PHẬT
GIÁO MALAYSIA
Ngô Hưng Đan sưu
tầm
I- Thời kỳ du nhập
Ảnh
hưởng của nền văn minh Ấn Độ đã vượt qua biên giới để đến nhiều vùng trong
khu vực Đông Nam Á, đồng thời theo nhu cầu thương mại là động lực chính để
thúc đẩy nối các nền văn hóa và tôn giáo lại với nhau. Một phương diện
khác, Ấn Độ thành lập một số chính quyền thực dân ở bán đảo Malaysia vào
khoảng 5 thế kỷ đầu Tây Lịch. Thành thử, Phật Giáo đã truyền vào
Malaysia trong giai đoạn đó.
Có
nhiều di tích và bằng chứng cho thấy điều nầy hoàn toàn hợp lý qua những
di vật và địa danh của Malaysia bắt nguồn từ nguyên ngữ Pali như Niddesa
hay Milindapanha...
Phật
Giáo được truyền vào Mã Lai vào khoảng đầu thế kỷ thứ III sau Công Nguyên.
Nhiều sách sử đã ghi nhận rằng: Các nhà sư Sona và Uttara đã đến miền Đông
Nam Á theo kỳ Nghị hội kết tập kinh điển lần thứ 3 tại Ấn Độ vào năm 325
trước Công Nguyên (sau Phật nhập niết bàn 218 năm).
Một
tài liệu của Phật Giáo Tây Tạng cũng đề cập đến Ngài Dharmapala đã đến đảo
Malay (Malaysia) vào thời điểm này. Căn cứ theo Hồi Ký của Ngài Pháp Hiển
(Fa Hsein, 337-422) một nhà chiêm bái Trung Quốc từng sang du học tại Ấn
Độ (trong khoảng 399-422), trên đường hồi hương bằng đường biển, Ngài có
ghé qua trung tâm văn hóa Java (Indonesia), Sri Lanka và Malaysia trước
khi trở về lại Trung Quốc vào năm 414. Trong dịp này, Ngài Pháp Hiển đã có
ghé thăm và nghỉ lại một ngôi chùa ở tỉnh Milindapanha, thuộc miền bắc
Malaysia.
Trong
khoảng thời gian từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIII, Java và Sri Vijaya đều
nằm dưới quyền kiểm soát của triều đại hùng mạnh Sailendra. Những vị vua
của triều đình này đã cho xây dựng lên nhiều công trình kiến trúc Phật
Giáo vĩ đại như vườn tháp nổi tiếng thế giới Borobodur ở trung tâm Java.
II- Chứng
tích khảo cổ học
Những
nhà khảo cổ tìm thấy nhiều di chỉ di vật của thời kỳ đầu nầy qua những
tác phẩm điêu khắc và kiến trúc của Malaysia. Tuy nhiên, những bằng chứng
lịch sử có thể tìm thấy trong kho tàng văn học Trung Hoa cho biết Phật
Giáo đã được thiết lập tại Malaysia vào khoảng thế kỷ thứ VI.
Theo
biên niên sử Trung Hoa ghi nhận rằng: Hoàng đế của Mã Lai đã gửi một phái
đoàn ngoại giao đến Trung Hoa vào những năm 527, 530 và 536 (Tây Lịch)
với những món quà bao gồm xá lợi Phật, tranh ảnh và điêu khắc Phật Giáo và
vài lá bồ đề.
Tài
liệu này cũng xác nhận rằng những thành viên trong phái đoàn này có tên là
Tan Tan, Chip Tu và Fo Lo An. Và tại nơi đây, hàng năm lễ Phật Đản được tổ
chức vào ngày trăng tròn tháng Sáu với những đám rước và lễ nhạc, với pháp
danh của vị thầy chủ trì cuộc lễ lúc ấy là Tỳ kheo Pi Ch'iu.
Trong
các cuộc khai quật ở tỉnh Kedak và Penang (Malaysia), các nhà khảo cổ đã
tìm thấy nhiều di tích, di chỉ về các ngôi chùa, tháp và tượng Phật còn
lưu lại tại đây.
Tại
hai nơi này, vào khoảng đầu thế kỷ IV hay V, đã có những bia đá khắc kinh
Phật bằng tiếng Sanskrit (Phạn ngữ). Một trong những bia đá quý báu này
được tìm thấy dưới một ngôi nhà đổ nát ở tỉnh Kedak. Một di vật quan trọng
khác được tìm thấy là một tấm bia bằng đất sét tìm thấy ở Kedak khắc vào
thế kỷ thứ VI và hai bức tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát cũng được tìm thấy ở
tại địa danh này.
Những
tác phẩm điêu khắc Phật Giáo vào thế kỷ thứ IV đều được tìm thấy ở nhiều
nơi khác của bán đảo Malaysia, đặc biệt là tại Cheruk Tekun và tỉnh
Wellesley. Những tượng Phật và những di vật khác cũng được tìm thấy ở
Kuala Selinhsing, Kinta Valley, Tanjung Rambutan, Bidor, Sungei Siput và
Perak.
Trong
khi đó, một bằng chứng lịch sử khác vào năm 1006 cũng đã ghi nhận: Vua
Katala ở Kedak đã xây dựng một ngôi chùa ở Negapatam. Vua Rajaraja đệ
I đã ban hành những đạo luật miễn thuế cho chùa chiền. Những ngôi chùa cổ
cũng đã được khai quật ở phía Đông bờ biển Mã Lai, dù có những miền đất
sau nảy thuộc về lãnh địa của Thái Lan.
III- Thời kỳ
suy yếu
Phật
Giáo đã suy yếu dần theo sau sự tấn công của Hồi Giáo vào Mã Lai ở thế kỷ
XIV của người Ả Rập và những thương gia Ấn Độ. Vào đầu thế kỷ XV, một vị
vua Malaysia đã dựng kinh đô tại Malacca, vốn là tín đồ của Ấn Độ Giáo, đã
cải đạo theo Hồi Giáo, và vì thế mà tôn giáo này có cơ hội để truyền bá
rộng khắp trên toàn bán đảo Malaysia.
Lúc
bấy giờ tuy không còn phát triển nhiều tại các đô thị nhưng Phật Giáo lại
lùi về vùng nông thôn vốn bén rễ tại đây. Phật Giáo chỉ còn để lại bóng
dáng trong văn học, thi ca truyền miệng, cổ tích, huyền thoại và địa danh
trên đất nước Malaysia.
IV- Thời kỳ
phục hưng
Sau
300 năm suy yếu, Phật Giáo Malaysia lại được phục hồi theo sau làn sóng di
dân của người Trung Hoa đến vùng đất Malaysia vào đầu thế kỷ XVII. Tuy
nhiên, sự phục hưng này được xác định vững chắc nhất là vào thế kỷ XIX,
khi nhiều đợt người Trung Hoa khác sang đây để định cư lâu dài.
Nhìn
chung, Phật Giáo Malaysia trong giai đoạn này mang sắc thái dung hợp: tam
giáo đồng nguyên (Phật, Khổng, Lão) mà trong đó Phật Giáo Tịnh Độ Tông
chiếm đa số. Theo thống kê của chính phủ Malaysia thực hiện vào năm 1991,
có tất cả 3,2 triệu tín đồ Phật Giáo, tín đồ Khổng Giáo và Lão Giáo được
độ 0,9 triệu trong số 17,8 triệu dân Malaysia.
Theo
tài liệu này cho thấy Phật Giáo Malaysia đang trong giai đoạn hồi sinh và
cũng đã phát triển mạnh trong quốc gia này vào thời cận đại và hiện đại.
V- Phật
Giáo Nam Tông
Nếu
như phần lớn người Hoa theo truyền thống Phật Giáo Bắc Tông, thì ngược lại,
người Thái Lan, Miến Điện và Sri Lanka lại theo Nam Tông Phật Giáo. Cộng
đồng người Thái Lan ở đây tập trung ở Perlis, Kedak và Kelantan, có khoảng
200 ngôi chùa Thái Lan nằm ở các tỉnh miền bắc của Malaysia.
Các
ngôi chùa Thái cũng thu hút nhiều người Hoa để chiêm bái và tu học. Ngôi
chùa cổ nhất của Phật Giáo Nam Tông tại Mã Lai là chùa Candaram ở Green
Lane, Penang; hiện nay chùa này được đổi thành Trung Tâm Thiền Phật Giáo
Malaysia được xây dựng vào năm 1918.
Đầu
thập niên 1970, Thượng tọa Abhi Dhammapalanana, một cao tăng nổi tiếng
Thái Lan đã đến trụ trì ngôi chùa nầy và Ngài bắt đầu dạy về Thiền quán
và bộ Luận Abhidhamma cho Phật tử Malaysia. Các buổi thuyết giảng của
Ngài đã thu hút đông đảo trí thức, thanh niên nam nữ Malaysia.
Hiện
nay, sự nghiệp hoằng pháp của ngài đã được vị đại đệ tử của ngài là tỳ
kheo Sujivo, một tăng sĩ người Malaysia. Một vị tăng sĩ khác cũng có công
truyền bá Phật Giáo Nam Tông tại Mã Lai là Tỳ Kheo Silannanda, trụ trì
chùa Pin Wang ở Penang (ngôi chùa này được kiến tạo năm 1889); Ngài cũng
thành lập trường Phật Pháp Chủ Nhật và dạy Thiền Quán hàng tuần cho Phật
Tử trong địa phương.
So với
người Thái Lan, thì cộng đồng của người Miến Điện và người Sri Lanka
tương đối ít hơn. Người Miến Điện phần lớn tập trung tại tỉnh Penang và
Trung tâm Phật Giáo Nam Tông của họ trên đất Malaysia tập trung tại chùa
Dhammikarama, được kiến tạo vào cuối năm 1828; đây cũng là ngôi chùa duy
nhất của người Miến Điện trên đất Mã Lai.
Ngôi
chùa này do vị Tỳ Kheo U Pannavamsa trụ trì. Ngài là người tinh thông về
Luận tạng và Thiền quán niệm. Ngài cũng mở trường Phật Pháp Chủ Nhật để
phổ biến giáo lý Phật Giáo trong cộng đồng người Miến cũng như các sắc
dân khác.
Nhiều
vị Tăng sĩ Miến Điện khác cũng tham gia vào công việc truyền bá Phật Giáo
Nam Tông vào đất nước này như các Đại Đức Dharma Banchanvud, Mahasi
Sayadaw, Sayadaw U Pandita, Sayadaw U Janaka.
Những
vị này đến Mã Lai vào cuối thập niên 1980 và cũng đã thành lập nhiều Trung
tâm Thiền học ở Johor, Perak, Malacca, Petaling Jaya và Selangor.
Ngôi
chùa quan trọng nhất của Phật Giáo Sri Lanka ở Malaysia là Mahindarama ở
Penang do vị Tỳ Kheo A. Pemaratana xây dựng vào năm 1918. Ngôi chùa đã một
thời từng nổi tiếng là trung tâm tu học dưới sự hướng dẫn của vị Trưởng
Lão K. Gunaratana Maha Nayaka Thera (1933-1964).
Là
một vị Pháp sư uyên bác và có tài hùng biện, Ngài Gunaratana đã tổ chức
nhiều khóa tu học và thuyết giảng cho Phật tử địa phương cũng như đi
diễn giảng nhiều nơi trên đất nước Malaysia. Sau khi Ngài viên tịch, Hòa
Thượng P. Pemaratana Maha Nayaka Thera đã kế thừa sự nghiệp hoằng pháp
tại ngôi chùa này.
Một
trong những tăng sĩ Sri Lanka thành công nhất trong sự nghiệp hoằng pháp
tại Malaysia là Đại Lão Hòa Thượng K. Sri Dhammananda Maha Nayaka Thera.
Sự xuất hiện và những công trình hoằng pháp của Ngài đã kiến lập một
phong trào học Phật cao nhất tại đây.
Ngài
thành lập "Hiệp Hội Truyền Bá Chánh Pháp" vào năm 1963 và tổ chức những
cuộc thuyết giảng, hội thảo và tham luận Phật Pháp trên toàn nước
Malaysia. Ngài cũng biên soạn và xuất bản nhiều tác phẩm Phật Học quan
trọng để phổ biến giáo lý.
Trong
thời gian đầu, nội dung của những tác phẩm của Ngài nhằm loại bỏ những
quan niệm sai lầm về Phật Giáo, nhân đó đưa ra một đường lối tu tập rõ
ràng để giúp cải cách đời sống tâm linh của người Phật Tử xứ sở này.
Những
tác phẩm nổi tiếng của Ngài trong lãnh vực này phải kể đến: "Người Phật
Tử phải tin gì?" (What Buddhists believe?); "Làm thế nào để sống khỏi sợ
hãi và lo âu" (How to live without fear and worry); "Hạnh phúc lứa đôi"
(A happy married life); "Thiền định: con đường duy nhất"
(Meditation: the only way); "Kho báu của Chánh Pháp" (Treasures of the
Dharma)...
Những
tác phẩm này đã nhanh chóng thu hút mọi giới Phật Tử, và đến nay, những
tác phẩm này đã được dịch nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Một
trong những đệ tử xuất gia của Hòa Thượng Dhammananda là Thượng tọa
Mahinda, người có khả năng kế thừa sự nghiệp to lớn của vị bổn sư.
VI- Phật
Giáo Bắc
Tông
Cả hai
Tông phái Bắc Tông và Nam Tông đều được phát triển trên đất Mã Lai. Một
số chùa chiền, bảo tháp Bắc Tông được kiến tạo tại Penang rất sớm. Ngôi
chùa Kuan Imm Teng xây dựng vào khoảng đầu những năm 1800; chùa Cheng Hoom
Teng cũng được xây dựng ở Malacca trong thời đó.
Đây là
những ngôi chùa cổ nhất còn được bảo lưu tại Malaysia; tuy nhiên, những tự
viện này chỉ được xem là danh thắng giành cho khách hành hương hơn là
trung tâm nghiên cứu Phật Học.
Vào
năm 1887, Pháp sư Miao Lian từ Phúc Châu đến Penang và bắt đầu xưng dựng
chùa Sukhavati (Kek Lok- Tịnh Độ). Ngôi chùa này thiết kế theo phong cách
tổng hợp của kiến trúc Phật Giáo Thái Lan, Miến Điện và Trung Hoa. Ngôi
chùa này chính thức khánh thành vào năm 1905 và được xem là một trong
những ngôi chùa lớn nhất vùng Đông Nam Á. Từ đó đến nay, chùa Tịnh Độ là
trung tâm nghiên cứu kinh điển và tu học của chư vị cao tăng thiền đức Bắc
Tông ở Mã Lai.
Về tổ
chức cư sĩ, tổ chức lớn nhất là Hội Phật Giáo Penang (The Penang Buddhist
Association) được thành lập vào năm 1925. Ngôi chùa chính của Hội này
được kiến tạo năm 1931. Cho đến nay, Hội này đã trở thành một tổ chức
hoằng pháp quy mô nhất. Trong thời gian đầu Hội này cũng đã gặp một số trở
ngại do những phần tử mê tín dị đoan.
Nhưng
về sau, do sự kiên trì hành hoạt và phát triển Chánh pháp, cho nên đã vượt
qua khó khăn và đưa những phần tử đó trở về với Phật Giáo.
Trên cơ sở
đó, những tổ chức Phật Giáo khác được thành lập. Vào năm 1955, Hội Thanh
Niên Phật Tử Penang (Youth Circle of the Penang Buddhist Association)
được thành lập. Hội này trong giai đoạn đầu được sự hướng dẫn của một tăng
sĩ Hoa Kỳ, Thượng tọa Venerable Sumangalo đến truyền giáo tại Malaysia
năm 1955.
Hội
nầy có những chương trình hoạt động hoằng pháp đổi mới, theo tư tưởng canh
tân, hướng về lớp thanh thiến niên. Do đó, tổ chức tu học lấy tên là "Phật
Pháp Ngày Chủ Nhật" (Dharma Sunday School) thu hút đông đảo thanh thiếu
niên Phật Tử.
Một tổ
chức khác cũng do Thượng Toạ Sumangalo thành lập quy mô hơn, có tên là "Hội
Liên Hữu Phật Giáo Mã Lai" (Malaysian Buddhist Youth Fellowship) được mở
rộng thêm để Thanh Niên Phật Giáo theo học.
Nhiều
Tăng sĩ Tây Phương cũng được mời sang diễn giảng. Thượng Tọa Sumangalo
được những hội Phật Giáo Úc Châu và Tân Tây Lan mời sang thuyết giảng.
Mặc dù
hội Phật Giáo Penang thuộc hệ phái Nam Tông, tuy nhiên Hội vẫn cung thỉnh
nhiều vị cao tăng thuộc Bắc Tông đến để hoằng pháp như cố trưởng lão K.
Gunanratana Maha Nayaka, Hòa Thượng P. Pemaratana Maha Nayaka từ Sri Lanka
đến.
Một vị
nữ tu sĩ Bắc Tông, ni sư Fang Lian đã xây dựng lên Ni viện Phor Thay vào
năm 1936. Ni sư này có những hoạt động tích cực về giáo dục và xã hội như
xây dựng trung tâm nuôi trẻ mồ côi, một trường tiểu học, một trường trung
học, trạm y tế, viện dưỡng lão.
Về mặt
sinh hoạt đối ngoại, vào năm 1950, 14 thành viên của Hội Phật Giáo Penang
đã tham dự Đại Hội Khoáng Đại của Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới (The
World Fellowship of Buddhists - WFB) nhóm họp tại thủ đô Colombo của Sri
Lanka.
Theo
sau kỳ Đại Hội này, Phật Tử ở Malaysia đã thành lập một chi nhánh trung
tâm của WFB tại Penang năm 1951.
Giáo
Hội đã thành lập một Học Viện Phật Giáo (Buddhist Institute) để đào tạo
Tăng Ni và mở một trường Phật Học miễn phí dành cho người lớn tuổi.
Trường này dạy nhiều ngôn ngữ khác nhau: tiếng Malaysia, tiếng Trung Hoa,
tiếng Anh. Hội cũng xuất bản tạp chí "Ánh sáng bất diệt" (Everlasting
Light) để phổ biến giáo lý sâu rộng.
Hòa
Thượng Chuk Mor là một vị Pháp sư rất nổi tiếng ở Malaysia cũng như khắp
vùng Đông Nam Á. Ngài sinh ngày 13 tháng 8 năm 1913 tại Trung Hoa. Ngài
xuất gia năm 12 tuổi (1924) và đã đến hoằng pháp tại Malaysia vào tháng 5
năm 1954. Vào tháng 7 năm 1962, Ngài đã xây dựng Thiền Đường Tam Trí
(Triple Wisdom Hall) để giảng dạy Thiền cho Phật tử Malaysia.
Một
trong những đệ tử của Ngài là Đại đức Sik Chi Chem, là người kế thừa sự
nghiệp của bổn sư và cũng là Chủ tịch Hội Thanh Niên Phật Tử Malaysia
trong hai nhiệm kỳ 1990 và 1996. Vị Chủ tịch thứ hai của hội Phật Giáo
Malaysia là Hòa Thượng Kim Beng, Viện chủ chùa Cheng Hoom Beng ở
Malacca, cũng là giảng sư giảng dạy Phật Pháp nổi tiếng ở Mã Lai.
Chính
quyền Malaysia đã trao tặng Ngài giải thưởng cao quý Jasa Setia Mahkota
để tán dương có sự đóng góp và làm lớn mạnh nền văn hóa Phật Giáo tại quốc
gia này.
VII- Mật
tông tại Malaysia
Phật
Giáo Tây Tạng được giới thiệu ở Mã Lai trễ nhất, tuy nhiên lại được đại
đa số quần chúng biết đến, theo sau các sự kiện: Giải thưởng Nobel về Hòa
Bình năm 1989 trao cho đức Đạt Lai Lạt Ma; tác phẩm "Tạng thư sống chết"
(Tibetan of Living and Dying) của Lama Sogyal Rinpoche, cũng như các
phương tiện thông tin, nghệ thuật, học thuật... được truyền bá và thu hút
mọi giới Phật tử Mã Lai cũng như các tín đồ tôn giáo khác ở Malaysia
quan tâm đến.
Vào
tháng 12 năm 1980, vị Lạt Ma Gealya Karmapa đã đến hoằng pháp tại Mã Lai;
chính sự xuất hiện của Ngài đã đánh dấu chính thức của sự truyền nhập Phật
Giáo Tây Tạng vào Malaysia. Những buỗi lễ Quán Đảnh cũng được tổ chức liên
tiếp tại đó.
Và từ
đó đến nay, có nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng đến thuyết pháp; nhiều trung tâm
tu học Mật Tông được tổ chức khắp đất Malaysia.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/Phatgiao_Malaysia.htm