Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
PHẬT GIÁO TRƯỚC NHỮNG VẤN ĐỀ 
DÂN SỐ, TIÊU THỤ VÀ MÔI TRƯỜNG

Rita M. Gross

Đi vào Trung Đạo trong một thế giới hổ tương: Giáo Lý  Phật Giáo và sự tiết chế

Một trong những giáo lý chính của Phật Giáo liên quan đến thuyết Duyên Khời (pratitya-samutpada trong Sanskrit và patica-samutpada trong Pali), được xem như một trong những khám phá mà Đức Phật đã tìm ra trong kinh nghiệm giác ngộ cuả Ngài. Giáo lý này chuẩn bị cơ sở cho tất cả những bình luận sâu xa về tiêu thụ và sinh sản, vì Duyên Khởi là đường lối sâu thẩm không thể định nghiã được. Phật Giáo nhìn chúng sinh như những thực thể có quan hệ nhau trong mạng lưới liên kết, chớ không phải là những thực thể cô lập. Duyên Khởi, được thâm nhập cùng khắp muôn nơi, là một phần quan trọng trong sự hiểu biết về luật nhân quả của Phật Giáo, luật này chi phối tất cả mọi su xãy diển trên thế gian. Không có gì xãy ra mà tách rời hay trái lại với luật nhân quả theo Phật Giáo, cũng không ai được phép can thiệp, dù tùy tiện hay thần thánh, vào trong diễn trình nhân quả. Hơn nửa, vì Phật Giáo hiểu nhân quả tương thuộc nhau, nên những hành vi của một con người có thể gây ra hậu quả cho toàn thể vũ trụ. Thật ra, những quyết định sinh sản hay tiêu thụ không hẳn là một quyết định đơn thuần cá nhân không liên quan đến thế giới rộng lớn hơn. Bất kỳ một đứa trẻ chào đời tại một nơi nào đó trên địa cầu đều có ảnh hưởng đến toàn thế giới hổ tương, điều này cũng giống như việc tiêu thụ các tài nguyên. Người ta cũng không thể lập luận rằng tiền cuả riêng tư hay mức độ tiêu thụ thấp gây ảnh hưởng xấu đến đứa trẻ trong mạng lưới hổ tương trong vũ trụ.Ta cũng không thể lập luận ước muốn riêng tư dành cho con cái quan trọng hơn là nhu cầu ta phải quan tâm đến vấn đề ảnh hư?ng cuả đứa trẻ đó trong một vũ trụ hổ tương, vì luật nhân quả không chừa một trường hợp riêng nào. Cũng tương tự như vậy, sử dụng tài nguyên, dù ở bất cứ nơi nào, cũng gây ra những ảnh hưởng trên toàn cầu. Thường thường, tiêu thụ xa xỉ tại một nơi sẽ có ảnh hưởng đến nghèo đói và đau khổ tại những nơi khác trên thế giới. Do đó, khi lấy luật Duyên Khởi làm nồng cốt cho Phật Giáo, điều này đòi hỏi sự tiết chế trong mọi hoạt động, đặc biệt trong sinh sản và tiêu thụ, vì nó có những ảnh hưởng tại các nơi khác trong hoàn vũ. Khi những hiểu biết của Phật Giáo về Duyên Khởi cùng với kiến thức của khoa học dã coi vu trữ như một chiếc thuyền cấp cứu hữu hạn, thì điều trở nên hiển nhiên là Phật Giáo coi việc kiểm soát sinh sản một cách thích hợp, nhân đạo và công bình như một điều kiện đòi hỏi. Điều đó cũng rõ nét, khi Phật Giáo xem sự sử dụng môi sinh bừa bãi qua sinh sản hay tiêu thụ như là coi thường vũ trụ hữu hạn và hổ tương; mà  sự bất chấp này bắt nguồn từ vị kỷ cá nhân. 

Viễn tượng về mối tương thuộc trong vũ trụ phoi bày một bức tranh to lớn về sinh sản và tiêu thụ. Viễn tượng này càng trở nên rõ nét hơn, khi chúng ta quan sát cặn kẽ phạm vi của con người nằm trong vũ trụ tương thuộc. Một mặt, Phật Giáo đề cao rất mực điều may mắn khi ta được tái sinh làm kiếp người, và một mặt khác, Phật Giáo thấy tất cả mọi sinh vật hữu tình về cơ bản đều giống nhau ở chổ cùng có thúc đẩy chung tìm đường thoát khổ và tu tập an lạc. Thật vậy, sinh ra làm người là quý giá và vừa lại được thấy sinh trong một mạng lưới vũ trụ liên hệ nhau, mà trong đó liên đới cuả con người với nhau là cốt yếu hơn là cả phân chia thành chủng loại khác nhau. Trong hai cụm từ "nhân thân quý báo" và "sinh vật hữu tình" cần được luôn đề cập chung khi thảo luận về quan điểm Phật Giáo với vấn đề vị trí con người trong vũ trụ liên đới. Sự quý giá của kiếp nhân sinh tuyệt nhiên không phải vì nhân quyền đứng trên các hình thái khác của cuộc sống, vì kiếp nhân sinh đã và có thể sẽ đổi lại thành những hình thái khác của kiếp sống- dù phương thức tu tập của Phật Giáo được nghĩ là nhằm đề cao cho sự tái sinh liên tục trong kiếp người. Một mặt khác, tất cã chúng sinh được nối kết nhau trong một thế giới theo mạng lưới rộng lớn trong vũ trụ theo luật Duyên Khởi và Tính Không, và điều này không có ngoại lệ. Mạng luới này là mối dây quan hệ gắn bó và chia sẽ kinh nghiệm gần gủi cho đến độ mà những biểu tượng cổ truyền cho là chúng sinh đôi khi là mẹ sinh sản ra chúng ta và ngược lại. Tuy nhiên, thay vì chúng ta có cảm tưởng rằng mình là người trên trước hay có ưu quyền hơn mọi người khác trên đời này, điều được luôn nhắc nhở là chúng ta nên biết, nếu chúng ta không muốn chiụ đựng thiệt hại hay đau khổ như thế nào, thì chúng ta cũng nên cố gắng tối đa tránh gây hại hay gây đau khổ cho người khác như thế ấy, vì mọi người đều là những thân thuộc của chúng ta

Như ai cũng biết, Phật Giáo cổ truyền tin có tái sinh và cho rằng tái sinh không luôn luôn nhất thiết là sinh làm kiếp người, mà hoàn toàn tùy thuộc vào công đức và kiến thức từ tiền kiếp. Trong tất cả tái sinh có thể được, thì tái sinh làm kiếp người được coi là may mắn và thuận lợi nhất, thuận lợi hơn cả tái sinh trong thánh điạ đầy hoan lạc. Chỉ với niềm tin này thôi thì dường như là điều thúc đẩy sinh sản không hạn chế. Nhưng khi chúng ta hiểu tại sao kiếp nhân sinh lại được quá tôn sùng, điều rõ ràng nhất là sinh sản quá mức sẽ phá hủy những điều kiện làm cho tái sinh được đề cao như thế. Tái sinh làm người được đề cao, hơn cả mọi sinh vật hữu tình khác, vì con người có khả năng phát triển tâm linh, điều này có thể đưa đến viên mãn, toàn mỹ và giác ngộ. Mặc dầu, mọi chúng sinh đều có tiềm năng bẩm sinh nội tại cho việc thực hiện này, nhưng thành tựu này được hổ trợ bởi một vài nguyên nhân và điều kiện nào đó cũng như bị ngăn trở bởi các lý do khác. Tuy nhiên, niềm vui được tái sinh làm người còn tùy thuộc vào khả năng con người trong mức độ sáng tạo với văn hoá và tâm linh nhằm dẫn đường đến giác ngộ, một khả năng chỉ đạt được khi mà người ta có đầy đủ đuợc các phuong tiện. Chỉ sinh ra làm người cho nhiều không phải là nguyên nhân cho một niềm vui về nhân thân quý giá, vì kiếp nhân sinh là điều kiện cần thiết, nhưng không đủ cho tiềm năng nội tại con người tương lai thụ hưởng. Khi con người được sống trong một môi trường thích hợp, được nuôi dưỡng đầy đủ từ thể xác, tình cảm và tinh thần, dó thật là điều vừa hửu ích và ngay cả cần thiết  Điều này là lý do chính tại sao mà tình trạng ít dân số để dễ lo lắng chu đáo được ưa chuộng hơn là chịu đông dân mà phải đang tranh đấu sống còn. 

Những điều kiện nhằm tạo cuộc sống như mơ ước và đáng sống có thể được đúc kết từ một trong những giá trị chính của Phật Giáo, đó là giá trị Trung Đạo. Trung Đạo được thảo luận như một nổ lực đúng đắn, không quá nhiều, không quá ít, không quá cứng ngắc và cũng không quá lỏng lẻo. Sử dụng một cách thích hợp nhất cơ hội biểu hiện “kiếp nhân sinh qúy giá”, người ta cần đi theo Trung Đạo và tìm cách, nếu có thể được, đi theo con đường ấy. Tránh cực đoan trong mọi vấn đề là một trong những điểm son trong Phật Giáo, mà Đức Thích Ca học tập được trước khi Ngài thành đạo và là một điều kiện tiên quyết cần thiết cho sự đạt đạo. Đầu tiên, Ngài học tập được rằng sống một đời xa xỉ là vô nghiã, nhưng Ngài cũng tìm ra cuộc đời nghèo khó cũng sẽ chẳng đưa đi đến đâu. Ngài kết luận để sống một kiếp người toàn vẹn, người ta cần phải sống trọn một đời trong tiết chế, tránh mọi thứ đam mê thái quá hay tận cùng trong đói nghèo hay tự khắc kỷ.

Đường lối chỉ dẩn của Trung Đạo nhấn mạnh giàu sang hay tiện nghi quá mức có thể làm phản tác dụng về mặt tâm linh, vì nó dể đưa đến tự mãn và hoang phí nhiều tài sản khác- những thái độ này không giúp ích cho tâm linh. Thật vậy, Trung Đạo đem lại những phê bình hợp lý và điều chỉnh cho thuyết tiêu thụ quá mức đang lan tràn, mà điều này dẩn đến thặng dư dân số.Tuy nhiên, Trung Đạo cũng tạo nên điểm chủ yếu khi cho rằng nên có vật chất tối thiểu và tiêu chuẩn tâm lý cần thiết cho kiếp sống có ý nghĩa. Phật Giáo không hề lý tưởng hoá nghèo đói và khổ đau, hay coi đây là một ưu điểm về tinh thần. Những người sống trong tận cùng nghèo khổ hay nguy hiểm sẽ không có đủ thì giờ hay khả năng để tự nuôi thân để từ dó tiến tới giác ngộ, thật sự tận hưởng trọn vẹn việc tái sinh làm kiếp  người, thật quả đây là một điều không may mắn. Phật Giáo đề cao tiết chế, nhưng không ca ngợi nghèo đói, vì nghèo đói không thể thúc đẩy người ta đạt được giác ngộ - hoặc cho phép người ta đủ thời giờ thở mà làm việc ấy. 

Thật vậy, nhiều Phật Tử công nhận từ lâu rằng để áp dụng lời Phật dạy đạt được kết quả, thì trước tiên ta cần phải có một cơ sở vật chất và bình an tân h?n. Phật Giáo luôn luôn công nhận người ta không thể nào thiền định hay suy niệm trong một bao tử rổng tuếch, hoặc tạo một môi trường cho thăng tiến và giác ngộ trong một hoàn cảnh tụt hậu, mất mát hoặc sợ hải. Phật Tử cũng nhận ra từ lâu thiền định được coi có thể như nhằm đưa tới niềm vui to lớn và viên mãn cho con người, điều này chỉ có sau khi người ta đạt đuợc một trình độ cơ bản nhất định trong Trung Đạo.Trước đó, người ta thật sự nghĩ rằng một khi có đủ điều kiện vật chất, người ta sẽ không còn chịu đau khổ. Người ta phải đạt đến một mức độ thoả mãn tối thiểu nào đó về những nhu cầu cơ bản, trước khi bắt đầu nhận ra ham muốn và đau khổ tiếp nối nhau là quá hảo huyền. Đến một lúc nào mà những nhu cầu cơ bản đã thoả mãn, người ta nghiệm thấy ham muốn và đau khổ không hề dập tắt dể dàng, thì giáo lý cơ bản cuả Phật Giáo mới bắt đầu tạo nên ý nghiã.

Điều này hoàn toàn phù hợp với luận điểm cuả một số người cổ vu rằng cắt giảm dân số là có thể làm được, nếu người ta có một mức sống thích nghi. Đó là một lập luận tổng quát hoá rất quen thuộc hiện nay: một phương thức hữu hiệu nhất nhằm cắt giảm dân số là cải thiện đời sống kinh tế dân chúng; khi người ta có đủ cơ sở vật chất thì mới có thể thấy sự vững chắc của lập luận giới hạn sinh sản này, trong khi người đang gặp tận cùng khó khăn sẽ không thấy điều đó. Tư tưởng Phật Giáo đề cao sự nghiệm xét về luật nhân quả, vì toàn thể thế giới hổ tương bị chi phối bởi luật này. Thặng dư dân số không đột nhiên mà xảy ra, đó là kết quả cuả những nguyên nhân, mà một trong những nguyên nhân đó là vì quá đói nghèo, không thể nào tu tập theo Trung Đạo ở giửa xa xỉ quá độ và tận cùng nghèo khó.

Tuy nhiên, sinh sản quá mức sẽ dẩn đến ngăn trở tất cả mọi nỗ lực giãm bớt đói nghèo, điều này rõ ràng là vì điạ cầu chỉ có tài nguyên giới hạn. Chúng ta cần nhận ra có quan hệ giữa tiêu thụ quá mức, thặng dư dân số và nghèo khó. Nếu một trong những yếu tố chủ yếu này bị bỏ sót, thì cung giống nhu khi những hệ thống tôn giáo và văn hoá lại không đề ra một đường hướng nào để giới hạn sinh sản; vũ trụ liên đới sẽ bị căng thẳng cực độ. Một lần nửa, điều quan trọng cần nhận ra là tất cả mọi tôn giáo và hầu hết các nền văn hoá đều có những hướng dẩn đạo đức nhắm giới hạn tiêu thụ. Thực ra, những giáo điều này có đề ra, nhưng thường không được áp dụng. Tuy nhiên, có vài tôn giáo đề cao giới hạn sinh sản. Phần lớn các tôn giáo khuyến khích hay đòi hỏi tín đồ của mình nên sinh sản, mà không hề đưa ra những hướng dẫn về giới hạn hay không có công nhận nào về thặng dư dân số. Dầu sao, những giáo điều có thể được dẩn chứng nhằm đề ra những lập luận để giớí hạn sinh sản, đây là điểm quan trọng đáng phê bình.

Dù theo đuổi phương thức nào, thì thuyết Duyên Khởi, khi kết hợp với lời khuyên nên tu tập theo Trung Đạo, hiển nhiên đem đến cho ta một sự diù dắt. Khi tổng hợp các ý niệm về Duyên Khởi cùng với giá trị về kiếp nhân sinh trong một hoàn cảnh sống thích hợp và giáo lý Trung Đạo, tất cã sẽ cho ta một sự hướng dẩn rõ ràng về sinh sản và tiêu thụ. Nhìn vấn đề tiêu thụ, ta thấy đáng đề ra khi lời kêu gọi của Trung Đạo chỉ ra hai đường hướng. Hiển nhiên tiêu thụ quá mức là sai phạm giáo lý Trung Đạo. Nhưng như thế là phủ nhận quá đáng. Lời khuyên áp dụng Trung Đạo không khuyên thắt lưng buộc bụng hay nhường chổ cho người khác, vì quyền sinh sản là bất khả xâm phạm. Nhung ta nên giới hạn sinh sản và tiêu thụ, vì cả hai có quan hệ nhau, nhờ như thế sẽ tạo một lối sống có thể dẫn tới giác ngộ cho mọi người. Thật vậy, khi sinh sản quá nhiều trên quả đất nhằm duy trì giống nòi, và đối với những cộng đồng phải tìm cách nuôi dưỡng cho thích nghi về mặt thể chất hay tinh thần, đây chính là điều tương phản với Trung Đạo. Sinh sản không nên vượt qua khỏi khả năng của gia đình, cộng đồng hay trái đất, nhằm tạo nên một cuộc sống phù hợp trong phạm vi Trung Đạo cho tất cả mọi người, dó là diểm chủ yếu.

Chỉ đơn thuần cung cấp một chổ tạm trú là không dễ, và lập luận cho rằng trái đất còn chỗ cho nhiều người nửa là không thuyết phục, bởi vì phẩm chất của cuộc sống quan trọng hơn là chỉ thuần gia tăng nhân số. Ngoài việc dinh dưởng sao cho thích hợp một cách tối thiểu, môi trường sống cần phải đầy đủ, nhằm tránh cảnh chen chúc quá mức, điều đó đưa tới gây hấn và bạo lực, đó là việc quan trọng. Những tài sản sẳn có về kỷ thuật, văn hoá và tâm linh làm cho đời sống con người thực sự nhân bản hơn, đó chính là chủ yếu. Tuy nhiên, dù nhìn trên khía cạnh toàn cầu, cộng đồng địa phương hay cá nhân, điểm mấu chốt phải giới hạn sinh sản là để trẻ con sinh ra được chăm sóc chu đáo về mặt vật chất cũng như tinh thần. Nếu không làm như vậy, thì chỉ là sự bất chấp niềm an lạc tâm linh cho những ai được sinh ra làm kiếp con người. Không phải đói nghèo mà cũng không vì kiệt quệ tinh thần  do việc nuôi dưỡng quá nhiều con là hữu ích cho bất cứ ai- ít nhất là những trẻ do sự sinh sản vô giới hạn. Trong Phật giáo, sự kiện chính yếu này vượt qua khỏi mọi mơ uớc riêng tư (muốn có con tùy thích) hoặc là quy luật hay áp lực nhằm cổ vũ sinh sản theo xã hội hay tôn giáo.

Những đường hướng này gây cho tôi một ấn tượng như một kim chỉ nam hoàn hảo để giải quyết vấn để áp lực dân số và sử dụng tài nguyên. Dầu thế, điều rõ rệt là người có hiểu biết và thiện tâm có thể đồng ý các đường hướng trên lý thuyết, nhưng không đồng ý trên cách thực hành. Hiển nhiên, Trung Đạo không có nghiã là tiêu thụ không ý thức của thế giới thứ nhất, nhưng cũng không có nghĩa là cổ vũ sinh sản một cách không cân nhắc về thế giới còn lại, kể cả cuả thế giới thứ nhất. Theo quan điểm cuả tôi, điều này bao gồm vài cơ sở kỷ thuật thực sự làm tăng gia phẩm chất của cuộc sống- vườn hoa, thú tiêu khiển, máy vi tính, dàn máy nghe nhạc với âm thanh nổi, du lịch quốc tế, điện tử, tủ lạnh, sự đa dạng văn hoá và giáo dục nhân bản- những thứ ấy không thể nào đáp ứng trong tình trạng dân số vô giới hạn mà không có suy thoái tột độ về môi trường. Vì có nhiều thứ trong cuộc đời cần phải từ bỏ và  thỏa mản nhiều hơn là sinh sản, thì thật là lố bịch khi ta phải từ bỏ những di sản văn hoá vừa kể để có nhiều dân số hơn mà thiếu van hoá.

Tác phẩm và tác giả | Ð?i ý | 1 | 2 | 3 | 4 | 

 


Vào mạng: 5-9-2004

Trở về mục "Diễn đàn"

Đầu trang