Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt    

   

...... ... ..  . ..  .  .
KHÁI LƯỢC VỀ GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO
Tâm Chơn

 

 

Khi Phật còn tại thế, có một lần, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Phật: Bạch đức Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, làm sao để chánh pháp của Như Lai được tồn tại lâu dài? Thế Tôn dạy: Đức Phật nào mà có nói giới, nói pháp thì chúng đệ tử nhờ đó để tu hành, làm cho chánh pháp được cửu trụ sau khi Như Lai diệt độ. Khi ấy Xá-lợi-phất thưa với Ngài rằng: Bạch Thế Tôn! Tại sao con không thấy Ngài chế giới  mà chỉ nói pháp? Phật dạy: này Tôn giả! Ta biết thời phải làm gì. Nay chưa tới thời nên ta chưa chế giới. Khi nào trong Tăng chúng có việc vì danh lợi, vì hữu lậu xảy ra thì Như Lai mới chế giới.
Vì thế, suốt 12 năm đầu, sau khi Phật thành đạo, Ngài đã không thuyết giới. Đến năm thứ 13, các pháp hữu lậu xuất hiện và đã xảy ra sai phạm trong chúng Tỳ kheo, rồi căn cứ vào sự vi phạm ấy Phật chế giới. Như người vá áo, không bao giờ vá vào những chỗ chưa bị rách. Đức Phật cũng không bao giờ quy định trước điều này hay ngăn cấm điều kia khi đệ tử Ngài chưa thật sự làm gì sai với Thánh đạo. Như vậy chứng  tỏ rằng Phật chế giới không phải là để bó buộc đệ tử mình, mà chính vì con đường giải thoát và ngăn ngừa sự hư đốn của Tăng đoàn.
Giới luật Phật giáo bao gồm tại gia và xuất gia. Tại gia có Ngũ giới, Bát quan trai giới, Thập thiện (mười giới). Xuất gia thì Sa di và Sa di ni 10 giới, Thức xoa ma ni có thêm 6 học giới, Tỳ kheo 250 giới, Tỳ kheo ni 348 giới. Bồ tát thì có 10 giới trọng 48 giới khinh cho cả xuất gia và tại gia.
Với mục đích ngăn ngừa các hành vi bất thiện, Giới luật của đạo Phật đã được thiết lập trên tinh thần “tùy phạm tùy chế”, nên không có tính cách giáo điều ràng buộc. Vì vậy ý nghĩa về giới luật rất rõ ràng:
+ Giới, tiếng Pali là Sila, phiên âm là Thi la, có nghĩa là điều ngăn cấm do đức Phật chế định cho hàng đệ tử Phật dùng để ngăn ngừa tội lỗi của 3 nghiệp. Do vậy, Giới còn được định nghĩa là:
-  Phòng phi chỉ ác: Ngăn ngừa điều sai trái, chặn đứng việc xấu ác.
- Biệt giải thoát: Giữ được giới nào, giải thoát được việc đó.
- Xứ xứ giải thoát: Nơi nào giới luật được tuân thủ thì nơi ấy cuộc sống được thanh thoát.
- Tùy thuận giải thoát: Hướng về con đường giải thoát.
- Thanh lương: Làm cho cuộc sống mát mẻ, thoải mái.
- Chế ngự: Có năng lực kiềm chế những việc xấu, ác.
+ Luật, chữ Phạn là Vinaya, phiên âm là Tỳ-nại-da, nói gọn là Tỳ-ni, dịch nghĩa là điều phục (chế ngự, nhiếp phục), diệt (diệt trừ điều ác). Luật là những nguyên tắc do Phật quy định cho hàng Tỳ kheo áp dụng khi sống trong tập thể Tăng đoàn.
Tóm lại, giới là điều răn, luật là quy luật thi hành giới. Luật bao hàm cả giới còn giới chỉ là một bộ phận của luật. Tuy gọi khác nhau như thế nhưng tánh chất vốn đồng nên có tên ghép là giới luật.
Giới luật gồm có nhiều loại:
1.     Giới Thanh văn:
Đây là giới của hàng xuất gia, có công năng giúp giữ gìn bản thể thanh tịnh Tỳ kheo và phát triển sự hòa hợp Tăng đoàn, gồm các đặc điểm:
+  Về công dụng:
-Chỉ trì: Không làm việc bất thiện tức là hành trì. Đây chỉ cho các loại giới bản của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni
- Tác trì: Thực hiện các điều Phật quy định tức là hành trì. Đây chỉ cho các Kiền độ, các pháp Yết ma.
+  Về tính chất:
- Tánh giới: Tính chất của sự việc. Nghĩa là việc đó nếu vi phạm thì có tội.
- Giá giới: Những điều ngăn cấm để khỏi dẫn đến phạm các trọng tội.
+  Về phương diện: Giới chia làm 4 loại:
- Giới pháp: Những điều do Phật chế định
- Giới thể: Bản thể của giới. Giới này phát sinh lúc thọ giới Cụ túc khi có đủ 3 nhân tố: Giới tử chí thành, giới sư thanh tịnh và giới đàn trang nghiêm.
- Giới hạnh: Các hành vi của 3 nghiệp hoạt hiện ra ngoài phù hợp với giáo pháp.
- Giới tướng: Các tướng trạng của giới.
Thông thường các Luật sư đem chia giới bản của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni thành 5 thiên 7 tụ.
- Năm thiên gồm có:  1.Thiên Ba-la-di,    2.Thiên Tăng-già-bà-thi-sa,   3.Thiên Ba-dật-đề,   4.Thiên Đề-xá-ni,   5.Thiên Đột-cát-la.
- Bảy tụ gồm có:  1.Tụ Ba-la-di,   2.Tụ Tăng-già-bà-thi-sa,   3.Tụ Thâu-lan-giá, 4.Tụ Ba-dật-đề,   5.Tụ Đề-xá-ni,   6.Tụ Aùc-tác,   7.Tụ Aùc-thuyết.
Ngoài ra còn phân chia qua các tên gọi: 
- Khai: mở ra.
- Giá: ngăn lại.
- Trì: tuân thủ.
- Phạm: vi phạm.
- Danh: tên gọi của giới.
- Chủng: chủng loại của giới.
- Tánh: tính chất của giới.
- Tướng: tướng trạng của giới.
2. Giới Bồ tát.
Giới này còn gọi là thông giới, tức gồm cả xuất gia và tại gia cùng ứng dụng tu tập để thành tựu tâm Bồ đề, cũng có các đặc điểm sau:
+ Về tính chất: Được chia thành 3 loại gọi là Tam tụ tịnh giới; đó là:
- Nhiếp luật nghi giới: Giới lìa ác (Nguyện dứt các điều ác).
- Nhiếp thiện pháp giới: Giới hành thiện (Nguyện làm các điều lành).
- Nhiêu ích hữu tình giới: Giới lợi tha (Nguyện làm lợi ích cho tất cả chúng sanh).
+ Về khinh trọng: 10 giới trọng và 48 giới khinh.
+ Về ứng dụng: Chia thành 2 loại:
- Định cọng giới: Do tu thiền định, tự nhiên thân tâm thanh tịnh, giới hạnh đầy đủ, nghĩa là người tu thiền khi phát sanh hiệu quả, không cần giữ giới mà vẫn sống phù hợp với giới pháp.
- Đạo cọng giới: Do tu Vô lậu nghiệp phát sanh trí tuệ, không cần thọ giới mà vẫn sống phù hợp với giới pháp.
Ngoài ra giới của Phật chế còn có Biệt giới và Thông giới;
- Biệt giới:  Như giới của hàng xuất gia là 10 giới Sa di, 250 giới Tỳ kheo… và giới của hàng tại gia là 5 giới.
- Thông giới: Là giới Bồ tát ai thọ cũng được.
3. Giới tại gia.
Theo nguyên tắc của Phật giáo, để trở thành một Phật tử, yêu cầu mọi người phải phát tâm thọ nhận ba pháp quy y (Quy y Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng) và hành trì năm giới.
- Năm giới: Đây là bước đầu của sự tu học Phật pháp mà cả xuất gia và tại gia đều phải chấp hành. Bởi vì Năm giới là căn bản đạo đức làm người, là đức tính cơ bản của luân lý, là chiếc cầu nối đưa đến an lạc Niết Bàn. Đó cũng là yếu tố để xây dựng nền tảng cho hạnh phúc cá nhân, gia đình và xã hội. Năm giới đó là:
1. Không được sát sanh.
2. Không được trộm cắp.
3. Không được tà dâm
4. Không được nói dối.
5. Không được uống rượu.
Năm giới này được ghi chép lại trong bài kinh Ưu-bà-tắc 128 thuộc kinh Trung A Hàm và đã được đức Phật đúc kết lợi ích của việc thọ trì năm giới qua bài kệ sau:
“ Kẻ trí sống tại gia,
Thấy địa ngục sợ hãi,
Do thọ trì Thánh pháp,
Trừ bỏ tất cả ác.
Không sát hại chúng sanh,
Biết rồi hay lìa bỏ,
Chân thật không nói dối,
Không trộm của kẻ khác,
Tri túc với gia phụ,
Không ái lạc vợ người,
Dứt bỏ việc uống rượu,
Gốc tâm loạn cuồng si.
Thường nên niệm chánh giác,
Suy nghĩ các pháp lành,
Niệm Tăng, quán giới cấm,
Do đó được hoan hỉ…”
- Mười giới: Trên nền tảng căn bản của năm giới, cũng y cứ nơi hành vi (thân), ngôn ngữ (khẩu), tâm lý (ý) mà đức Phật đã thiết lập pháp tu Thập thiện (10 giới) để nâng cao đời sống tâm linh, ý thức đạo đức cho hàng Phật tử tại gia. Thập thiện là:
+ Về thân có 3: Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm.
+ Về khẩu có 4: Không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm.
+ Về ý: Không tham lam, không sân hận, không si mê.
- Bát quan trai giới: Để tạo điện kiện cho hàng Phật tử tại gia tập tu hạnh xuất gia trong một ngày một đêm 24 giờ, đức Phật đã dạy thọ trì 8 giới. Trong đó, 5 giới đầu là của hàng tại gia, chỉ trừ giới thứ 3 là đổi lại thành không dâm dục; 3 giới sau tương đương với giới Sa di (của hàng xuất gia) là không được nằm giường cao rộng lớn đẹp đẽ không được trang điểm, thoa dầu thơm và múa hát hay xem múa hát, không được ăn phi thời.
Nói chung, Đức Phật chế giới không ngoài việc đem lại an lạc trong đời sống hiện tại và tương lai cho những ai có ứng dụng hành trì. Không phân biệt là xuất gia hay tại gia, nếu khéo nghiêm trì giới luật thì sẽ được những lợi ích sau:
1. Người có giới đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo nhờ tinh tấn.
2. Người có giới đức được tiếng tốt đồn xa.
3. Người có giới đức không sợ hãi rụt rè khi đến các hội chúng đông đúc.
4. Người có giới đức khi chết tâm không rối loạn.
5. Người có giới đức sau khi mạng chung được sinh về thiện thú, thiên giới.[1]
Ở các bộ Quảng luật (chỉ cho tất cả các bộ Luật trong Luật tạng) có nói đến 10 lợi ích của giới là:
1. Vì nhiếp phục Tăng chúng.
2. Vì nhằm triệt để nhiếp phục Tăng chúng.
3. Vì muốn cho Tăng chúng an lạc.
4. Vì để nhiếp phục những người không biết hổ thẹn.
5. Vì để cho những người biết hổ thẹn cư trú yên ổn.
6. Vì để cho những người không tin khiến họ tin tưởng.
7. Vì để cho những người đã tin tăng thêm lòng tin.
8. Vì muốn dứt hết pháp lậu hoặc ngay trong hiện tại.
9. Vì để cho những lậu hoặc chưa sinh không thể sinh khởi.
10. Vì muốn cho chánh pháp được tồn tại lâu dài.[1]
Như vậy, giới luật là nền tảng để hành giả hoàn thiện nhân cách, trong sạch thân tâm, hóa giải phiền não, xây dựng Tăng đoàn, tận trừ mọi lậu hoặc. Người nào tha thiết chấp trì giới luật thì chính là giữ gìn sự an lạc hạnh phúc cho mình và tha nhân ngay trong hiện tại và tương lai. Ngược lại, người nào không nghiêm túc vâng giữ giới luật là tự mình gây tổn hại đến nguồn an lạc hạnh phúc ấy.
Vế vấn đề trì giới luật, trong kinh Tăng Chi II, chương 7 pháp, đức Phật cũng có dạy: “ Biết vi phạm, biết không vi phạm, biết phạm nhẹ, biết phạm nặng, có giới luật, sống ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong cái lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập các học pháp, chứng được không khó khăn, không mệt nhọc, không phí sức đối với bốn Thiền Tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú, đoạn trừ các lậu hoặc, tự mình với thắng trí ngay trong hiện tại, chứng ngộ, chứng đạt Vô lậu tâm giải thoát. Thành tựu bảy pháp này gọi là người trì luật.”
Nói tóm lại, để bảo hộ sự thanh tình trang nghiêm của Tăng đoàn, để gìn giữ bản thể của các Tỳ kheo cũng như để thiết lập một đời sống an ninh cho nhân loại, đức Phật đã tuyên bày giới luật. Giới luật có công năng là dứt hẳn nghiệp duyên, nghiệp nhân trong đường sanh tử. Không chỉ ở vị lai mà ngay trong đời sống hiện tại, nếu chúng ta vâng giữ giới pháp nghiêm cẩn thì cuộc sống sẽ an lành, thân tâm luôn thanh thản.
Tuy nhiên cũng nên hiểu cho đúng nghĩa của giới luật là không chỉ ngăn ngừa đều xấu ác mà còn thể hiện ở việc năng làm điều thiện. Tức là bên cạnh việc “chỉ ác”,  mặt tích cực của giới luật phải là “tác thiện”.
Cho nên, là đệ tử Phật chúng ta phải thể hiện đúng vai trò của mình. Đối với hàng xuất gia thì phải “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”, giữ gìn gia tài pháp bảo để hoằng dương chánh pháp. Đối với Phật tử tại gia thì song song với việc hộ trì Tam bảo, người Phật tử còn phải thể hiện nếp sống mô phạm của hàng tại gia đệ tử Phật, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội văn minh.
 
Tâm Chơn
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Thích Minh Châu, Chánh pháp và hạnh phúc, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2001.
2.Tuệ Đăng(dịch), Giới luật học cương yếu, Nxb Tp. HCM, 2000.
3.Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông, quyển 1, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội  2004.
4.Thích Nhất Hạnh, Để có một tương lai, Nxb Lá Bối.
5.Thích Thanh Kiểm, Luật học đại cương, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2001.
6.Thích Đổng Minh, Luật tỳ kheo giới bổn sớ nghĩa, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội 2004.
7.Thích Hành Trụ, Luật tứ phần giới bổn, Nxb Tp.HCM, 1999.
8.Thích Minh Thông, Đại cương giới Tỳ kheo, lưu hành nội bộ.
9.Viên Trí, Ý nghĩa giới luật, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2004.
10.Thích Thiện Siêu, Cương yếu giới luật, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2002.
11.Thích Phước Sơn (dịch), Luật Ma Ha Tăng Kỳ, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2003.
12.Thích Phước Sơn, Một số vấn đề giới luật, Nxb Phương Đông,Tp. HCM, 2006.

 

 


Vào mạng: 10-4-2009

Trở về mục "Đạo đức-Tâm lý học Phật giáo"

Đầu trang