Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO THÁI LAN
Kiêm Đạt

 

 Nghệ thuật Phật Giáo Thái Lan có thể phân chia ra làm hai thời kỳ: thời kỳ Phật Giáo do người Môn và thời kỳ của người Thái. Trong thời kỳ phát triển đầu được gọi là Dvaravati, được dựng lên vào thế kỷ thứ V sau Công nguyên và kéo dài cho đến khi có những cuộc xâm lăng của người Khmer từ phương đông tới vào 500 năm sau đó. Khi những làn sóng di dân của người Tày – Thái từ Vân Nam truyền xuống qua từng đợt, thêm vào đó, do áp lực của Nguyên Mông từ phương bắc, kết quả là dẫn đến sự pha trộn  những chủng tộc khác nhau,  rồi cuối cùng là xây lên một nhà nước non trẻ, đóng đô tại Sukkhothay ở Trung bộ đất nước nầy. Phật Giáo dần dà trở thành quốc giáo của xứ sở nầy, thông qua những nhà cầm quyền rất mộ đạo và được dân chúng tham gia tích cực.   Trên kiến trúc cũng như trong điêu khắc của hai giai đoạn kể trên đều được định hình với phong cách khác nhau hẳn. Cũng không loại trừ về ảnh hưởng của Phật Giáo đối với nền chính trị nước nầy, qua những xung đột với Khmer ở phương đông và chính quyền Chiêng Mai hay Lạng Xạng (Lào) ở phưong bắc trong giai đoạn sau nầy.

Phong cách điêu khắc PG người Môn

Thời kỳ nầy đã được ảnh hưởng của Phật Giáo kể từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ X. Những công trình kiến trúc và điêu khắc trong giai đoạn nầy chủ yếu đều là những vật liệu làm bằng gỗ, cho nên đã không thể chịu đựng lâu dài với thời gian trong thời Dvaravati.   Trong những công trình khai quật các di chỉ của thời Dvaravati  (người Môn), còn thấy những nền móng của chùa chiền bằng “latérite” - một thứ vật liệu giống như đất sét nhão, khi mới đào lên thì mềm, ít chất tạp, nhưng chỉ sau đó một thời gian thí cứng dần như đá, khi được phơi ra ngoài trời.

Chưa thấy dấu vết của những loại gạch nung ở nhiệt độ cao, tuy nhiên, khi sử dụng những loại đất trên, được chọn lọc kỹ, kết quả cũng rất tốt đẹp. Ðiều nầy giải thích về sự tồn tại của những di chỉ khảo cổ học.

Trong những công trình kiến tạo, những loại bảo tháp (stupa) và những nền chùa thì được làm bằng laterite và  gạch, những chất kết dính có thể bằng loại keo vữa  thực vật hoà  chung với chất vữa stuco và đá tảng khắc chạm, để  bổ sung thêm về mặt trang trí, điêu khắc. Nhiều công trình phân tách những chất kết dính bằng loại vữa nầy công nhận tính bền chặt rất lâu dài của chúng theo thời gian.

  Phải chăng những bảo tháp nhỏ dùng trong dâng cúng đã khuôn rập (từng phần hay đa phần) theo khuôn mẫu của kiến trúc Ấn? Những nhà  nghiên cứu theo hướng nầy đã biện minh về những tháp có đáy hình vuông, lên trên thu nhỏ dần, có nhiều hóc tường để đặt những tượng Phật, trên cùng là chóp nhọn. Họ nhắc đến những kiểu tháp ở Sanchi hay hang động Ajanta của Ấn để chứng minh sự tương quan nầy. Tuy nhiên, có nhiều nhà nghiên cứu về ảnh hưởng Phật Giáo từ Sri Lanka truyền sang Thái Lan vào thế kỷ VI, thì lại quả quyết là có sự du nhập từ Sri Lanka  hay của Myanma, kể cả ảnh hưởng của kiến trúc Pagan?   Khảo sát những nền móng của những ngôi chùa tháp thời kỳ người Môn (Dvaravati) cũng giúp cho những nhà nghiên cứu nầy tìm sự liên quan với kiến trúc Phật Giáo tại đât Miến tràn sang từ thời điểm rất sớm trong lịch sử.

Tuy nhiên, khi khai quật những di tích có liên quan đến thời kỳ Sukkhothay thì có những nét khác hơn:   Hình dạng không còn là những ngọn tháp mà lại là những tu viện (Vihara), tức là những trung tâm tu học chứ không phải để  chứa xá lợi.  Phần kiến trúc chính thì bằng gỗ và có phong cách của khuôn mẫu Sri Lanka.  Càng đi sâu, thể loại nầy càng nhiều; điều nầy chứng tỏ: Nghệ thuật PG Sri Lanka chính là nguồn cảm hứng cho những nhà kiến trúc Thái Lan ở thế kỷ 13 chấp nhận.

Nhìn chung lại, nền kiến trúc Dvaravati chính là khuôn mẫu đầu tiên cho những tháp và chùa của Phật Giáo  trên thế giới (nhận định của giáo sư khảo cổ học Boisseler), và nét mặt của những khuôn mẫu nầy rõ ràng là hình ảnh của ngườn Môn, mặc dù tổ tiên của họ vốn thuộc triều đại Gupta và vùng đông nam Ấn Ðộ. Những tượng thờ Phật Giáo nầy thay đổi qua từng giai đoạn, cho thấy được quá trình phát triển và suy vong của người Môn trên đất Thái.

Hình tượng đức Phật qua những công trình điêu khắc nầy có nhiều kích cỡ và nhiều tư thế khác nhau: khi sơ sinh, khi xuất gia, khi thiền định, khi thành đạo, khi thuyết pháp đầu tiên tại Lộc Uyển, khi nhập diệt... Cũng có những loại hình dựa theo “Túc Sanh Truyện” (Jataka) tức là những chuyện tiền thân của đức Phật.

Trong nhiều hình tượng, bên cạnh hình đức Phật có hình  “rắn chúa Muchlinda”: đây là con vật che chở cho đức Phật khi bị tà ma ngoại đạo phá hoại.

Nhìn chung lại, tuy Ấn Ðộ là nơi khai sinh của Phật Giáo, nhưng trong phong cách thể hiện hình tượng Phật thì lại không được phong phú như ở Sri Lanka, Miến Ðiện rồi đến Thái Lan..   Một trong những chủ đề được ưa chuộng nhất của Phật Giáo thời Dvaravati ở trên đất Thái là “Phật Thành Ðạo” chiếm đến 90% những loại hình tượng khác. Trong hình ảnh nầy, ta thấy tượng  Phật với tư thế  ngồi Maravijaya, tay chỉ xuống đất, được gọi là “Blumispardhamudar”.

25,000 ngôi chùa

Một loại hình tượng khác là: Ðức Phật đứng, hai bàn tay giữ cao hai bên ngực, lòng bàn tay hướng về phía trước, biểu lộ về sức mạnh “Vitarka Mudra”. Học giả Phật Giáo Alexander Griswold nhận định: Hình tượng và tư thế nầy  hoàn toàn khác hẳn với bức tượng thuyết pháp, được gọi là “Dharma Chakramudra” nổi tiếng trong triều đại Gupta ở Sarnath (Lộc Uyển).    Một trong những di tích Phật Giáo rất được thịnh hành trong  thời Dvaravati (người Môn) là bánh xe “Chuyển Pháp Luân”. Tính ra có đến 40 mẫu khác nhau về đề tài nầy. Những nghệ nhân thời Dvaravati đã nghĩ ra nhiều mẫu hình khác nhau về Chuyển Pháp Luân, với nhiều tiểu tiết. Hầu hết hình  Chuyển Pháp Luân được dựng lên trên đỉnh tháp hay mái chùa.

Trong số những tượng Phật được tạo ra trong thời kỳ nầy gồm hai loại: Loại tượng Phật ngồi và loại tượng Phật đứng.  Tượng ngồi trong tư thế “Maravijati” như đã từng thấy trong phong cách Dvaravati, tuy nhiên sắc sảo hơn và sống động hơn nhiều. Thân thẳng, hai tay lật mặt trái úp lên nhau; đặc biệt là trên đầu có bổ sung thêm ngọn lửa (Ushiha) từng thấy trong những hình tượng Siva của Ấn Giáo. Những thành phần khác cũng được  mở rộng và mức độ thu hút cao hơn. Ðôi mắt của đức Phật có vẽ như những nụ hoa sen, tứ chi thẳng và mượt mà như những cành của cây Banyan.  Ngoài ra, những pho tượng trong dáng đi cũng rất linh hoạt, sống động.

Những ngôi chùa được tạo dựng trong thời kỳ nầy gồm có 2 loại: Loại Prapang và loại Prachadi. Prapang là những tháp có chóp nhọn, đặt trên nền vuông hay hình tròn, với nhiều bậc. Còn loại Prachadi thì thấp hơn, nhỏ và ngắn, có mái uốn cong và dốc.   Trên đất Thái Lan hiện nay có đến 25,000 ngôi chùa trong hai kiểu dáng đó. Trong nhiều ngôi chùa lại còn có thư viện với những bộ kinh cổ hết sức quý báu. Chùa vừa là trường học, cũng là nơi đào tạo tinh thần cho tín đồ,  nơi diễn ra những lễ hội Phật Giáo.

Ðạo Phật ảnh hưởng đến cách sống , quan niệm sống của người Thái: hiền hoà, nhường nhịn, sống bình thản, vị tha, mến khách. Mặt khác, do quan niệm Phật – Thánh gầi gũi nhau, cho nên trong khi thờ Phật, người Thái hoà lẫn việc thờ cúng thần linh.  Truyền thống nầy mô phỏng theo khuôn mẫu trong di sản văn hoá Ấn Ðộ và Tích Lan, cũng xuất hiện trong hàng loạt vương triều của quốc gia Thái trong thời cổ trung đại. Tên của vị anh hùng bất tử  Rama của sử thi Ấn Ðộ được đặt cho các vương triều Rama Khambeng, ông vua nổi tiếng của vương quốc Ayuthya (giữa thế kỷ XIII), Ramadipadi, người sáng lập ra vương quốc Sukkhothay (từ năm 1350), những triều vua Rama I, Rama II cho đến nay là Rama IX.

Nghệ thuật Tiểu thừa Phật Giáo

Truờng phái nghệ thuật nầy mang tên cuả một Vương quốc được các nhà khảo cổ học xác nhận vào cuối thế kỷ thứ VII; đây là một hình thức nghệ thuật đặc biệt, chịu ảnh huổng chnủ yếu của Phật Giáo (Tiểu Thừa) và được phổ biến rộng rãi khắp nơi, hơn là sản phẩm của một vùng hạn hẹp.  Ðược hình thành trong môi trường sinh sống của tộc người Môn, trường phái được đặc trưng bởi phong cách điêu khắc của mình. Những nhà khảo cổ học đã phát hiện một ít di tích còn lại của các ngọn tháp (stupa) được xây với gạch và đất sét thô trét vữa vào kẻ nối và trang trí với chất giả đá hoa, được tìm thấy rác tại Nakhon Pathon, U Thong, Ku Bua.

Nghệ thuật tạo hình đa phần đều tập trung vào những tượng Phật (A Di Ðà), bằng nhiều chất liệu khác nhau: đá, đồng, chất giả đá hoa, đất nung ở nhiệt  độ cao. Kiểu ngồi theo kiết già hay bán già, thông thường trong dáng Ngài đang thuyết pháp. Bánh xe Pháp luân cũng là hình ảnh điển hình tìm thấy nhiều nơi trong trường phái nghệ thuật nầy. Theo nghiên cứu, đây là sự kế thừa truyền thống ảnh tượng cổ xưa nhất của Phật Giáo Ấn Ðộ, nhưng đến nay thì không còn được nhiều di tích của trường phái Dvaravati nữa.

Kiến trúc chủ yếu của những stupa Phật Giáo tại đây đã thể hiện nhiều yếu tố của nghệ thuật Ấn, được phân chia trên cơ bản thành những thể loại như sau:  Loại thứ nhất: Stupa 5 tầng, nền trang trí bằng những trụ vữa hay bằng đất nung, nội dung mô tả những câu chuyện Phật Giáo hay tiền thân đức Phật.  Loại thứ hai: Suta có nền hình vuông, khối trung tâm là một bộ phận kiến trúc hình bán cầu, trên cùng kết thúc bằng một chỏm nhọn.  Loại thứ  ba: Stupa có hình nền vuông. Trung tâm có hình bát úp. Phần cuối là một bộ phận kiến trúc được tạo từ vô số những vành khăn dẹt, được xếp  chồng trên trên nhau, và kết thúc bằng một bộ phận kiến trúc hình quả bầu.  Loại thứ tư:  Stupa có  nền hình vuông; gồm 5 tầng, nhỏ dần từ dưới lên trên, mỗi tầng có 3 khám tượng ở khắp 4 mặt. Trong các khám nầy có đặt những pho tượng Phật.

Công trình kiến trúc quan trọng nhất là Stupa ở Nakon Pathom mà người Thái gọi là Pra Põa thom chedi. Stupa nầy được vua  Thái Mongkút khởi công trùng tu lại vào năm 1860 và mãi đến đời vua Chulalongkorn thì mới hoàn thành.  Ðiêu khắc Dvaravati cũng rất rực rỡ và được đánh giá là độc đáo hơn, so với kiến trúc của trường phái nầy. Ðiển hình nhất là những pho tượng bằng đá hay bằng đồng. Những tượng Phật buổi đầu thể hiện ảnh hưởng của nghệ thuật Gupta Ấn  Ðộ với những khuôn mặt hình trái xoan, một cơ thể phi giới tính, dưới lớp áo cà sa mỏng và những bàn tay, bàn chân lớn.

Những pho tượng thuộc giai đoạn sau thể hiện những yếu tính nhân chủng Môn đậm nét, với khuôn mặt thô, rộng,  mũi to, môi dày hơi trề ra, lông mày cong nối liền nhau, mắt có đuôi mắt kéo dài, mí mắt phồng lên. Những lọn tóc quăn có kích thước lớn. U sọ đôi khi nổi cao lên, có dáng như một ngọn lửa.  Loại tượng Phật Môn đã có ảnh hưởng lớn đến điêu khắc tượng Phật một số nước vùng Ðông Nam Á như Thái Lan, Myanma, Kampuchia, Lào, Chăm Pa.

Nghệ thuật Đại thừa Phật giáo

Phát sinh khởi đầu từ sự bành trướng của Vương quốc Sumatra của trường phái Srivijkaya tại quần đảo Mã Lai vào thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên. Trường phái nầy có nét đặc trưng trước hết do ảnh hưởng của Phật Giáo Ðại Thừa  (Mahayana) hay của đạo Bà La Môn. Ngoài ra, trong ngành điêu khắc lại còn thấy vết tích của nghệ thuật Indonesia thời cổ.   Một vài công trình nghệ thuật còn lưu lại cho đến nay (chẳng hạn như trong khu di tích Chaiya), nhưng đáng tiếc là bị hư hỏng quá nhiều hay qua nhiều lần trùng tu  của những giai đoạn sau.  Cũng tìm thấy ảnh hưởng của nền nghệ thuật Chăm Pa về Ấn Giáo và Phật Giáo.  Nghệ thuật tạc tượng bằng đá  và bằng đồng cũng rất độc đáo trong việc thực hiện cũng như về ảnh tượng học, cho thấy ảnh hưởng khá sâu rộng trong nhiều địa phương khác nhau.  Có nhiều nhà khảo cổ họ cho rằng: đây chỉ là sự canh cải của nghệ thuật Dvaravati trước đó, tuy nhiên không có chứng liệu xác thực. Nhưng đến cuối thế kỷ thứ X, sự bành trướng của nghệ thuật Srivijaya bị ngưng lại. Tại đây, Phật Giáo Ðại Thừa và Bà La Môn giáo đã mất ưu thế. Không tìm thấy  dấu vết của sự phát triển, ngoại trừ một số di tích khiêm nhường tìm thấy tại Nakhon Si Thammarat.

Kiến trúc tiêu biểu là những điện thờ chứa tượng Phật, trên đỉnh được dựng theo hình Stupa với những tầng chồng liên tục lên với nhau.  Kiểu mẫu đẹp nhất là điện thờ ở tại Pra Barom Thát Chaiya. Ở Nakon Sri Tammarat, còn có một loại kiến trúc trang trí những khám tượng hình vòm, trên đỉnh có 5 tháp, tháp lớn ở giữa, 4 tháp nhỏ ở 4 góc.  Ðiêu khắc chủ yếu của trường phái nầy là những pho tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát; ngoài ra, còn có hình tượng đức Thích Ca Mâu Ni, trong nhiều tư thế khác nhau. Ở những pho tượng Phật thấy rõ ảnh hưởng của nghệ thuật Pala Senna của Ấn Ðộ, chỏm Unisha giống nghệ thuật Dvaravati, nhưng thân hình và chân tay thì mảnh dẻ hơn.

Áo cà sa có hai loại: loại đầu mút của áo rủ xuống đến ngực; một loại khác thì đầu mút rủ xuống đến rốn. Những kiệt tác nghệ thuật của trường phái nầy  là tượng Quán Thế Âm. Những pho tượng đẹp về thể loại nầy tìm thấy ở tại Chaiya, thuộc tỉnh Surathani và một số tỉnh miền nam Thái Lan.   Những pho tượng nầy lại chịu ảnh hưởng Gupta và Pala Sena   của Ấn, với những đường nét nuột nà tinh tế của thân hình và vẻ đẹp rực rỡ phong phú của trang phục và trang sức

Nghệ thuật Phật Giáo Khmer

Trước tiên, đây là ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer khá đậm nét tại vùng Lopburi và miền đông Thái Lan. Những công trình nghệ thuật nầy mang tính chất thuần túy Khmer hay Khmer cải biến. Di tích được tìm thấy ở phía Bắc  Dangrek vá nhiều nhất là tại thung lũng Mun.   Phong cách Khmer nổi bật trên cách đường nét, kể cả những hình tượng của Bayon, được cải biến với những phương tiện địa phương, do khan hiếm chất kết dính và chất giả đá. Do những nhu cầu vật liệu trong kiến trúc lẫn điêu khắc, cho nên trường phái nầy đã giữ được tính chất độc đáo của nó.

Ngoài ra, ảnh hưởng của nền nghệ thuật bản địa truyền thống trên phong  cách Khmer đã tạo nên những hình tượng thật độc đáo. Nghệ thuật trang trí (lanh tô) cuả thế kỷ thứ IX và nghệ thuật tạc tượng bằng đồng đều chịu ảnh hưởng của Phật Giáo Ðại Thừa, nét tiêu biểu của Phật Giáo Thái Lan trong giai đoạn nầy. Ngoài ra, sau thế kỷ XIII, khi nghệ thuật Angkor của Campuchia phát triển mạnh, đã tạo nên những ảnh hưởng lớn đến trường phái Lopburi. Ảnh hưởng nầy thấy rõ trong những ngôi tháp tại vùng Prang, mà vết tích còn lưu lãi đến nay. Nghệ thuật điêu khắc của trường phái Lopburi cũng  có nhiều nét đặc biệt, mà những giai đoạn nghệ thuật về sau vẫn còn đậm nét.

Gần đây, các nhà khảo cổ học đã khai quật được nhiều di tích của nghệ thuật Lopburi tại khu vực Si Tep, thuộc thế kỷ IX. Tuy được tạo dựng trong một thời gian tương đối ngắn, nhưng với những đường nét độc đáo, nghệ thuật Lopburi được nói nhiều trong lịch sử văn hoá Thái Lan.Nền văn hoá Sukkhothay đánh dấu một giai đoạn hoàn chỉnh của Vương quốc nầy. Tuy xuất hiện trong một thời gian tương đối ngắn, nhưng ảnh hưởng của trường phái nầy khá sâu đậm.   Sukkhothay là một đô thị cổ ở trung bộ của Thái Lan, đã trở thành cố đô của người Thái. Tuy nhiên, đối với người dân ở Thái Lan, mãi mãi là một hồi ức đẹp nhất trong những ngày đầu lập quốc của nước nầy.

Cách đây 700 năm, vào năm 1293, vị vua đầu tiên của Vương quốc Thái đầu tiên của người Thái tên là Sukkhothay. Sukkhothay là một danh từ gốc tiếng Pali có nghĩa Thái.  Theo  mô tả của bi ký thời đó ghi lại, Sukkhothay là một đô thành lớn, sầm uất. Một bi ký lại còn chép: Ðô thành nầỳ có ba vòng thành và có 4 cửa. Chính giữa có một ao nước trong và ngọt kỳ lạ như nước sông Mékong về mùa khô.  Ở phía tây của đô thành nầy có tu viện Aranika (Vát Tapan Min) nơi nhà sư Mahathera từ Nagara đến trụ trì. Phía đông có hồ lớn, phía bắc có chợ. Dưới thời đại của vua Rama Kam Hẻng, thành Sukkhothay khá thịnh vượng. Mọi việc trao đởi hàng hoá đều được tự do. Luật pháp công bình và uy nghi..   Khi nói đến trường phái Sukkhothay, thì những nhà nghiên cứu mỹ học xem là giai đoạn hoàng kim của nền  nghệ thuật Thái Lan, ít ra là trong giai đoạn độc lập chính thức của đất nước nầy.

 Trong giai đoạn nầy, tượng Phật được coi là loại hình độc đáo nhất,  mặc dù nó kế thừa nhiều yếu tố của nghệ thuật Môn Dvaravati  và của Ceylan. Những loại tượng Phật Sukkhothay được chia ra làm 4 nhóm, trong đó có một nhóm được coi là đại diện cho toàn thể giai đoạn nầy.  Về đại thể, tượng Phật Sukkhothay có một thân hình tròn trịa, với những đường viền trang nhã. Khuôn mặt  trái xoan hơi dài, vòm lông mày hơn con nối liền trực tiếp vối sống mũi dọc dừa, miệng nhỏ, cằm thon nhọn  và có một quầng lớn ở giữa, chỏm Unisha có dáng một ngọn lửa, các lọc tóc quăn, có kích thước nhỏ hay vừa phải.   Tấm thân có đôi vai rộng nhưng eo lưng thì lại nhỏ. Cánh tay và bàn tay rất dài, không giống như hiện thực. Ðộ cẳng chăn  xếp bằng chồng lên nhau theo kiểu bán già hay kiết già.  Trang phục giản đơn, đến mức chỉ còn thấy nhờ dấu hiệu ở cổ tay, ở mắt cá chân và một vài đường trang trí từ vai trái xuống.

Tượng Phật thường được tạo trong tư thế ngồi lất đất cứng giám hay đang trầm tư, thiền định. Ngoài ra, còn có cách tư thế đứng, nằm, đi. Bên cạnh tượng Phật, còn thấy một số tượng của Ấn Ðộ Giáo: Siva, Vichnou, Uma, Hari Hara, Brahma, nhưng với đường nét giống như những tượng Phật. Sự khác biệt chỉ thấy thể hiện trong trang phục.  Ðây là một trường phái nghệ thuật Thái Lan xuất hiện trong khoảng thế kỷ XIV đến XVIII, được các nhà nghiên cứu nghệ thuật coi là nghệ thuật quốc gia của Vương quốc Thái Lan trên cơ sở tiếp thu nền nghệ thuật Sukkhothay ở bắc và Uthong ở nam.

Những công trình PG tại Bangkok

Ðây là trường phái hay giai đoạn nghệ thuật Thái Lan trong khoảng thế kỷ XVIII đến XX. Có nhiều quan điểm khác nhau khi đánh giá nghệ thuật của trường phái nầy qua nhiều góc độ.  Vào giai đoạn đầu, những pho tượng Phật Bangkok có xu hướng tuân thủ theo kiểu mẫu của nghệ thuật Ayuntha, tuy nhiên, chất lượng thì lại không được như trước. Một số tượng Phật có kích thước khổng lồ được dựng lên ở những ngôi chùa lớn trong kinh đô. Cũng có nhiều pho tượng mạ vàng và cách trang trí rất lộng lẫy.  Vào những thời kỳ cuối của giai đoạn nầy, xuất hiện một khuynh hướng đi tìm một mẫu hình cụ thể là một tác phẩm thực sự của cơ thể con người, do ảnh hưởng của nền nghệ thuật Phương Tây.  Từ giai đoạn Bangkok, bắt đầu thấy xuất hiện phổ biến những nhóm tượng thể hiện Ðức Phật cùng những đại đệ tử với cách thể hiện khá hiện thực.  Trường phái Bangkok đã có một ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật Phật Giáo Lào, Kampuchia và miền Nam Việt Nam.

Bangkok (Tiếng Thái Ptra Nakorn có nghĩa là “Thành phố thủ đô” là thủ độ của Vương Quốc Xiêm La (bây giờ gọi là Thái Lan) khởi đầu từ tháng Bảy năm 1772 cho đến ngày nay. Bangkok nằm ở châu thổ của con sông Ménam, bên bờ trái của con sông nầy.  Diện tích là 1,560km2, dân số hiện nay vào khoảng 7 triệu người.  Ngày trước, Bangkok có rất nhiểu kênh rạch chằng chịt nhau,  nên được mệnh danh là “Venise của Phương Ðông), nhưng ngày nay thì phần lớn đã bị lấp và trở thành những con đường phố, để mở rộng diện tích và giao thông được dễ dàng hơn.  Sau hơn 200 năm  xây dựng, Bangkok đã để lại nhiều công trình kiến trúc to lớn như “Cung điện lớn”, Thánh đường Vạt Pho”, “Chùa Vat Pra Keo” (chùa Phật Ngoc)...

Cưng điện lớn được bắt đằu  xây dựng vào năm 1782, vào thời trị vì của vua Raman I (1782-1809), người sáng lập nên triều đại Chakri. Sau đó hầu như tất cả những vị vua kế nghiệp đều xây dựng thêm những công trình kiến trúc  và điêu khắc mới trong khu vực Cung điện lớn; vì thế cho nên cung điên nầy đã trở thành một phức thể gồm có nhiều công trình lớn nhỏ chen chúc nhau, lại pha trộng nhiều phong cách khác nhau do tiến bộ của từng thời đại và kỹ thuật mới, từ phong cách Thái Lan cho đến cả phong cách Italy.  Sau vụ mưu sát vua Aranda Mahidon năm 1946, vua Bumidon Adundadet (nhà vua đang trị vì) đã cho chuyển hoàng cung đến cung điện Chi Tralada để được bảo toàn hơn. Cung điện lớn  được dùng để tưng bày những đồ vật quý giá của Hoàng gia, những bộ sưu tập nghệ thuật trong và ngoài nước qua các đời và để  tổ chức các yến tiệc quốc gia, nhận trình quốc thư của các đại sứ các nước cũng  như những nghi thức khác của Hoàng gia trong những ngày Ðại lễ.

Cả khu cung điện được bao bọc bằng vòng tường cao và mở lối ra vào bằng một cổng lớn. Công trtình lớn nhất và cũng được xây dựng sau cùng trong Cung điện ,lớn là  “Hoàng cung Chakri Maha Prast”. Toà nhà Hoàng cung Chakra Prasat nằm trên một nền cao được xây dựng từ đời vua Rama V (Chlalong Korn) để kỷ niuệm 100 năm thành lập Vương quốc Chakri.

Về phương diện kiến trúc, Hoàng cung nầy là sự pha trợn giữa nền kiến trúc Thái Lan và kiến trúc Tây Phương, vì do sự chỉ đạo của những kiến trúc sư nước ngoài được mời thiết kế toàn thể.   Phần dưới của công trình thì do kiến trúc sư người Anh thiết kế; còn những đỉnh trên thì khuôn rập theo kiến trúc Thái Lan có thêm một số chi tiết của kiến trúc người Pháp. Tuy vậy, vẫn giữ được tính thống nhất của toàn thề  công trình nầy.  Tầng thứ hai, nằm dưới đỉnh tháp trung tâm, là nơi cất giữ những bình hài cốt bằng vàng  của các nhà vua thuộc Vương triêu Chakri.  Những phỏng khánh tiết lớn được trang trí bằng những hình vẽ, những tượng bán thân của những vị vua đã băng hà của triều đại  nầy. Phòng trung tâm là Phòng Ngai Vàng, nơi nhà vua tiếp đón các sứ thần các nước. Ở đây có chiếc ngai vàng lớn, được khảm bằng men huyền, nằm dưới chiếc ô chín lớp màu trắng.

Công trình kiến trúc nằm về phía tay của Hoàng cung Chakri Prasat là cung điện “Dusit Maha Prasat” do nhà vua Rama I xây  dựng ngay từ khi mới lên ngai vàng để thay thế cho cung điện xây  bằng gỗ trước đó. Dusit Prasat, một mẫu kiến trúc truyền thống Thái Lan tuyệt đẹp, là một toà nhà với bộ mái bốn lớp  và một đỉnh tháp nhọn chín bậc trang nhã.  Ngày xưa, ở ban công phía Bắc của Dusit Orasat có ngai vàng để làm nơi vua tiếp khách ngoài trởi, nhưng đến đời vua Ramam VI thì dùng làm nơi để triều đình tuyên  thệ trong trường hợp thay đổi nội các mới. Nhưng hiện nay, Dusit Prasat dùng làm nơi quàn xác vua và hoàng trước khi đem đi hoả táng tại Sanam Luang.

Ngay đối diện với Dusit Prasat là một đình tạ thanh tú nhất của Thái Lan, được gọi là “Ðình tạ thay phục” (Arpron Phinok PrASAT). Tại đây, vua xuống voi, thay áo choàng, trước khi vào phòng khánh tiết, Ơi phía bên trái của Chakri Prast có một chiếc cổng mở vào khu cấm, nơi ở của các bà hoàng hậu và phi tần của nhà vua.

Trong khuôn viên của Cung điện lớn còn cò  nhiều công  trình kiến trúc khác nhbư Thánh đường Vat Pho, thư viện Hoàng gia, ngôi chùa Vat Pra Keo... Thánh đường Vat Pho là một đền thờ rộng và cổ kính nhất của thủ đô Bangkok, chiều dài 46m, trong đó có một pho tượng Phật cao đến 15 mét khoác áo bằng vàng lá và tới 394 tượng Phật mạ vàng. Chung quanh toà nhà chính có những công trình kiến trúc tôn giáo đẹp và được trang trí lộng lẫy khác thường.  Vạt Pho còn được coi là trường Ðại học đầu tiên của Hoàng gia.  Phía sau đền thờ là thư viện hoàng gia, được bao quanh bằng hình những con voi trắng, biểu hiện cho quyền uy của Hoàng gia. Bên cạnh đó có một mô hình lớn đền Angkor Vat của Kampuchia do vua Rama IV (Mongkut) dựng lên. Vạt Pra Keo (chùa Phật Ngọc) nằm ngay ở phía trái bên trong cổng Cung điện lớn, được coi là nhà thờ của Hoàng gia, nơi các vua thường đến để tiến hành những nghi lễ tôn giáo và nghi lễ triều đình khác nhau trong năm.

 Vạt Pra Keo được xây dựng bằng những vật liệu bền đầu tiên ở Bangkok vào năm 1782, mô phỏng theo kiến trúc ngôi chùa hoàng gia ơ Ayuthya, kinh đô của triều đại cũ.  Bên trong của ngôi chùa nầy có đặt một tượng Phật Ngọc lục, được coi là biểu tượng của Vương quốc. Giờ đây, bức tượng thiêng liêng nầy được đặt trên đỉnh bàn thờ mạ bàng cao 11 mét và dưới chiếc lọng ô chín tầng. Mỗi năm ba lần khi bắt đầu mùa mới, nhà vua đến làm lễ thay y phục cho tượng Phật Ngọc nầy.

Khác với những ngôi chùa khác ở Thái Lan, ngôi chùa Vat Pra Keo không có vị sư trụ trì nào. Ðây là cả một tập hợp nhiều công trình kiến trúc và điêu khắc khác nhau: các toà nhà, các đình tạ  có các ngôi tháp lớn nhỏ khác nhau.   Dãy tường của hàng hiên chung quanh  chùa được tô điểm bằng những bức tranh từng, được mô tả theo câu chuyên Ramakiên (tác phẩm Thái Lan dưạ theo sử thi Ramayana  cũa Ấn Ðô) và những cảnh trong cuộc sống hàng ngày của người dân Thái như canh nông, hội hè, diễn xướng, đánh bạc, hút thuốc phiện  Những bức bích hoạ nầy được vẽ dưới triều vua Rama III. Trên những tấm đá cẩm thạch dựng bên các cột đối diện với các bức tranh, có những bài thơ kể lại sự tích của các bức tranh nầy. Vạt Pra Keo là điển thu hút khách du lịch đông đảo nhất người nước nghoài khi đến viếng thăm kinh đô của Thái Lan.

 

 http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nghethuat_PhatgiaoThaiLan.htm

 


Vào mạng: 1-6-2007

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang