Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
ĐẠI SƯ PHÁP TẠNG
NGƯỜI TẬP ĐẠI THÀNH TÔNG HOA NGHIÊM
Đỗ Trị Bình
Đồng Ngộ   dịch
(Tiếp theo và hết)

5. Dịch lại Hoa Nghiêm

Đời Võ Chu năm Thánh Lịch thứ 2 (699), ở tuổi cận kề 60, Pháp Tạng mới bắt đầu tham dự dịch lại bộ Hoa Nghiêm.

Kinh Hoa Nghiêm gọi đủ là Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm (hay còn gọi là Tạp Hoa Kinh). Đây là một trong những bộ kinh Đại thừa của Phật giáo Ấn Độ. Trong khoảng thế kỷ II đến thế kỷ IV, ở Nam Ấn, Tây Ấn và Trung Ấn bộ kinh này được lưu hành trước. Tại Trung Quốc, trong thời Đông Hán, Đâu Sa Kinh đã được dịch (Đâu Sa là Kinh Biệt Sanh của Hoa Nghiêm, nội dung giống phẩm Như Lai Danh Hiệu và phẩm Quang Minh Giác). Đến đời Đường đã có hơn 35 bộ được dịch có liên quan đến những phẩm trong kinh này. Trong số đó, những bản dịch đời Hán tương đối sớm và hoàn chỉnh, nhưng phải kể đến bản dịch trong đời Đông Tấn, bản này được chia thành 60 quyển, 34 phẩm. Nhưng đáng tiếc, bản Tấn dịch câu cú quá rườm rà, có rất nhiều chỗ không đúng nguyên bản, riêng trong phẩm Nhập Pháp Giới bỏ mất hai đoạn. Hơn 300 năm lại đây, bản Tấn dịch không ai đối chiếu chỉnh sửa, Pháp Tạng rất lo, có lúc Ngài ngồi trầm ngâm dõi mắt về trời Tây hy vọng một ngày nào đó mình sẽ có nguyên bản để đối chiếu.

Năm 680, Hòa thượng Vân Nhật Chiếu từ Trung Ấn sang Trung Quốc, đồng thời Ngài đã đem cả bản tiếng Phạn Kinh Hoa Nghiêm sang. Được biết bản tiếng Phạn do Hòa thượng mang qua trong đó có phẩm Nhập Pháp Giới, Pháp Tạng liền cùng Hòa thượng bắt tay vào việc phiên dịch, đối chiếu, chỉnh sửa toàn bộ bộ kinh này. Tương truyền, lúc hai Ngài dịch, xung quanh phát ra âm thanh rất lạ cơ hồ như tiếng sét. Phẩm Nhập Pháp Giới cuối cùng được dịch sang Hán văn một cách hoàn chỉnh, văn từ gãy gọn, nghĩa lý chu toàn.

Niên hiệu Thiên Thọ năm đầu (690) là một năm để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong nền lịch sử Trung Quốc. Năm đó Võ Tắc Thiên cuối cùng cũng phế bỏ được triều nhà Đường, đổi quốc hiệu là Chu, bà tự xưng là Thánh Thần Hoàng Đế, đổi Lạc Dương thành Thần Quận, đồng thời cho lưu hành bộ Đại Vân Kinh. Khắp nơi trong nước, quận huyện nào cũng dựng chùa Đại Vân. Việc này không phải không có nguyên do. Đại Vân Kinh do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào đời Hậu Lương, trong ấy có đoạnVì giáo hóa chúng sanh nên Bồ-tát hiện làm thân nữ ”. Thế là người ta thần tượng, đề cao Võ Tắc Thiên, cho rằng Võ Tắc Thiên là Phật Di-lặc giáng thế, thay nhà Đường làm Thiên tử. Sau khi lập ra triều Chu, Tắc Thiên đã thi hành chính sách phụng Phật, thờ Phật, lại sai sứ đến vùng Hòa Điền ngày nay thỉnh Sa-môn Thật Xoa Nan Đà (Hán dịch là Vân Hỷ Học) vào nước giảng kinh, và hạ chiếu thỉnh Pháp Tạng đến chùa Đại Biến Không ở Lạc Dương cùng tham gia công việc phiên dịch.

Niên hiệu Chinh Thánh năm đầu (695), từ Trường An, Pháp Tạng cất bước đến Lạc Dương. Từ Trường An đến Lạc Dương, lộ trình chừng 850 dặm. Lúc này đang vào cuối đông, gió tuyết đầy trời, cái lạnh như đâm da cắt thịt. Hai bên Đồng Quan và Hàm Cốc dốc núi dựng đứng, vách đá cheo leo dài đến mấy mươi dặm. Phải mất hai, ba tháng sau, Pháp Tạng mới đến được Lạc Dương. Bất chấp mọi gian nan vừa trải, chẳng kể thân tâm bị nhọc nhằn, Ngài bắt tay ngay vào công việc. Điều càng làm Ngài phấn chấn hơn, hoan hỷ hơn chính là được dịch Kinh Hoa Nghiêm. Lúc này những Danh tăng, Đại sư như Nghĩa Tịnh, Hoằng Cảnh, Viên Trắc, Thần Anh, Pháp Bảo đã có mặt đầy đủ trong Dịch trường. Thật là nhân tài chẳng thiếu, sinh khí có thừa. Pháp Tạng phụng chỉ làm Bút thọ.

Một hôm, Võ Tắc Thiên xa giá đến chùa Đại Biến Không thăm hỏi các Đại sư, thiết trai cúng dường nhằm tỏ lòng tôn kính của mình. Việc Võ Tắc Thiên đích thân tới thăm hỏi, đủ thấy Hoàng thất rất quan tâm, ủng hộ Phật giáo, nhất là công việc phiên dịch. Đó cũng là nguồn động viên, khích lệ cho những ai đóng góp tài năng trí tuệ của mình trong công việc. Sau đó Dịch trường này đã được đổi thành chùa Phật Thọ Ký. Trong lần phiên dịch, chú giải ấy, Pháp Tạng đã lấy hai đoạn mà Đại sư Vân Nhật Chiếu đem sang bổ dịch vào Tân bản. Lần phiên dịch này kéo dài hơn 4 năm, đến năm Thánh Lịch thứ 2 (699) bộ kinh mới hoàn thành, bản dịch có cả thảy 80 quyển.

Dù bổ khuyết những phẩm như : Như Lai Hiện Tướng, Phổ Hiền Tam Muội, Hoa Nghiêm Thế Giới, nhưng bộ Hoa Nghiêm tân dịch vẫn còn thiếu. Để hoàn chỉnh bộ kinh, Pháp Tạng đã tìm tòi, đối chiếu không hề mỏi mệt. Ngài đem hai bản dịch đời Tấn và đời Đường đối chiếu Phạn bản, đem bản dịch của Hòa thượng Vân Nhật Chiếu bổ khuyết những điểm thiếu sót trong bản dịch của ngài Đàm Vô Sấm khiến cho bộ kinh Hoa Nghiêm văn nghĩa nhất quán, lưu truyền đến nay. Người đời sau tán dương công lao Ngài rằng :Bổ khuyết tận tường, hoàn chỉnh Hoa Nghiêm, khơi dòng nhỏ trở thành mạch lớn, làm trăng khuyết trở nên tròn đầy, một vầng tròn sáng, soi tỏ muôn nơi”.

Năm Thánh Lịch thứ 2 (699), toàn thể Pháp sư, Đại đức chùa Phật Thọ Ký thỉnh Pháp Tạng giảng giải Kinh Hoa Nghiêm mới được dịch đó ngay tại chùa này. Sau khi nghe tin, Võ Tắc Thiên hết lòng ủng hộ. Bà hạ chiếu chọn ngày 05 tháng 10 làm ngày khai hội. Tư tưởng thông thoáng, thể nhập lý kinh, nên Pháp Tạng đã khai mở hầu như toàn bộ diệu lý thâm sâu ẩn tàng trong đó. Đến ngày 12 tháng 12, Ngài đã giảng ròng rã hơn 2 tháng. Giảng đến phẩm Hoa Tạng Thế Giới, giảng đường và tự viện đột nhiên rung chuyển, đó là điều xưa nay chưa hề xảy ra. Cả chúng hội đều kinh ngạc. Tương truyền lúc Phật nói pháp thường cảm điềm lành “sáu cách chấn động”, và đây là một trong sáu cách ấy. Võ Tắc Thiên nghe tin, vô cùng vui mừng, bà cho rằng đó là minh chứng trời giúp nhà Chu.

Pháp Tạng là người rất tận tâm trong việc thuyết giảng và là một người quan trọng trong đạo tràng dịch kinh. Những pháp hội lớn thời ấy Ngài đều được mời đến diễn giảng. Sau khi dịch xong Kinh Hoa Nghiêm, Ngài đã tham dự phiên dịch hơn 20 bộ kinh khác tại Trường An và Lạc Dương. Võ Chu niên hiệu Cửu Thị năm đầu (700), Võ Tắc Thiên hạ chiếu bảo Pháp Tạng đem kinh Đại Thừa Nhập Lăng Già mà Ngài vừa dịch xong vào cung. Pháp Tạng và Thật Xoa Nan Đà chỉnh lý lại, phân thành 7 quyển, đồng thời Ngài đem số kinh luận do Hòa thượng Vân Nhật Chiếu dịch được gom thành 24 quyển rồi đưa vào cung. Võ Tắc Thiên viết bài tựa, hết lời khen ngợi tài năng và trí tuệ của Ngài. Năm Trường An thứ 2, Pháp Tạng về lại Tây An, cùng Đàm Vô Sấm dịch bộ Kinh Văn Thù Thọ Ký tại chùa Thanh Thiền.

Như đoạn trước đã nói, lúc dịch lại Kinh Hoa Nghiêm, Pháp Tạng và Nghĩa Tịnh đều tham gia. Có thể nói Hoa Nghiêm tân dịch là kết tinh tài năng, trí tuệ của hai Ngài cùng những Đại sư khác. Đầu niên hiệu Cửu Thị, Nghĩa Tịnh tổ chức đạo tràng phiên dịch, một lần nữa Pháp Tạng phụng chiếu làm Bút thọ. Năm Trường An thứ 3 (703) Ngài tham gia dịch bộ Kim Quang Minh Tối Thắng và 31 bộ kinh khác.

 

6. Vào cung giảng kinh

Sự nghiệp giảng kinh của Ngài thành tựu đáng kể, đặc biệt là những hiện tượng rất lạ làm người ta khó lòng quên được. Từ đó làm cho Võ Tắc Thiên nảy ra ý thích nghe Ngài thuyết giảng.

Nhà thơ Lý Bạch gọi Võ Tắc Thiên là một trong bảy Thánh nhân, Lý Chí đánh giá Tắc Thiên “hơn Cao Tông mười lần, hơn Trung Tông vạn lần”. Ngoài việc quốc gia đại sự, bà còn là một người làu thông kinh sử, rất giỏi văn chương. Sau khi lên ngôi Hoàng đế, Tắc Thiên ban ra lệnh chế “Phật giáo đứng trước Đạo giáo”, để tâm đến những Phật sự khác. Những lúc rảnh rỗi, bà thường đọc kinh sách nhằm tu dưỡng tâm tánh, đồng thời rút ra những kinh nghiệm quý báu áp dụng vào công việc trị quốc an dân. Trước đây, quốc sự rối bời, bà hầu như không có thời giờ để xem kinh luận, còn như hiện nay bốn biển an vui, thêm vào đó tuổi cũng về già, thế là Tắc Thiên quyết định thỉnh Pháp Tạng vào Trường Sanh điện giảng giáo nghĩa Lục Tướng và Thập Huyền Môn trong Kinh Hoa Nghiêm.

Lục Tướng và Thập Huyền Môn là luận lý căn bản để khai mở lý Duyên khởi vô ngại của tông Hoa Nghiêm, khái quát tính toàn thể, bộ phận, đồng nhất, sai biệt, sanh thành, hủy hoại của mọi sự mọi vật thành Tổng tướng, Biệt tướng, Đồng tướng, Dị tướng, Thành tướng, Hoại tướng. Sáu tướng này đồng thời hình thành, viên dung vô ngại. Ngoài ra luận lý này còn khái quát trần pháp thành Thập Huyền Môn. Thập Huyền Môn sự sự vô ngại, hay hiển bày được Phật tánh, đó chính là “Một tức tất cả, tất cả tức một, trùng trùng vô tận, viên dung vô ngại”.

Sau khi nhận được Thánh chỉ, Pháp Tạng vừa mừng vừa lo. Mừng vì được giảng kinh cho Hoàng đế nghe, đó là một vinh hạnh mà không phải ai cũng có. Xét về địa vị, Tắc Thiên là Thiên tử cai trị thiên hạ, nắm quyền sinh sát trong tay, không ai có quyền uy hơn bà; xét về tuổi tác, Tắc Thiên hơn Ngài 15 tuổi, lại là người làu thông sử sách, văn chương thi phú không thứ gì bà không rành, vào cung thuyết giảng tức là giao lưu, tiếp xúc với tầng lớp trí tuệ có tầm cỡ. Lo vì chỉ trong thời gian rất ngắn làm thế nào khai mở hết giáo nghĩa và luận lý căn bản của Kinh Hoa Nghiêm, đó là điều hết sức khó khăn. Yêu cầu của Tắc Thiên đặt ra quá lớn, giáo nghĩa của Lục tướng, Thập Huyền Môn thuộc về luận lý mang tính triết học, nếu lúc giảng không đào sâu, dẫn giải thì người nghe khó lòng hiểu được. Dù Ngài đã từng giảng giải nhiều lần, nhưng thật ra mà nói, đối với giáo nghĩa của Hoa Nghiêm, giảng giải khiến người ta tin hiểu là điều không phải dễ. Lúc này, Ngài thật sự đóng vai trò là một người giảng kinh cho giới học giả nghiên cứu về Phật giáo.

Một lần, để người học nhận thức và lý giải luận lý trùng trùng duyên khởi, viên dung vô ngại”, Ngài đã cho đặt 10 tấm gương ở 8 hướng cùng phía trên và phía dưới. Các tấm gương được quay đối diện nhau, ở giữa Ngài đặt một tượng Phật, thế là trong 10 tấm gương đều hiện lên tượng Phật, mỗi một tấm lại in hình của 9 tấm kia, hình Phật hiện trùng trùng, nhờ đó làm cho người học nhận thức ngay lý Duyên khởi này.

Năm Trường An thứ 4 (704), Pháp Tạng phụng chiếu vào Trường Sanh điện thuyết giảng. Đời Đường, chỉ cần là Tẩm cung của Thiên tử thì cho dù nó ở đâu cũng được gọi là Trường Sanh điện. Đến đời Võ Tắc Thiên về sau, Trường Sanh điện được đặt ở Lạc Dương, vì vậy Lạc Dương từ lâu đã trở thành Quốc đô.

Nghe Pháp Tạng đến, Tắc Thiên liền cho triều kiến. Lúc này bá quan văn võ đã sắp hàng dưới điện. Họ là Tể tướng Trương Giản Chi, Thôi Huyền Vĩ, Vi Thừa Khánh, Ngự Sử Trung Thừa Tống Cảnh, lại còn có anh em Trương Xương Tông, Trương Dị Chi. Bá quan hàng ngũ chỉnh tề, và Võ Tắc Thiên tuyên bố pháp hội giảng kinh chính thức bắt đầu.

Pháp Tạng lên tòa, đạo tràng im phăng phắc. Với phong độ của một Đại sư, Ngài đã đem hết sở học của mình khái quát toàn bộ những yếu chỉ căn bản của Hoa Nghiêm, đó là Tứ Pháp Giới, Lục Tướng và Thập Huyền Môn. Sau đó Ngài tự đưa ra thắc mắc rồi lần lượt giải đáp, chẳng hạn :Lúc nào cũng nghe người ta giảng Phật tánh, vậy Phật tánh là cái gì ? Đáp :Theo tông Hoa Nghiêm : Chỉ hỏi nguyên nhân, không hỏi kết quả, đó chính là Phật tánh; chỉ cầu kết quả, không tìm nguyên nhân, đó là Đại giải thoát; không nguyên nhân, không kết quả, đó cũng là Phật tánh; có nguyên nhân lại đi tìm nguyên nhân của cái nguyên nhân đó, có kết quả lại đi tìm kết quả của cái kết quả đó, ấy chính là Phật tánh, là Đại trí tuệ. Tông Hoa Nghiêm cho rằng : Phật tánh thường hằng, không hề biến đổi, mọi sự mọi vật đều nằm trong Phật tánh ấy, tất cả pháp môn, tất cả tông phái đều khai mở cái Phật tánh ấy. Khi đưa ra Nhất thừa Viên giáo là chúng ta kết quy Tiểu thừa, Đại thừa về Nhất thừa. Nhưng làm sao thấy được Phật tánh ?”

 Pháp Tạng dẫn giải bằng một câu chuyện như sau :Xưa có một ngôi làng cách Vương Xá khoảng chừng 50 ngày đường. Quốc vương nghe nói ở đó có con suối nước rất ngọt, liền ra lệnh cho dân chúng nơi ấy hàng ngày phải cung cấp nước suối cho mình. Dân chúng trong làng nọ mỏi mệt vô cùng, khổ không kể xiết, họ bàn nhau bỏ xứ ra đi. Trưởng làng nói với họ : Các vị hãy khoan đi vội, tôi sẽ tìm đến Quốc vương thay vì tính 50 ngày đường thì tính còn 30 ngày thôi, được vậy chắc các vị bớt khổ. Trưởng làng đến tâu rõ nguyên nhân, Quốc vương đồng ý. Sau khi biết tin, cả làng đều mừng rỡ. Nhưng có một người lên tiếng : Hóa ra lộ trình 30 ngày đường có khác gì 50 ngày đường đâu ! Nhưng dân làng lại cảm thấy vui vì quyết định của Quốc vương nên ai nấy đều tình nguyện ở lại.

Người đời phần nhiều thường an phận như vậy. Họ tu hạnh lành nhắm đến quả Phật, nhưng nửa đường thường sanh tâm giải đãi, mỏi mệt, vất hết công lao bấy nay, vì vậy mà chẳng ai thành tựu viên mãn thệ nguyện của mình. Phật dùng phương tiện chia Nhất thừa thành Tam thừa. Người học Tiểu thừa cho rằng tu thiện tích đức rất dễ thực hành, nhưng sau đó nghe người ta nói không có Tam thừa mà chỉ là Nhất thừa, nên tin ngay pháp Nhất thừa. Kỳ thật, đường xa đường gần, Tam thừa Nhất thừa đều là phương tiện. Phật pháp vô biên, đốn hiện tròn đầy, gần chính là xa, xa chính là gần, Nhất thừa chính là Tam thừa, Tam thừa kết quy về Nhất thừa. Hiểu được bản chất viên dung ấy mới thấy nó thống nhiếp tất cả, mới lãnh hội được Phật tánh, không rơi vào vòng thương ghét, không toan tính mưu cầu. Phật tánh như tấm gương sáng sạch, vật thế nào thì in hình thế ấy. Nếu như bên ngoài không có vật thì trong gương làm gì có hình. Cõi Phật viên mãn, một tức tất cả, tất cả tức một, các pháp duyên nhau, viên dung vô ngại, đó là giáo nghĩa thâm sâu nhất của Nhất thừa Viên giáo. Chỉ cần hiểu được Phật tánh là đã thông suốt Nhất thừa Viên giáo; thông suốt Nhất thừa Viên giáo mới có thể hiểu được Phật tánh”.

Lúc này, Tắc Thiên và quần thần rất tâm đắc. Pháp Tạng nói tiếp : “Vậy thì, Phật tánh và chúng sanh tương quan như thế nào ? Có người hỏi : Nếu nói chúng sanh đều có Phật tánh, mọi người đều có thể thành Phật, nhưng tại sao chúng sanh thì vô lượng, người thành Phật chẳng có bao nhiêu ? Nếu nói ai cũng sẽ được giải thoát, vậy số lượng chúng sanh đương nhiên giảm đi, nhưng tại sao lại không có tăng giảm ? Trong kinh ghi : Chúng sanh là Phật, Phật là chúng sanh, chúng sanh và Phật thật ra là một, nhưng tên gọi khác nhau. Cõi chúng sanh như hư không vô biên, giả sử có một con chim bay từ Tây sang Đông, bay đến trăm ngàn năm như vậy thì nó cách xa bờ Tây hay đến gần bờ Đông ? Đương nhiên là không, vì hư không vốn vô biên, không có hạn lượng. Vậy rốt cuộc nó không bay ư ? Cũng không phải, vì thật sự nó có công bay từ Tây sang Đông. Cho nên cõi Phật không tăng, cõi chúng sanh không giảm, chỉ có trí của Phật mới biết khắp tất cả, vọng tâm, tà kiến không thể nào thấu hiểu suy lường được”.

Hôm sau, Tắc Thiên mời Ngài giảng tiếp. Lần này Pháp Tạng giảng về Thập Trùng Huyền Môn, Hải Ấn Tam-muội Môn và Phổ Nhãn Cảnh Giới Môn. Đối với lãnh vực trừu tượng này dù Ngài giảng rất chậm, nhưng nghe đi nghe lại rốt cuộc Tắc Thiên vẫn mờ mịt, chẳng thể nào lãnh hội được. Lúc ấy, góc điện có đặt một con sư tử bằng vàng, Pháp Tạng nắm ngay con vật này dẫn giải. Ngài nói : “Vàng được đôi tay khéo léo của người thợ tạc thành sư tử, từ bản chất của vàng cộng với tài năng của người thợ mà có được con sư tử vàng này. Nếu nhìn vào hình dạng thì đó chính là sư tử, như vậy sư tử hiện bên ngoài và vàng ẩn bên trong. Nếu xét trên phương diện vật chất tạo thành thì đây là khối vàng, như vậy vàng thể hiện bên ngoài còn sư tử ẩn bên trong. Mỗi một sợi lông trên thân sư tử đều có đủ bản thể của sư tử vàng, tất cả sợi lông ấy cấu tạo thành sư tử, như vậy trong một sợi lông cũng đã hàm tàng sư tử, trong mỗi sợi lông đều hàm tàng tính cùng có như vậy. Tính cùng có của sư tử lại ẩn tàng trong mỗi một sợi lông, cứ thế nó trùng trùng vô tận, giống y như lưới của trời Đế thích”.

Võ Tắc Thiên nghe đến đây tâm bừng ngộ, thấu tỏ sự lý. Bà hoan hỷ vô cùng, liền hạ chiếu ban thưởng, thỉnh Ngài ở lại thiết trai cúng dường.

Giảng kinh trong Trường Sanh điện là một minh chứng để chúng ta thấy rõ tài năng và trí tuệ của Ngài. Trong số những vị giảng kinh thời ấy, Pháp Tạng có một vị trí quan trọng nhất. Sau, Ngài gom hết những điều mình giảng trong lần đó viết thành KIM SƯ TỬ CHƯƠNG dâng cho Võ Tắc Thiên.

 

7. Rước xá-lợi Phật

Mùa Đông, năm Trường An thứ 4 (704) một trận tuyết lớn phủ xuống, cả vùng Hà Nam, Thiểm Tây chìm trong tuyết lạnh. Cây cối bị tuyết phủ đầy, vạn vật giờ đây ngập chìm trong một thế giới trắng xóa.

Sau khi rời khỏi Trường Sanh điện, Pháp Tạng tiếp tục lao vào công việc giảng thuyết của mình. Ngày nọ, Ngài đứng trước sân ngắm nhìn cảnh tuyết. Bỗng có một cành cây phủ đầy tuyết rơi ngay trước mặt Ngài. Trước đây một ngày, tuyết trên cành cây này bị ánh nắng làm tan chảy, nước theo thân cây chảy xuống, gặp phải khí lạnh về đêm, tụ thành một trụ tuyết dính liền thân cây, trông thật đẹp mắt. Pháp Tạng đăm đăm nhìn vào trụ tuyết, bất giác Ngài phát hiện trong ấy có hai bảo tháp phát ra ánh sáng 5 màu. Chúng tăng đều kéo đến xem, trầm trồ không ngớt. Có người nói : “Đây là dấu hiệu Phật pháp của pháp hội Hoa Nghiêm !Vừa nói đến Phật ai nấy dường như có một linh cảm rất lạ kỳ. Tuệ Trí nói : “Theo sử sách nhà Ngụy ghi, tháp Phù Phong trên Kỳ Sơn ở Thiểm Tây chính là Thánh địa của Phật giáo !Bàn tới bàn lui, không biết xầm xì thế nào, cuối cùng sự việc này lọt đến tai Võ Tắc Thiên. Bà liền hạ chiếu mời hết các vị Danh tăng Đại đức đến Trường Sanh điện để hỏi lai lịch của tháp Phù Phong.

Như trước đã nói, khi lên ngôi Hoàng đế, Võ Tắc Thiên từng lấy Phật giáo làm thế mạnh cho mình. Đối với Phật giáo, bà lợi dụng sau đó mới tín ngưỡng, thậm chí rất mê tín nữa là khác. Ngay như danh xưng Hoàng đế, bà cũng lấy từ sách Phật. Danh hiệu “Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế” theo kinh Phật, lúc Thánh Vương lên ngôi, nhận được 7 vật báu, thứ nhất là Kim Luân Bảo, hễ quay bánh xe báu này là có thể hàng phục thiên hạ. Kế đến nào là “Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế”, “Thiên Sách Kim Luân Đại Thánh Hoàng Đế” v.v… Lúc về già, bà càng mê tín hơn. Giống như bao Đế vương phong kiến trước, Tắc Thiên cũng cầu trường sanh bất lão. Thế nhưng thời tiết không đều hòa, hơn nữa tuổi cũng đã cao, gần đây bịnh tình ngày càng nặng, bà chỉ muốn nằm nghỉ, chẳng màng đến việc triều chính. Vừa nghe tin tháp Phù Phong có xá-lợi Phật, bà liền hạ chiếu cho Trung Thư Thị Lang Thôi Huyền Vĩ, Hiền Thủ Quốc Sư Pháp Tạng cùng một số người khác đến chùa Pháp Môn ở Kỳ Sơn rước xá-lợi về.

Xá-lợi ở Kỳ Sơn là đốt xương tay của Thế Tôn. Tương truyền A Dục Vương là Quốc vương đời thứ 3 của Vương triều Khổng Tước bên Ấn Độ. Khi chưa quy y Phật giáo, A Dục Vương cũng là người bạo ngược vô đạo, muôn dân gọi ông là “Hắc A Dục Vương”. Sau khi quy y Phật, A Dục Vương đã dùng Phật pháp giáo hóa muôn dân, đặc phái những bậc Trưởng lão, Đại đức truyền giáo khắp xứ Ấn Độ, thậm chí đến giáo hóa những nước khác. Từ đó muôn dân gọi ông là “Bạch A Dục Vương”. Ông là một người tận tâm hộ trì Phật pháp. Võ Tắc Thiên sai người đi rước xá-lợi, bất luận là nguyên nhân gì, nhưng chúng ta có thể đoan chắc rằng, lý do quan trọng nhất là muốn tai qua nạn khỏi, cơ nghiệp vững bền, đồng thời lấy lòng muôn dân. Bất kể là lý do gì, việc rước xá-lợi Phật vẫn được xem là việc to lớn trong nền lịch sử Phật giáo Trung Quốc.

Mùng 04 tháng 11, Tể tướng Thôi Huyền Vĩ dẫn mấy mươi quan văn võ khác đội gió tuyết nhắm hướng Tây An cất bước. Lúc này, Pháp Tạng đang trụ trì chùa Đại Sùng Phước ở Tây An. Đang miệt mài soạn thuật kinh điển, nghe nói có Thôi Huyền Vĩ đến thăm, Pháp Tạng liền vội vã ra đón tiếp. Sau khi thăm hỏi xong, hai người cùng thảo luận chọn đường đến Kỳ Sơn đồng thời soạn thảo chương trình nghinh đón xá-lợi. Họ tra cứu lại trong sử sách, truy tìm chứng tích thực tế, cả đêm không ai chợp mắt.

Mùng 06 tháng 11, Pháp Tạng dẫn hơn 10 vị tăng khác theo đoàn người ngựa của Thôi Huyền Vĩ cùng đi Kỳ Sơn. Nhớ lại năm 16 tuổi, một mình rời khỏi Kỳ Sơn để tìm thầy cầu học, đường trước mịt mờ, chẳng biết nương thân ở đâu, thế mà vẫn liều lĩnh dấn bước, bây giờ nghĩ lại Ngài không khỏi giật mình. Giờ đây về lại nơi xưa, bản thân đã là người có chút tiếng tăm trong nhà Phật, từng được triều kiến Hoàng đế, kể ra cũng vinh hạnh cho Tổ tông. Đặc biệt lần này được Hoàng đế giao trọng trách rước xá-lợi Phật, thật là một vinh hạnh hiếm có.

Phải mất 7 ngày đêm gian nan vất vả, đoàn người ngựa mới đến được tháp Phù Phong. Biết tin đoàn người từ kinh thành đến rước xá-lợi, dân chúng mấy dặm quanh đó kéo đến xem đông như hội. Pháp Tạng quỳ trước tháp đảnh lễ cầu nguyện, sau đó Ngài nhẹ nhàng mở cửa tháp tiến vào bên trong. Trong ấy nhìn đâu cũng thấy tượng Phật. Trên tường, trên đỉnh tháp là tượng vẽ, xung quanh là tượng cốt bày la liệt. Ngài phát hiện ở tầng dưới cùng có một con đường ăn sâu vào bên trong, Pháp Tạng lặng lẽ tiến vào. Bên trong có một pho tượng Phật rất lớn, xung quanh còn không biết bao nhiêu tượng nhỏ khác. Trước tượng có một cái hộp nhỏ, Pháp Tạng thành tâm đảnh lễ và nhẹ nhàng mở hộp, đột nhiên cả tháp sáng lòa. Sau khi bưng ra khỏi tháp, Pháp Tạng nâng xá-lợi lên cho mọi người cùng xem. Mọi người chỉ thấy một vật như viên ngọc phát sáng trên tay Ngài, bất giác ai nấy đều cúi đầu đảnh lễ.

Ngày 17 tháng 11, Pháp Tạng đưa xá-lợi về Trường An. Thái thú Kỳ Châu đưa đoàn người đến mấy mươi dặm. Dọc đường, khi ngang qua các châu huyện, quan lại đều ra nghinh đón, tiếp đãi long trọng. Ngày 28, đoàn người rước xá-lợi về đến Trường An. Thái thú Trường An Cối Kê Vương dẫn hết quan lại sắp thành hai hàng cung đón. Họ đốt hương, tung hoa, trỗi nhạc rước xá-lợi vào chùa Đại Sùng Phước. Đêm đó, xá-lợi tỏa hào quang ngũ sắc sáng rực cả điện đường.

Hôm sau, toàn thể Trụ trì, Trưởng lão ở các tự viện trong Trường An đều đến chùa Đại Sùng Phước chiêm ngưỡng, lễ lạy. Pháp Tạng vốn là Trụ trì chùa này, nên Ngài đứng ra làm chủ sám khóa lễ, sau đó Ngài kể lại hành trình rước xá-lợi cho mọi người cùng nghe.

Đầu tháng 12, Pháp Tạng, Thôi Huyền Vĩ cùng đoàn người đưa xá-lợi về Hà Nam Lạc Dương. Lúc này, dù đang bịnh nặng, nhưng nghe được tin Võ Tắc Thiên liền thấy khỏe hẳn. Bà ra lệnh tập họp quần thần, bá quan văn võ cùng trăm họ ở Lạc Dương chuẩn bị nghinh đón. Cả thành Lạc Dương tưng bừng như hội. Cờ xí rợp trời, tiếng nhạc trỗi vang, cả thành như chìm trong hương khói. Đầu tháng Giêng năm sau, Thái Thường Tự Khanh phụng chiếu Hoàng đế, an trí xá-lợi ở Minh Đường. Kế đó, Võ Tắc Thiên dẫn bá quan vào lễ lạy, cầu phước.

Rước xá-lợi về Lạc Dương là công việc cuối cùng mà Pháp Tạng làm cho triều Chu, vì tiếp theo đó Hoàng triều xảy ra chính biến trong năm Thần Long.

 

8. Đem pháp cứu đời

Đưa xá-lợi về đến Lạc Dương, Pháp Tạng mới thật sự hết lo. An trí xá-lợi xong, Ngài lại bắt tay vào công việc giảng kinh viết luận, nhưng thời thế thay đổi, một lần nữa mọi chuẩn bị của Ngài phải đành gác lại, vì cuộc thay ngôi đổi chủ trong triều đình.

Khi mới lên ngôi, Võ Tắc Thiên đổi nhà Đường thành nhà Chu, bà đã không ngần ngại dùng chính sách trấn áp, mưu sát với mục đích củng cố sự thống trị của mình. Cho dù bà đã thực thi chính sách bạo ngược, củng cố hoàn hảo phe cánh, trấn áp thẳng tay những kẻ chống đối, nhưng ở một xã hội phong kiến cha truyền con nối, đương nhiên sẽ còn rất nhiều người vẫn một lòng muốn khôi phục Đường triều. Tệ hại hơn, về già bà sủng ái hai anh em Thị thần Trương Xương Tông và Trương Dị Chi đến nỗi không thèm tiếp kiến Đại thần. Từ đó bá quan trong triều không khỏi than ngắn thở dài, căm phẫn oán thán. Lúc này, Trương Giản Chi, Thôi Huyền Vĩ, Lý Đa Tộ v.v… là những người từ lâu muốn khôi phục Đường triều, họ chuẩn bị phát động chính biến, lật đổ vương triều Võ Chu. Ngày 22 tháng 12 niên hiệu Thần Long năm đầu (705), Thôi Huyền Vĩ tìm đến Pháp Tạng báo cho Ngài biết hôm nay sẽ lập kế giết hai anh em họ Trương kia, hy vọng Ngài đồng ý trợ giúp việc khôi phục Đường triều.

Từ lâu, Pháp Tạng đã thấy bất mãn với những việc làm của anh em Trương Xương Tông. Càng căm giận hơn khi Ngài biết hai anh em họ Trương giành đất của nông dân, cấu kết với bọn yêu tăng làm những việc đồi bại. Bởi vậy, khi Huyền Vĩ cho biết phải trừ khử hai kẻ ấy, Pháp Tạng liền tán thành.

Cuộc chính biến diễn ra êm thắm và thuận lợi. Hai anh em họ Trương bị trừng trị, Võ Tắc Thiên tuyên bố nhường ngôi cho Trung Tông. Ngày 29, Trung Tông luận công ban thưởng. Pháp Tạng “trong thì có công hoằng pháp, ngoài thì có công khôi phục triều đình” nên được gia phong quan hàm Tam Phẩm. Theo pháp chế nhà Đường, Tam Phẩm có cấp bực và lương bổng ngang bằng Tể tướng. Nhưng với Pháp Tạng, danh lợi địa vị từ lâu chẳng khác mây khói. Ngài khấu tạ Hoàng đế và lựa lời từ chối. Nào ngờ Trung Tông và bá quan đều cố chấp, một lần nữa, Trung Tông hạ Thánh chỉ buộc Ngài phải nhận. Không còn cách nào khác, Ngài đành nhận với điều kiện xin triều đình chuyển bổng lộc đó cho em là Pháp Bảo để nuôi dưỡng mẹ già 80 tuổi, nhằm tỏ chút lòng hiếu kính, còn bản thân vốn là người xuất gia tu hành, không màng gì đến danh lợi. Hoàng đế phê chuẩn.

Lúc này Pháp Bảo đã là quan Phó Giám, tài năng hơn người, công trạng không nhỏ, và là người đắc lực của triều đình. Đường Trung Tông năm Thần Long thứ 2 (706), Trung Tông hạ chỉ phong Pháp Bảo làm Du Lục Tướng Quân Đô Úy, đồng thời đặc ân cho Bảo nuôi mẹ già, được miễn thi hành quan vụ.

Tháng 06, Đường Trung Tông năm Cảnh Long thứ 2 (708), trời đại hạn, nhân dân mất mùa, Trung Tông hạ chiếu thỉnh Ngài mời hơn trăm Pháp sư vào chùa Tiến Phước trong Trường An để cầu mưa. Đạo tràng tụng kinh niệm Phật suốt 7 ngày đêm, cuối cùng mưa lớn đổ xuống liên tiếp mấy ngày. Trung Tông hạ lệnh ban thưởng.

 Với Pháp Tạng mà nói, mọi Phật sự đều là trách nhiệm hoằng dương chánh pháp, phổ độ chúng sanh, còn việc ban thưởng thật ra chẳng quan trọng gì. Ngài một đời giảng kinh, dịch kinh, viết sách, lập thuyết, đối với giáo nghĩa của Hoa Nghiêm, Ngài thông suốt tận tường, bởi vậy thay vì nhận sự ban thưởng, Ngài đã xin Hoàng đế được hoằng truyền giáo nghĩa Hoa Nghiêm trong khắp nước, đồng thời xin dựng chùa viện ở Trường An, Lạc Dương, Ngô, Việt, Thanh Lương Sơn nhằm cất giữ kinh điển. Sau khi được Hoàng đế phê chuẩn, 5 nơi ấy đã có 5 ngôi già lam mang tên Hoa Nghiêm được xây dựng. Phật giáo lúc này thịnh hơn triều trước.

Đường Duệ Tông niên hiệu Cảnh Vân năm đầu (710), mùa đông mùa xuân ít mưa, lại không có tuyết, trăm họ đói rét phải bỏ xứ mà đi, đã có không biết bao người chết đói chết cóng. Duệ Tông Hoàng đế liền triệu Ngài vào cung, hỏi xem có cách gì giúp dân không. Pháp Tạng liền đến chùa Ngộ Chân ở núi Lam Điền tác pháp cầu trời. Không đầy 10 ngày sau, quả đúng như lời Ngài từng tâu với Hoàng đế Ứng thời liền có kết quả”. Trời bắt đầu đổ tuyết, dày hơn một thước, Duệ Tông hoan hỷ vô cùng.

Mùng 02 tháng 11 đời Đường Huyền Tông niên hiệu Tiên Thiên năm đầu (712) là ngày sinh thứ 70 của Ngài. Mới sáng sớm, đệ tử của Ngài như : Hoằng Quán, Văn Siêu, Trí Quang, Tông Nhất, Tuệ Uyển, Tuệ Anh đã làm việc không hở tay. Họ lo tiếp đãi Danh tăng Đại sư từ khắp nơi đến chúc thọ Ngài. Cả ngày hôm đó, lễ mừng thọ chẳng khác nào đại pháp hội. Tiếng nhạc, tiếng kinh, lời  cầu, câu chúc cứ thế mà thay nhau. Pháp Tạng như mất hút trong dòng người. Ngài được mời lên bảo tòa của Thượng tòa để mọi người cầu chúc. Trong dịp này, Ngài đã cho tăng chúng xem bộ PHÁP GIỚI VÔ SAI BIỆT LUẬN NGHĨA SỚ mà mình mới viết xong. Ai nấy còn chưa hết ngạc nhiên thì sứ giả của Thái Thượng Hoàng Duệ Tông mang Thánh chỉ tới, mọi người đều quỳ xuống tiếp chỉ. Thánh chỉ ghi :Đại sư Pháp Tạng tinh cần đạt ngộ, lo cho Vương thất, hôm nay nhân ngày sinh nhật, xin chúc Đại sư thọ như sông Hằng, đức như núi Thái, kính dâng Đại sư pháp y, vật thực và 2000 tấm lụa”. Thánh chỉ của Thái Thượng Hoàng đã làm cho cả pháp hội tưng bừng hẳn lên.

Dù là bậc Tông sư của một thời, trên được vua chúa thăm hỏi, dưới được vương công đại thần đãi ngộ, nhưng Đại sư Pháp Tạng vẫn sống bình dị vô cùng. Thức ăn đạm bạc, y phục thô sơ, sống đời tri túc, nhẫn nại tự thủ, trọn đời hoằng dương Phật pháp, phổ độ chúng sanh, đó là đời sống đích thực của Ngài. Trước ngày mừng thọ, Ngài đã biết mình không còn sống được bao lâu nữa, bởi vậy khi chú giải đến hạnh thứ 6 trong Kinh Hoa Nghiêm, Ngài quyết định lược bỏ, thay vào đó dịch và chú thích phẩm Thập Định. Nhưng tiếc thay, Ngài mới hoàn thành được 9 định đã vội vàng lìa xa trần thế. Ngày 14 tháng 11 năm đó, Ngài đã viên tịch tại chùa Tiến Phước trong Trường An, hưởng thọ 70 tuổi. Thái Thượng Hoàng Duệ Tông, Đường Huyền Tông nghe tin bùi ngùi thương cảm. Theo pháp chế Đường triều, bá quan văn võ tạ thế, nếu hàng Nhất phẩm được cấp 200 thứ vật phẩm, 200 thạch lúa; nếu hàng Cửu phẩm thì được cấp 10 thứ vật phẩm. Nhưng Thái Thượng Hoàng hạ chiếu chỉ gia phong Ngài tước Hồng Lô Khanh, ban tặng 1200 tấm lụa để an táng, việc an táng tiến hành theo nghi thức Đại Cao tăng, triều đình lo liệu mọi chi phí. Ngày 24 tháng 11, di thể Ngài được an táng phía Nam chùa Hoa Nghiêm ở Thần Hòa Nguyên. Theo pháp chế đương thời, quan Tam phẩm được cử hành Quốc tang. Bí Thư Thiếu Giám Diêm Triêu Ẩn soạn văn bia thuật lại dấu tích hoằng hóa một đời của Ngài. Đó chính là văn biaĐại Đường Đại Tiến Phước Tự Cố Đại Đức Khương Tạng Pháp Sư Chi Biahiện nay vẫn còn. 

Xem phần I

http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/Phap_Tang2.htm

 


Vào mạng: 1-11-2001

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang