một đêm của nam nữ  cư sĩ tại gia học Phật.

 

XXI    SÁU CĂN BẢN CỦA PHIỀN NÃO:

            Thanh văn thừa có mục đích là đoạn trừ phiền não (hai hoặc: kiến hoặc và tư hoặc) mà thành tựu quả A La Hán. Cho nên trước tiên giới thiệu Thanh văn thừa, ắt phải nhận thức trước cái gì là sáu căn bổn phiền não

Bản đồ sáu căn phiền não

Phiền não tức là mê hoặc, loài người vì mê hoặc mà tạo các ác nghiệp, chịu thống khổ chồng chất. Nguồn gốc của thống khổ này chính là khởi ra từ  sáu căn bản của phiền não. Bây giờ được nói rõ và ngắn gọn như sau:

1.      Tham _ là tham ái, tham luyến, tham đắm là tìm cầu về ngũ dục quá mức, hoặc trộm lấy ngang, hoặc không mang ơn người khác đã giúp đỡ, mà lại keo kiệt, nuối tiếc tài vật của chính mình, lại đem cách học ra để lý giải, chỉ vì sự ham muốn riêng tư làm tổn hại người khác, tham như thế là làm hại, tội nghiệp sâu nặng. Kinh nói: “Chết đoạ ngạ quỷ, quả báo đói khát”.

2.      Sân _ là sân khuể. Đối với nghịch cảnh thì không thuận, không thể chịu đựng và sanh ra phẫn nộ. Hoặc bất ngờ khởi ra bạo ác, làm tổn hại người khác. Hoặc đói khát, lạnh nóng xảy đến và không có tâm điềm tĩnh mà sanh sân hận. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”. Việc não hại của sân khuể là chết đoạ địa ngục, chịu quả báo của thân tướng xấu xí.

3.  Si _ là ngu si mê muội, trí huệ bế tắc, không phân biệt được phải trái, không rõ ràng sự lý, phỉ báng là không có nhân quả, khởi lên tà kiến, gọi là ngu si. Vì ngu si mà vọng sanh tìm cầu, cầu không được thì thành sân hận. Cho nên ngu si là nguồn gốc chung của tam độc (tham, sân, si) và có khả năng gây ra việc tổn hại đạo lý thiên nhiên, chết đoạ trong súc sanh, chịu sự bức bách của người.

4.  Mạn _ là cống cao ngã mạn, tự đại kiêu ngạo, xem người không ra gì, ngay cả biểu hiện thái độ khinh mạn đối với người khác không bằng mình hoặc hơn mình, cho đến trình độ tương đồng với mình mà cũng tạo thành khổ não không thể cùng chung sống và hoà kính với người.

5. Nghi_ Nghi là hoài nghi không tin. Cho rằng tất cả đạo lý thực sự của thế gian đều không thể tin chắc, không thể không nghi ngờ và đóng bít cửa thiện. Cho nên chúng ta càng  sanh ra tà kiến, tạo ra ác nghiệp thị phi đối với chân lý Phật giáo và nghiệp lực thiện ác.

Năm phiền não bên trên: tham, sân, si, main, nghi, là sự cấu nhiễm, chấp trước của tâm, làm cho tâm bị trói buộc không giải thoát, gọi là tư hoặc. Nghĩa là sự mê hoặc, sai lầm trên tư tưởng. Tánh chất của nó chậm chạp khó điều phục. Đặc biệt là vô minh hoặc, thì không dễ đoạn trừ. Cho nên nó được gọi là Ngũ độn sử.

6.  Không chánh kiến _ do suy nghĩ bất chánh mà sản sinh tri kiến sai lầm. Có năm loại bất chánh kiến. Tức là:

1/ Tát Ca Da Kiến _ Tàu dịch là Thân kiến hoặc là ngã kiến. Vì chấp thân này cho là có “Ngã”. Thực ra, thân này là thân ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức gọi là ngũ uẩn), và thân tứ đại (đất, nước, gió, lửa, gọi là tứ  đại) hòa hợp. Vốn là vật vô thường bại hoại mà không biết và chấp cho nó là cái ta thực tồn tại, là “Một”, là “Thường”, là “Khắp”, là “ Chủ tể”, tức là Tát Già Da Kiến.

2/ Biên kiến _ Còn gọi là biên chấp kiến. Biên là ý nghĩa nông cạn hoặc chênh lệch. Tức gọi là tri kiến nông cạn của sở đắc. Có loại tri kiến che lấp, là loại mà khiến cho rơi vào một bên chấp thường, một bên chấp đoạn. Tri kiến chấp thường là vì “Thường” là hằng thường không biến đổi, cho là người ta chết đi vẫn làm người như cũ, con bò chết đi vẫn làm bò như cũ, bần cùng vĩnh viễn là bần cùng, phú quý vĩnh viễn là phú quý. Tri kiến chấp đoạn là vì người chết vừa tắt thở thì vĩnh viễn tắt thở, không có việc thăng trầm của sinh tử luân hồi, thì vì sao lại sợ làm ác? Vì vậy, họ không có nhân quả, thiện ác nào có thể bàn.

3/ Tà kiến _ tri kiến bất chánh, không tin và loại bỏ chánh pháp, cho là không nhân quả, hủy báng Thánh hiền, phá hoại các việc thiện.

4/ Kiến thủ kiến _ Kiến tức là chỉ cho “Ngã kiến, biên kiến, tà kiến” đã được nói ở trên. Thủ là bám lấy không bỏ. Tức là đối với ba việc bất chánh kiến đã nói ở trên chấp cho là thật. Kiến này cũng còn gọi là “Không phải quả mà cho là quả”, nghĩa là mình vẫn chưa thân chứng Thánh quả mà hiểu sai, vọng chấp cho là được Thánh quả.

5/ Giới cấm thủ kiến _ giới là giới cấm các loại sát, đạo, dâm, vọng. Cấm là cấm tuyệt việc ham thích các loại: uống rượu, đánh bài, hút thuốc nha phiến. Trì giới và giữ giới cấm vốn là điều tốt. Vì sao ngược lại nói là không chánh kiến?  Đây vì do một chữ “Thủ” mà mắc tội. Thủ là chấp trước, là vọng chấp. Từ chỗ giới cấm mà trì giới bất chánh và chấp trước và cho nó là tối thù thắng. Như Ấn Độ, có một loại ngoại đạo, họ trì giới bò, hoặc trì giới chó. Họ thường ăn cỏ, ăn phẩn, hoặc làm nhiều thứ khổ hạnh như nhảy vào hang núi, xuống sông, lao vào lửa, nằm gai. Họ vốn không phải là lý do chánh đáng xuất thế, mà lý do là chấp trước tu loại khổ hạnh này, là để hoạch được diệu quả Niết Bàn tối thượng. Cho nên còn gọi là “Không phải nhân duyên, coi như nhân duyên”.

Năm loại bất chánh kiến ở phần trên, là sự mê hoặc trên tri kiến, gọi là kiến hoặc. Là vì các loại tà sư, tà kiến, tà tư duy mà sanh ra bất chánh kiến. Như ở trong kiến đạo mà nghe chánh pháp, tức là có khả năng mau chấm dứt ác kiến. Vì lý do dễ đoạn trừ ác kiến, nên gọi là Ngũ lợi sử. Kinh Phật có nói: Xá Lợi Phất vốn  là đệ tử của ngoại đạo, vì gặp Tỳ kheo Ma Đằng mà nghe được pháp môn nhân duyên của Phật dạy, liền bỏ tà quy chánh. Sau khi đích thân nghe Phật Đà thuyết pháp bảy ngày thì ông hoàn toàn thông hiểu được Phật pháp nên chứng ba quả La Hán. Lại trải qua mười lăm ngày tu trì, ông đoạn trừ được mười hoặc và chứng quả A La Hán. Mười hoặc tức là tham, sân, si, mạn, nghi và năm loại bất chánh kiến, cũng gọi là Thập sử. Bởi vì nó có thể khiến cho chúng sanh mê vọng, trầm luân và khổ hải. Do Thập sử này mà khởi lên hai hoặc: kiến hoặc và tư hoặc. Cho nên nó là căn bản của phiền não, là nhân khổ lưu chuyển sanh tử của chúng hữu tình.

            [ Chú giải]:

1.      Tham, sân, si, mạn, nghi là thuộc về tư hoặc. Năm loại bất chánh kiến là thuộc về kiến hoặc. Đoạn trừ hai hoặc: kiến hoặc và tư hoặc liền chứng quả A La Hán.

2.      Xá Lợi Phất nghe Tỳ kheo Ma Đằng nói: “Các pháp do nhân duyên sinh, cũng từ  nhân duyên diệt. Thầy tôi, đại Sa môn  thường nói như thế.”

 

XXII   GIẢI THÍCH GiẢN LƯỢC VỀ THANH VĂN THỪA:

Phật Đà nói pháp Tứ đế ở vườn Lộc Uyển, năm người Kiều Trần Như v.v… nhân vì do nghe âm thanh của Phật thuyết pháp Tứ đế mà ngộ đạo. Cho nên Tứ đế lại khởi ra một tên khác gọi là “Thanh văn”. Phàm vì người thuộc về tu pháp môn Tứ đế mà ngộ đạo, gọi chung là “Thanh văn thừa”. “Thừa” là ý nghĩa chuyển vận, tức là công cụ đưa chúng sanh từ  bờ mê đến bờ ngộ, công cụ này chính là chỉ cho giáo pháp. Cho nên thừa là tỷ dụ và chỉ cho giáo pháp. Đó tức là chỉ phương pháp đạo lý về Tứ thánh đế, do nghe Tứ thánh đế mà họ có khả năng đạt tới (vận chuyển) bờ kia giác ngộ.

            Quả vị của Thanh văn thừa _ Thanh văn thừa tu tập pháp Tứ đế mà chứng quả vị giác ngộ. Có bốn quả:

1.      Sơ quả _ Tu Đà Hoàn (Dự lưu).

2.      Nhị quả _ Tư Đà Hàm (Nhất lai).

3.      Tam quả _ A Na Hàm (Bất hoàn).

4.      Tứ quả _ A La Hán (Vô sanh).

            [ Chú giải]:

1/ Sơ quả là quả vị thứ nhất của Thanh văn vì công phu rất  ít, tiếng Phạn gọi là Tu Đà Hoàn, Tàu dịch là “ Dự lưu”, tức là dự nhập vào dòng Thánh (tiến vào quả vị Thánh quả).

2/ Nhị quả, tiếng Phạn  là Tư Đà Hàm, Tàu dịch là “Nhất lai”, có nghĩa là tu đến quả vị này thì sau khi chết sanh lên cõi Trời, làm một người đời ở trên Trời, lại một lần sanh đến thế giới này của chúng ta, thì không đến Dục giới để chịu sanh tử nữa.

3/ Tam quả, tiếng Phạn là A Na Hàm, Tàu dịch là “Vô hoàn”, tức là tu đến quả vị này thì không đến  nhân gian chịu sanh tử thì gọi là “Vô hoàn”.

4/ A La Hán là quả vị cao nhất trong Thanh văn thừa. A La Hán là tiếng Phạn, có ba nghĩa:

1)      Sát tặc _ phá giặc phiền não.

2)      Vô sanh _ giải thoát sanh tử, không có vị lai.

Ứng cúng _ ưng nhận sự cúng dường của nhân gian trên Trời.

Tiếp theo

  http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/phatphap_nhapmon.htm

 


Vào mạng: 10-7-2008

Trở về mục "Đức Phật và Phật pháp"

Đầu trang