Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

Ấn Tượng Quốc Sư Xứ Kim Chi

Thích Vân Phong

Mùa An cư kiết Hạ năm Nhâm Tuất (1982), thừa lệnh Hòa thượng Y chỉ sư thượng Vĩnh hạ Đạt, tôi đến thiền viện Sơn Thắng, Vĩnh Long,  đảnh lễ tác bạch thỉnh Ngài Giáo thọ Thích Đắc Pháp quang lâm Phước Hưng cổ tự, Sa Đéc để giảng dạy khóa Hạ trường 3 tháng. Lúc bấy giờ Ngài đang nhập thất, nhưng vì nể lời mời của Hòa thượng trụ trì Phước Hưng mà Ngài hứa khả. Năm ấy Ngài dạy quyển “Chân Tâm trực thuyết”,  thời đó mới giải phóng mấy năm, tình hình xã hội đối với văn hóa phẩm tôn giáo rất khó khăn, thế mà chúng tôi vẫn phát tâm in ấn quyển “Chân Tâm trực thuyết”“Tu Tâm quyết” lúc bấy giờ giấy rất xấu, khi in thì bằng cách đánh máy lên loại giấy sáp xong rồi trét mực đều lên trang giấy và lấy bẹ chuối kéo nhẹ thì sẽ có trang sách, in kiểu thô sơ vậy mà được hàng ngàn bản để ấn tống.

Hơn 20 năm trôi qua mà Chân Tâm trực thuyết Tu Tâm quyết vẫn mãi với một số Tăng sĩ trẻ vùng đồng bằng sông nước miền Tây. . .

Một lần nữa xin ôn lại cuộc đời và sự nghiệp tác giả của hai tác phẩm nêu trên, và cũng là một vị Quốc sư nổi tiếng xứ Kim Chi :

                              TIỂU SỬ QUỐC SƯ PHỔ CHIẾU, KOREA

 

(1158-1210)

Ngài Phổ Chiếu là bực Tôn túc của Phật Giáo và cũng là thỉ tổ Thiền Tông ở Triều Tiên vào triều Lý. Phật Giáo Triều Tiên khoảng trung diệp triều Lý có thể nói là thời đại hoàng kim. Hàng thượng lưu thì xu hướng giáo quán của Ngài Đại Giác. Dân gian thì xu hướng theo pháp “định huệ gồm tu” do sự dẫn dắt của Thiền Sư Phổ Chiếu. Hai vị này được xem là hai đại lương đống của Phật Giáo Cao Ly.

 Hai quyển “Chơn Tâm Trực Thuyết” và “Tu Tâm Quyết” này chẳng qua chỉ là hai tác phẩm nhỏ do Ngài Phổ Chiếu trước tác. Tuy nhỏ nhưng rất có giá trị và được kết tập vào Đại Tạng Kinh.

Về Thiền Tông, Ngài chủ trương: “Địng tức huệ, huệ tức định”. Nhưng đặc biệt chú mục nơi “Định huệ gồm tu”.

Ngài Phổ Chiếu (Bo Jo) húy là Trí Nột(Chi Nui), họ Trinh, hiệu Mục Ngưu Tứ. Quê Ngài ở ĐộngChâu, Kinh Tây (ngày nay là quận Thụy Hưng, Hoàng Hải Đạo). Ngài sanh vào năm Mậu Dần (1158) thời vua Nghị Tông đời thứ 17, Cao Ly. Thuở nhỏ, Ngài rất nhiều bịnh hoạn. Cha là ông Quang Ngộ thường đi chùa cầu hết bịnh cho Ngài. Tám tuổi Ngài được Thiền Sư Huy thuộc Tào Khê Tông thế độ. Tuy là ở với thầy thường, nhưng chí khí Ngài cao xa vượt chúng. Hai mươi lăm tuổi Ngài được tuyển làm tăng. Rồi sau đó Ngài đi về phương Nam đến Xương Bình ở lại chùa Thanh Nguyên.
Một hôm, nơi phòng học Ngài đọc Lục Tổ Đàn Kinh ngộ được “Thể dụng của chơn như tức là định huệ”. Do đấy nên Ngài bỏ hết ý niệm danh lợi, ưa thích ở rừng núi u-nhã.

Đời vua Minh Tông năm thứ mười lăm, Ngài đi xuống vùng núi Kha Sơn ngụ tại chùa Phổ Môn để nghiên cứu Đại Tạng. Năm thứ hai mươi bảy Ngài ẩn cư tại Vô Trụ am, ở Trí Dị sơn (nay là Khánh Thượng, Nam Đạo). Nơi đây cảnh trí u tịch thật là cảnh tu thiền. Một hôm, Ngài đọc Hoa Nghiêm luận của Lý Thông Huyền, Ngài biết yếu chỉ viên đốn của giáo lý Hoa Nghiêm cùng yếu chỉ Thiền Tông quyết không trái nhau. Lại đọc Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự của Ngài Khuê Phong, cùng ngữ lục của Ngài Đại Huệ, Ngài bỗng nhiên “khế hội”. Xác chứng rằng định huệ không thể thiên phế.

Niên hiệu Thần Tông năm thứ ba, Ngài dời về chùa Kiết Tường ở Tùng Quảng Sơn, tu thiền đàm đạo mười một năm và chuyên an cư trong luật của Phật. Ngài thường khuyên người tụng Kinh Kim Cang. Ngài còn giảng Lục Tổ Đàn Kinh, Đại Huệ Ngữ Lục để phát huy tông yếu. Sau đó thiền học được hưng khởi, người tham học càng ngày càng đông. Ngài lấy “Định huệ gồm tu”, tổng hợp Hoa Nghiêm, Thiên Thai và Thiền Tông, nhưng trong ấy Ngài đặc biệt làm sáng tỏ Thiền Tông.
Ngài còn xây dựng Bạch Vân Tịnh xá và Tích Thúy Am ở núi Bảo Sơn, Khuê Phong Lan Nhã và Tổ Nguyệt Am ở Thụy Thạch Sơn làm chỗ vãng lai tu thiền. Nhà Vua rất kính trọng đức hạnh của Ngài và đổi hiệu núi Ngài ở là Tào Khê sơn Tu Thiền Xã. Lại còn tự đề bảng để ban cho. Ngài còn lập Định Huệ Xã và tuyển “Định Huệ Kiết Xã Văn”.

Vào tháng hai năm Canh Ngọ (1210) đời vua Hi Tông năm thứ sáu, Ngài bỗng nói với Xã Chúng rằng: “Ta còn trụ thế chẳng bao lâu nữa, các người phải nỗ lực”. Ngày 20 tháng 3 hiện có chút bịnh, đến ngày 27, Ngài mặc y hậu và vào pháp đường, chúc hương thăng tòa, vấn đáp xong, Ngài ngồi dan chơn ra bỗng nhiên thị tịch.

Nhà Vua nghe tin, ban thụy hiệu là Phật Nhật Phổ Chiếu Quốc Sư. Tháp hiệu là Cam Lộ. Ngài hưởng thọ 53 tuổi, tuổi đạo được 36 hạ. Trước tác của Ngài ngoài hai tác phẩm này còn “Khuyến tu định huệ kiết xã văn”, “Khán thoại quyết nghi luận”, “Viên đốn thành Phật luận”. Ngoài ra còn “Chú thích Đại Huệ Thiền Sư thơ”, “Phê bình Khuê Phong Thiền Sư” v.v...

(bản dịch của Thích Đắc Pháp)

Giới thiệu một số hình ảnh các vị Quốc sư thờ tại Tổ đình Tòng Quảng tự :

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tháp xá lợi Phổ Chiếu Quốc sư :

 

Tòng Quảng Tự có một gian nhà mang tên “Di Ảnh Các” để thờ các vị Quốc sư, những bức họa chân ảnh vào năm Canh Tý (1780) :

 

Tin và ảnh Thích Vân Phong

 

***

 

  http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/antuongquocsuxukimchi.htm

 


Vào mạng: 11-08-2009

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang