Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
PHẬT GIÁO SRI LANKA
Ngô Hưng Đan sưu tầm

A- Tổng quát 

Sri Lanka là hòn đảo nằm rất gần mũi phía nam của Ấn Độ. Diện tích khoảng 65,.500 km2, dân số  (2002) là 17,5 triệu người; mật độ dân cư là 262 người/km2, thủ đô đóng tại Colombo.

Trước đây, Sri Lanka được gọi là Ceylan. Sau khi độc lập (1948) những quan hệ của những người Cinghalais theo Phật Giáo (chiếm 3/4 dân số) và những người Tamoul theo Hồi Giáo thường gây căng thẳng chính trị. Kể từ năm 1984, xung đột đã nhanh chóng biến thành cuộc nội chiến tàn khốc. Theo yêu cầu của chính phủ Colombo, Ấn Độ đã đưa quân đến can thiệp năm 1987. Những vận động hòa giải  giữa chính quyền và các phần tử ly khai vẫn không đạt được kết quả cụ thể nào. Những biến động này đã gây tổn thất nặng nề cho quốc gia này. Đến nay, tình hình vẫn bất ổn.

Những niên hiệu chính trong lịch sử Phật Giáo Sri Lanka như sau:

   1-  Trong lịch sử kiến tạo đầu tiên của Sri Lanka, người Aryens từ phía tây Ấn Độ tiến sang bờ biển phía đông, rồi vượt biển sang đất Sri Lanka, mang theo cả nền văn hóa Ấn đến.

 Một số những nhà nghiên cứu Phật Giáo nhận định rằng Phật Giáo du nhập Sri Lanka  vào khoảng năm 250 trước Công Nguyên. Nhà vua Sri Lanka hồi đó là Tiên Ái  Đế Tu (Devanampiya) trở thành Phật tử và thành lập Đại Tự (Mahavihara). Đại Tự trở thành trung tâm của Thượng Tọa bộ (Nam Tông) Sri Lanka.

2- Trải qua những giai đoạn lịch sử, có nhiều Tông  phái Phật Giáo khác cũng đã được định hình, gây nhiều cuộc tranh luận, thậm chí triều đình cũng đã can thiệp  vào. Những cuộc tranh luận nói trên thông thường là tư tưởng Thượng Tọa bộ và mầm mống ban đầu của Đại Chúng bộ thời đó. 

Sau cùng, Thượng Tọa bộ phát triển vững chắc  hơn.  Sử  sách thường nhắc đến  vai  trò  của vị Phật Âm (Buddhaghosa), một Luận sư xuất sắc của Thượng Tọa bộ, đóng vai trò quyết định trong việc xây dựng nền tảng này. Những công trình trước tác của Ngài Phật Âm hiện nay vẫn còn lưu hành và truyền bátại Sri Lanka.

3- Vào khoảng thế kỷ XII: Vua Ba Lạc La Ma Bà Ha (Parakkambahu) đã tổ chức  Hội Nghị Phật Giáo Sri Lanka tại chùa Đại Tự và xiển dương Thượng Tọa bộ tại nước này, cho là nền tảng vững chắc và  thích hợp với tôn giáo quốc gia. Những tông phái khác không phát triển mấy.

4- Vào thế kỷ XVI: Nhiều quốc gia xâm nhập. Người Bồ Đào Nha đến Sri Lanka vận động giao thương và đã tìm cách du nhập Thiên Chúa Giáo ở Sri Lanka. sau đó, người Hà Lan đến, muốn chiếm vị  thế vững chắc, chủ trương khôi phục Phật Giáo ở nước này.

 Ngoài ra, Miến Điện và Thái Lan cũng gây ảnh hưởng đáng kể tại đây. Năm 1948,  Sri Lanka độc lập, đạo Phật đóng vai  trò quan trọng trong tín ngưỡng cả nước, ảnh hưởng lớn văn hóa xứ này.

   B- Giai đoạn du nhập Phật Giáo

Phật Giáo từ Ấn Độ truyền vào Sri  Lanka vào khoảng thế kỷ III trước Công Nguyên. Đây là giai đoạn vua A Dục, vị vua nổi tiếng bảo vệ và phát triển Phật Giáo.  Ma Hi Đà (Mahinda) và Tăng Già Mật Đa (Sanghamitta), hai người con của A Dục Vương (Asoka) truyền từ Ấn Độ sang. Ngay từ buổi ban đầu, nhà vua Sri Lanka là Thiên Ái Đế Tu đã ngưỡng mộ Phật Giáo, sau khi được nghe phái đoàn này giảng giải về bộ kinh Cutahatthi Pagoda Pamasutra. Nhà vua và đông đảo quan lại trong triều đều quy y Phật pháp. Vương phi và một số cung nữ cũng quy y tại Ưu bà Di Tịch Xá.

Năm Phật lịch 502 (thế kỷ thứ I Tây Lịch), Phật Giáo Sri Lanka đã xẩy ra một vụ biến động tại vùng  Lahana có một  vị Bà La  Môn tên là Tissa cùng các lực lượng thuộc bộ tộc Đà Mật La (Damatta) tổ chức một lực võ trang đánh vào vùng  Mahatittha của Sri Lanka, dưới triều vua Vattga Mani).

 Thành này bị thất thủ, nên nhà vua phải chạy trốn vào vùng rừng núi 14 năm.  Trong thời gian này, chiến tranh  loạn lạc khắp nơi.Dân chúng đói kém, thậm chí phải giết nhau để kiếm thức ăn. Người chết vô số, chùa chiền bỏ  hoang, kể cả những ngôi chùa nổi tiếng cũng không tránh khỏi tình trạng này. Nhiều sư tăng phải sang lánh nạn tại Ấn Độ. Lịch sử  gọi đó là "Thảm họa Bà La Môn".

Một số cao tăng đã hội họp nhau lại để cứu vãn tình thế và củng cố Giáo Hội. Họ  liền tổ chức những nhóm cứu tế để tìm thực phẩm cho dân. Họ đưa dân chúng đến  vùng cao nguyên Matale, nơi xa chiến trận và ảnh hưởng quân  thù.

    Khi được tạm yên, họ bắt đầu chỉnh đốn Giáo hội, nhóm họp tại Tịnh xá Aluvihara để kết tập kinh điển. Lần kết tập tạm thời (trong loạn lạc) tập hợp được 512 vị Tỳ kheo do hai vị cao tăng Buddhadatta và Tissa điều hành. Sử gọi là cuộc Kết tập lần thứ II trong lịch sử Sri Lanka.

Tương truyền rằng, về sau vua Vattga Man đã chiến thắng được lực lượng của  tên Tissa, giành lại  ngai vàng là nhờ đến sự giúp đỡ của vị cao tăng Mahatissa đã kêu gọi tín đồ Phật Giáo hậu thuẫn cho nhà vua. Để đền đáp công ơn này, nhà vua sau khi  bình định xong đất nước đã cho xây lại những chùa chiền đã bị phá phách, kể cả ngôi quốc tự Abuaya Girihara.

C-           Phật Giáo trở thành quốc giáo

Chỉ trong vòng 100 năm sau đó, với chương trình truyền bá sâu rộng, tổ chức chặt chẽ, cùng với sự hưởng ứng tích cực của triều đình, hoàng tộc, Phật Giáo trở thành quốc giáo của Sri Lanka. Những công trình chính trong giai đoạn này gồm có:

- Xây dựng một đạo tràng tại kinh đô Sri Lanka, đồng thời kiến tạo ngôi Đại Tự (Mahavihara). Ngôi chùa này là  trung tâm văn hóa Sri Lanka thời đó.

- Tổ chức an cư kiết hạ cho chư vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni; xây dựng tháp để cúng dường Xá lợi Phật.

- Ban hành các sắc chỉ: Xác định Sri Lanka là quốc gia Phật Giáo.  Chỉ có những quốc vương theo Phật Giáo mới được trị vì. Tín ngưỡng Phật Giáo không được thay đổi.

- Nhà vua có quyền uy lớn, tuy nhiên không dùng ngôi vị của mình để chi phối Tăng đoàn.

Có những trường hợp cho thấy vị thế của Tăng đoàn rất quan trọng, ảnh hưởng đến cả vấn đề chính trị. Cụ thể là:

- Trường hợp nhà vua Mahasena  (334-362) muốn bắt vị Thượng tọa Tissa phải hoàn tục do vi phạm giới luật nghiêm trọng; tuy nhiên vấn đề chỉ có thể thực hiện được do sự đồng ý của Tăng Đoàn và Tăng Vương.

- Trường hợp nhà vua Silameghanna vào năm 617 đã yêu cầu tăng chúng của  chùa Đại Tự và chùa Vô  Úy đến kinh đô cử hành  tụng giới, nhưng tăng chúng của hai  ngôi chùa này không chịu hợp tác, nên nhà vua cũng đành chịu.

Trường hợp nhà vua Dotropatissa, năm 698 có hành động không làm vừa lòng  tăng nhân của chùa Đại Tự, thì họ nhất định "úp bát" không chịu nhận sự cúng dường của nhà vua.

  Những sự kiện trên đây nhấn mạnh một điều: Uy quyền và thanh thế của Tăng đoàn trong cả nước rất mạnh, tạo áp lực đến triều chánh nữa. Trong những trường hợp triều đình gặp những điều bất ổn giữa các phe phái các đại thần, thì việc hòa giải  thường do các cao tăng trọng vọng.

  Thậm chí cả việc lập ngôi vua, quyết định sau cùng vẫn là ý kiến của vị Tăng thống trong cả nước.

D- Phật Giáo phát triển (Thế kỷ II - X)

Năm 313, đánh dấu một chuyển biến quan trọng  trong tổ chức Phật Giáo Sri  Lanka. Giáo Hội và  triều đình thành lập Tăng đoàn toàn quốc, sau khi đã hoàn thành việc kết tập Tam Tạng kinh điển. Trong cuộc kết tập lần này,  những cao tăng tham  dự đã chọn lựa những kinh điển quan trọng để phiên dịch, chú thích, truyền bá.

   Ngài Phật Âm (Buddhaghosa) được cung thỉnh điều hành việc phiên dịch này. Căn cứ theo thư tịch của sách "Đại Sử", trong giai đoạn đó, có trên 800 ngôi chùa khuôn khổ khác nhau được kiến tạo trong cả nước.

Vua Thiện Ái Đế Tu có 4 người em, lần lượt lên ngôi vua, đều rất nhiệt thành thúc đẩy Phật Giáo phát triển. Họ cũng xây dựng thêm nhiều Tu viện và Phật  học đường để giảng dạy kinh sách cho hàng tu sĩ và cư sĩ.

   Lịch sử Sri Lanka ghi chép rất đầyđủ và xiển dương công trình to  lớn nhất trong thời kỳ này là nhà vua Kakavanna trong việc phát huy văn hóa Phật Giáo trên mọi mặt, canh cải tổ chức Phật Giáo trong quảng đại quần chúng. Hai ngôi chùa nổi  tiếng nhất của đất nước này là chùa Tissama Harama và chùa Citta Lapabbata xây dựng trong thời này và được bảo lưu cho đến ngày nay qua nhiều lần trùng tu sau đó.

E- Thời kỳ cận hiện đại

1) Chấn hưn Phật Giáo: Ngày 4 tháng 2 năm 1948, Sri Lanka  giành độc lập sau những năm tháng dài bị người Anh đô hộ. Tuy vậy, chính trị và pháp luật trong giai  đoạn này vẫn thuộc quyền của người Anh. Thời đó, Cơ Đốc Giáo được  ngoại bang tán trợ, có nhiều quyền hành, trong khi Phật Giáo vẫn bị người Anh áp  bức. Nhưng  dần dà, những cuộc tranh đấu khác vẫn diễn ra.

Năm 1950, tín đồ Phật Giáo Sri Lanka thành lập Liên Nghị Hội Tín đồ Phật  Giáo  Thế giới (World Fellowship of Buddhists). Đại Hội lần thứ nhất được triệu tập vào tháng 5/1950 ở  Colombo, 29 quốc gia tham dự, đã bầu tiến sĩ Malalasekera làm Chủ tịch. Tôn chỉ của Hội này là thúc đẩy tình hữu nghị và giao lưu văn hóa giữa các tín đồ Phật Giáo các nước, phát huy tư tưởng Phật Giáo, cùng nhau trao đổi phương pháp truyền đạo và hành đạo, nâng cao địa vị quốc tế của Phật Giáo.

Nhiều học giả Phật Giáo Thái Lan có công trong phong trào chấn hưng này. Tiến sĩ Mã Nguyên được mời làm Viện trưởng Viện Văn Học trường đại học Sri Lanka, vốn là  một học giả Phật Giáo nổi tiếng. Ông là tác giả bộ "Văn học Pali Sri Lanka" (The Pali Literature of Sri Lanka - Colombo), "Từ điển danh từ Chuyên ngữ Pali" (Dictionary of  Pali Proper Names), chủ  biên bộ  "Phật Giáo Bách Khoa Toàn Thư".

 Uy tín Phật Giáo ngày càng được nâng  cao. Năm 1956, chính phủ mới thành  lập, do thủ tướng S.W.R. Bandaranayke lãnh đạo, trong đó thành phần bộ trưởng đa số là tín đồ Phật Giáo.

  2) Tổ chức Tăng già: Phật Giáo Sri Lanka được tổ chức vững vàng hơn. Tính đến năm 1998, số tăng sĩ lên đến 18.000 vị;  toàn quốc  có khoảng 5.620 ngôi chùa.  Về mặt  tổ chức  Tăng già, vì có sự khác nhau từ sự truyền thụ giữa Thái Lan và Miến Điện khi du nhập, cho nên Tăng già toàn quốc chia thành 3 tông phái lớn:

(a) Phái Xiêm La (Siam Syama Nikaya): được tổ chức sơ khởi vào năm 1755, từ Thái Lan truyền vào. Phái này phát triển cho đến ngày nay, có tăng chúng đông đảo nhất, ước khoảng 65% toàn thể tăng già, trên 12.000 vị. Trụ sở chính đặt tại chùa Hoa Viên ở Khảm Đề.

Về tổ chức, có một vị Đại Trưởng lão là chủ tịch nắm quyền lực tối cao của hệ thống Tăng già toàn quốc; hai vị Phó chủ tịch giúp việc điều hành. Một ban Chấp  hành gồm 20 vị  giữ những nhiệm vụ quan trọng trong Hội đồng Tăng Thống và Hóa Đạo. Tăng phái này chia ra các chi bộ chính như sau: chi bộ Asgiri, chi bộ Kotte, chi bộ Bantara, chi bộ Kalyani.

(b) Phái Miến Điện (Amparapura Nikaya): Phật Giáo Miến Điện được truyền vào Sri  Lanka vào năm 1802, số tăng già chiếm khoảng 20%, đứng sau phái Xiêm  La. Phái này được phân chia ra làm 24 chi bộ, được trải rộng ra khắp cả nước. Chi bộ quan trọng nhất được gọi tên là "Vô Diệt Cát Tường Chánh Pháp Thống Đại Tông Phái" (Amara Sirisaddhamma Vamsamaha Nikaya). Hệ thống các chi bộ khá chặt chẽ  và hình thức tổ chức cũng gần giống nhau.

(c) Phái tộc Môn (Ramanna Nikaya): Tộc Môn được truyền vào đất Sri Lanka kể từ năm 1864, từ miền Nam của Miến Điện  truyền vào. Phái này chiếm vào khoảng 15% số tăng già, ở vào hàng thứ 3. Tuy vậy số chùa chiền thì lại ở vào hàng đầu, có trên  1.000 ngôi chùa và đền tháp. 

    Tăng nhân của tộc Mônít hơn cho nên chỉ tập trung vào một chi bộ duy nhất. Tuy nhiên, số tăng già lại gia tăng nhanh hơn hai phái trên và cũng có thể là từ hai phái trên chuyển sang.

    Thành thử thường xẩy ra những cuộc tranh luận và chống đối nhau. Phái này  tập trung những vị học giả, những nhà nghiên cứu sâu sắc, cho nên được chính  quyền ngưỡng mộ và cung thỉnh vào những học vị cao các trường đại học Phật Giáo.

Kinh điển Tam Tạng của 3 phái trên phụng hành thì hoàn toàn giống nhau, chỉ có một số sai biệt về phương thức thực hành mà thôi. Có một số tập quán riêng của mỗi phái. Chẳng hạn: tăng nhân của phái Xiêm La thì cạo sạch lông mày. Khi ra khỏi chùa thì áo chùm cả 2 vai, có người để hở vai bên phải. Dù mưa hay nắng bao giờ cũng cầm theo chiếc dù màu đen. Tăng nhân của  tộc Môn khi ra khỏi chùa thì khoác áo giống như tăng nhân phái Miến Điện, nhưng thường cầm chiếc lá  "tala" che đầu tránh mưa nắng.

 Chùa viện:   

  Chùa viện của các phái kể trên có thể phân chia ra làm 4 loại:

(a) Chùa hay tịnh xá  (vihara): Đây là kiến trúc tương đối lớn trong những loại tu viện Sri Lanka ngày trước. Chùa hay tịnh xá thường bao gồm: Phật điện, tháp  Phật, tăng đường, hậu viện, phòng trai tăng...

(b) Tăng phòng (avasa): Còn được gọi là "tiểu tịnh xá", vì chỉ có tăng phòng là  nơi ở của chư tăng, có thể không có các vật liệu kiến trúc chủ yếu như điện Phật  và  tháp Phật. Ở đây không có những hoạt động tôn giáo đại chúng nào khác như giảng đường.

(c) Họ  viện Phật Giáo (parivena): cũng gọi là trường học Phật Giáo. Đây là cơ quan giáo dục của Phật Giáo, cũng có khi xây độc lập  một vị trí khác  thanh tĩnh hơn, kể cả thư viện nghiên cứu. Thông thường thì bao gồm cả Học viện Cao đẳng Phật Giáo và Trường Phật học Phổ thông.

(d) A Lan Nha (arannaka): Đây là những tu viện nhỏ, độc lập, nơi ẩn tu của một  số cao tăng tịnh tu, thiền tọa, xa lánh bụi trần. Nơi đây ít người lai vãng và xa hẳn trần tục.

F- Nghệ thuật Phật Giáo Sri Lanka.

Nghệ thuật Phật Giáo Sri Lanka được hình thành vững chắc vào thời kỳ Anuradhapura, kéo dài từ thế kỷ II trước Công nguyên cho đến năm 993  sau Công nguyên. Ngoài  vị trí địa hình có tính chất cổ xưa, những sử liệu trình bày hiếm hoi về kinh đô này trước sự du nhập của đạo Phật vào giữa thế kỷ III trước Công nguyên. Từ giai đoạn đó cho đến khi rời bỏ vị trí địa hình đó vào năm 993, đã trải qua hai giai đoạn:

Giai đoạn 1: Kéo dài từ thế kỷ III trước Công nguyên cho đến năm 432, năm kinh đô đặt dưới sự đô hộ của  dân Tamul trong ba mươi năm. Giai đoạn này nổi bật với việc xây các Tu viện và các stupa (tháp đền) rất được tôn thờ ở Sri Lan. Những công trình kiến trúc và điêu khác theo phong cách Mahagana từ đầu  thế kỷ  III sau Công nguyên, sự xuất hiện của "Thánh Sri răng Phật" trở thành "vật thiêng" bảo hộ của Vương quốc, đã tác động về sự định hướng nghệ thuật thời gian đầu về kiến trúc, điêu khắc và hội họa Phật Giáo.

Vào cuối thế kỷ III, một loạt các stupa theo kiểu dáng Ấn Độ dựng lên khắp  nơi. Đáng kể nhất là  lối điêu  khắc độc đáo trong thời  kỳ này, qua các loại phù  điêu có tầm cỡ lớn và đa dạng. Theo những tài liệu nghiên cứu nghệ thuật học, kiến trúc Phật Giáo Sri Lanka mang đậm sắc thái của phong cách Amaravati, được phát triển khắp các nước vùng Nam Á.

 Những pho tượng Phật dựng trong thời này đều có hình thể lớn, nghệ thuật được cách điệu, cảnh quan hoành tráng hơn trước nhiều.

Giai đoạn 2 (432-993):  Đây là thời kỳ "hoàng kim" của nghệ thuật Singhala. Những công trình kiến trúc Phật Giáo tiếp nối theo được phát triển theo thể thức mới: không còn thấy các stupa khổng lồ trước đây, nhưng lại chuyển sang các công trình kiến tạo Vatadage (thế kỷ VII-VIII) hình thành một ngành kiến trúc các tu viện và Niệm  Phật đường,  theo sắc thái dân tộc tính.

    Được đề cập đến nhiều nhất là kiến trúc của cung điện Sigiriya, công trình số 1 của triều đại Kassapa đệ nhất (477-495). Thành Cung này có 2 đặc điểm mang dấu ấn của kiểu thức mới:

 Trước hết, phải chọn lựa một cảnh quan hoành tráng, trang nghiêm, bố cục phong thủy hài hòa, dùng làm bối cảnh cho công trình chính.

  Thứ đến, trên nền tảng đó, vận dụng những ưu thế của thiên nhiên và đặc tính của kiến trúc theo trường phái Công năng (Fonctionalism), để tạo nên những công trình  xây dựng thích hợp.

    Sau cùng, phải bố trí 3 lãnh vực: kiến trúc, điêu khắc, hội họa được hài hoà, cân xứng Những tượng Phật thời này đều được tạo nên bằng hai vật liệu chính:  nguyệt thạch và cương thạch. Nguyệt thạch dùng để đắp phù điêu; cương thạch để khắc họa tượng Phật ngồi hay đứng. Cho đến nay, nền nghệ thuật này vẫn được phát triển ở Sri Lanka.

 http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/phatgiao_Srilanka.htm

 


Vào mạng: 1-6-2007

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang