Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
TINH THẦN TRI ÂN VÀ BÁO ÂN
CỦA NGƯỜI CON PHẬT QUA VU LAN BÁO HIẾU
Trí Khả

 

thể nói mùa Vu Lan được xem là mùa báo hiếu, báo ân đối với cha mẹ, thực ra con đường xây dựng một đức tánh cơ bản của hạnh Phật giáo là xây dựng lòng từ bi phát khởi từ tình thương cha mẹ, từ tình cảm gia đình lan dần ra đến tình cảm rộng lớn đối với xã hội, đối với sự sống.Đến với dân tộc Việt Nam truyền thống Vu Lan hòa lẫn nhịp nhàng vào tâm hồn tín ngưỡng của dân tộc.

Nói về Vu Lan tức là nói về một truyền thống của một ton giáo đã bắt rễ khá lâu đời trong lịch sử dân tộc Việt Nam và mang giá trị văn hóa tinh thần, là một phương pháp giáo dục đạo đức có giá trị nhân bản trong toàn nhân loại bởi nó nó đã nói lên tầm quan trọng của di sản đạo đức và quá trình thích nghi trong những đặc sắc rất tốt đẹp có khả năng thích ứng. Kể cả những tầng lớp nhân sinh ít có điều kiện hiểu hết được những tư tưởng triết luận thâm cao nhưng vẫn đượm nhuần mùi hiếu hạnh và truyền thống này cần phải tiếp tục duy trì cho đến mãi về sau nhằm nhắc nhở gương hạnh của tiền nhân cho thế hệ sau ghi nhớ công sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.

 Một tình thương nào đó được gọi là bao la mà không có tình thương đối với cha mẹ thì không phải là lòng từ bi của đạo Phật và tình thương ấy đã được nhân dân ta dệt lên những câu ca dao, tục ngữ với chất liệu ngọt ngào như suối nguồn bất tận , với hương vị mặn như tấm lòng của biển.

Năm nay mùa Vu Lan lại trở về với muôn triệu người con Phật, riêng đối với hàng Phật tử chúng ta có cảm niệm gì về mùa Vu Lan này va tri ân, báo ân cha mẹ như thế nào đúng với tinh thần của người con Phật? Đó là ưu tư của người Phật tử nghĩ đến cha mẹ khi Vu Lan về.

Duyên khởi Vu Lan được bắt nguồn từ khi đức Phật còn tại thế, vị đại đệ tử của Phật là tôn giả Mục Kiền Liên sau khi tu hành chứng được lục thông, Ngài dùng huệ nhãn xem xét thấy vong mẫu sanh làm loài ngã quỉ chịu khổ đói khát không cùng, Ngài bèn vận dụng thần thông mang cơm dâng mẹ nhưng do ngiệp lực của bà chiêu cảm nên khi vừa mở miệng ra cơm đã hóa thành than lửa không thể ăn được. Mục Kiền Liên thấy vậy vô cùng đau xót về thỉnh cầu đức Phật dạy phương cứu khổ mẫu thân. Đức Phật dạy nhân rằm tháng bảy là ngày tự tứ, là ngày Phật đà hoan hỉ hãy thiết lễ trai tăng cúng dường nhờ vào đạo hạnh tinh khiết và thanh tịnh của chư tăng cùng hướng về người quá cố mà chú nguyện, tạo thành lực dụng tiếp dẫn họ trở về trạng thái an lành nhờ đó mà bà Thanh Đề từ bỏ tâm tham lam bỏn xẻn, khởi tâm hoan hỉ nên được xa lìa ác đạo. Kể từ dạo ấy đại lễ Vu Lan in sâu vào tâm hồn của người con Phật.

Qua hơn 2 thiên niên kỷ nhưng di ảnh đó vẫn tồn tại với thời gian, luôn là bức tranh tuyệt tác, là sắc màu hiếu hạnh hiện lên hải hà tình thương trên bình điện đạo đức, đem lại nguồn lợi ích không ngần cho nhân sinh, trang bị thành nhân cho biết bao tâm hồn hướng thượng, sự hiện diện của tôn giả Mục Kiền Liên 2500 năm trước là tấm gương hiếu hạnh cho nhân loại soi chung và đã trở thành một truyền thống cao đẹp ăn sâu vào lòng dân tộc.

Trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, khi nói đến cha mẹ thì quả thật trên đời này không có tình thương nào đậm đà và thiêng liêng bằng tình thương cha mẹ, nhất là cơm nặng áo dài của người cha mẹ, sự hi sinh cao cả ngậm đắng nuốt cay của người mẹ. Ngay từ khi chưa biết hình hài ta như thế nào nhưng mẹ vẫn dành cho ta một tình thương bất tuyệt, lúc khai hoa nở nhụy mẹ đã âm thầm chịu bao đau đớn, khi sanh ta ra trăm mối ưu tư lo sợ chồng chất trong lòng mẹ. Suốt ba năm bú mớm dưỡng nuôi, mẹ đã hi sinh một phần thân thể cho ta dòng sữa ngọt ngào, ngọt như tình thâm của mẹ mà ta đã say sưa uống cạn để trưởng thành. Nhắc làm sao hết được tình thương của mẹ đã dành cho ta từ thưở mới tượng hình đến lớn khôn và ngay cả hiện tại. Tình thương đó đến với ta qua bàn tay trìu mến, qua dòng sữa ngọt ngào của cuộc đời, là dòng suối bất tận của thời gian.

 Nhưng tình mẹ bao la như biển cả thì ân cha cao tựa Thái Sơn. Ca dao Việt Nam có câu :

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như  nước trong nguồn chảy ra”

Tình cha thì nghiêm nghị nên được ví như núi cao sừng sững, còn tình mẹ thì êm ả dịu dàng nên nghĩa mẹ được ví như suối nguồn bất tận.

Đặc biệt là tình nghĩa của mẹ đối với con thì vừa trong lành, vừa hiền diệu. Nhìn về phương diện sinh học thì không có một thứ động, thực vật nào không có nước mà có thể sống được, cho nên nước trong nguồn chảy ra chính là nguồn sống của muôn loài. Nước trong nguồn không bao giờ cạn được thì lòng mẹ cũng không bao giờ ngừng nghỉ.

Tình thương của mẹ trong suốt, dịu dàng và ngọt ngào. Mẹ thương con cũng giống như tình thương của nước đối với nhân loại. Bản chất của nước thì nhuần mát, ngọt dịu và trong sáng. Nước thì chảy suốt, nếu gặp trở ngại thì nước cũng gầm lên trong bọt và xoáy dữ dội nhưng đó không phải là bản chất của nước. Trong tình thương mẹ con cũng vậy, đôi lúc ngọt ngào với con nhưng có lúc cũng la rầy, đánh con nhưng đó không phải là bản chất của mẹ mà bản chất của mẹ là trìu mến, nâng niu và ngọt ngào đối với con. Vì muốn cho con nên người và ảnh tỉnh khi con sai trái nên mẹ mới đánh con nhưng sự đánh con của mẹ không bao giờ có cái giận lấn lướt tình thương của mẹ đối với con.

Trái lại “Công cha như núi Thái Sơn”, núi nhìn xa thì bình thản nhưng núi chứa trong lòng không biết bao côn trùng, thảo mộc và động vật… đang sinh sống cho nên bên ngoài cha có vẻ nghiêm nghị mà bên trong cha lại từ bi, đức độ và bao dung. Cha là lý tính và trí tuệ cho nên mỗi khi cha la rầy một tiếng thì người con phải sợ, sự la rầy đó không phải là cha không thương con. Vì cha ít nói nên khi cha nói thì đó là sự việc đã xảy ra quá lắm rồi và sự la rầy đó của cha có cái lạnh lùng nhưng bên trong bao hàm ý hướng thiện nhân bản. Cho nên Emilealain có nói “nâng niu chiều chuộng trẻ không phải là giáo dục” cũng không ngoài ý này vậy.

Tình thương của cha mẹ đối với con cái lúc nào cũng vẫn bao la như trời biển, con cái nhờ tình thương đó mới lớn lên được cả thể xác lẫn tâm hồn. Nếu thiếu tình thương, thiếu sự giáo dục của cha mẹ thì người con sẽ bơ vơ, tâm hồn sẽ bị lệch đi và không trở nên người hữu ích. Sự thiếu tình thương của cha mẹ được nhân dân ta diễn tả qua câu :

“ Còn cha gót đỏ như son
Đến khi cha mất gót con lấm bùn”

Cha mẹ không chỉ là ân nhân mà là hiện hữu lẽ sống của cuộc đời và hạnh phúc nhất của người con không chi bằng là còn cha mẹ và bất hạnh nhất không chi bằng là mất cha mẹ. Người con mất cha mẹ khác nào như những cánh chim cô đơn không tổ ấm, thân bé bỏng giữa rừng đời trống vắng.

Người con dù tiếp nhận công ơn cha mẹ, dù tìm hiểu ơn nghĩa ấy qua sách vở vẫn không có được cảm nhận sâu sắc về ân nghĩa ấy, cho đếùn khi nào người con đó trưởng thành, lập gia đình mới cảm nhận sâu sắc với ân nghĩa của cha mẹ và từ sự cảm nhận cảm nhận, biết ơn ấy mới nảy sinh hành động báo đáp ân nghĩa của cha mẹ một cách chí thành chí kính. Để cho chúng sanh hiểu sâu sắc hơn về công ơn cha mẹ, trong kinh Phân Biệt đức Phật dạy: “ Ta trải qua vô lượng kiếp tinh tấn tu hành nay mới thành đạo quả vô thượng bồ đề đều tòan là nhờ công ơn của cha mẹ”. Vậy người học đạo không thể nào không kính hiếu đối với cha mẹ. Từ đó Ngài khẳng định tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật hay nói khác hơn con đường đưa đến Phật quả tất yếu ta phải tu tâm hiếu và thực hành hạnh hiếu.

Kinh Bảo Tạng đức Phật dạy: “ Làm con đối với cha mẹ đem lễ mọn cúng dường thì được phước vô lượng, làm điều bất thiện thì tội cũng tội vô lượng”. Vậy cha mẹ hiện tiền ta hãy hết lòng phụng dưỡng bởi vì cha mẹ hiện tiền như Phật tại thế, cúng dường cha mẹ như cúng dường chư Phật, vì vậy cúng dường cha mẹ là một trong tám phước điền thù thắng nhất. Chừng đó cũng đủ thấy rõ tầm mức quan trọng của hiếu hạnh trong giáo lý đạo Phật.

Đạo Phật bao giờ cũng chú trọng đến lòng hiếu thảo của kẻ làm con vì hiếu đứng đầu trong trăm hạnh tốt. Hiếu cảm đến trời thì mưa hòa gió thuận, hiếu cảm đến đất thì muôn vật xanh tươi, hiếu cảm đến người thì mọi phúc lành đếu tới. Cho nên hiếu cũng được gọi là “giới”, là điều phải thọ trì trước nhất của người tu.

Trong kinh Nhẫn Nhục đức Phật dạy rằng: “Cùng tốt điều thiện không gì bằng hiếu, cùng tội điều ác không gì bằng bất hiếu”, cho nên trong luật, đức Phật còn liệu tội bất hiếu là tội đứng đầu trong 5 tội “ngũ nghịch”. Để chúng ta nhận rõ được giá trị của hạnh hiếu và ý thức dược bổn phận làm con phải phụng dưỡng cha mẹ như thế nào cho xứng đáng.

Kinh Thiện Sanh đức Phật dạy:Người con có các bổn phận đối với cha mẹ :

·            Vâng lời cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ khi có việc cần.

·            Giữ gìn gia phong lễ giáo, danh dự gia đình.

·            Bảo vệ tài sản của cha mẹ.

·            Phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già.

·            Kích lệ, giới thiệu đạo giải thoát chánh kiến đến với cha mẹ.

·            Lo tang lễ khi cha mẹ qua đời.

Về phương diện báo ân, thế nhân đền đáp ân nghĩa sanh thành dưỡng dục bằng của cải vật chất, tiền bạc và lòng tôn kính, đương nhiên đây là cách rất phổ thông nhưng theo Phật giáo quan niệm sự đền đáp ấy chưa đủ, người con còn có bổn phận đem lại cho cha mẹ chánh kiến, chánh tín, giới thiệu con đường giải thoát giới định tuệ hầu giúp cha mẹ loại trừ các ác nghiệp, tăng trưởng thiện nghiệp, đi dần đến giải thoát sanh tử khổ đau, sự đền đáp này gọi là sự đền đáp của con người có trí tuệ và được như vậy mới tương xứng với công ơn của cha mẹ.

Điển hình đức Phật sau khi thành đạo, Ngài trở về Ca Tỳ La Vệ thuyết pháp độ vua cha, lên cung trời Đao Lợi thyết pháp độ mẹ và độ di mẫu là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề người mà nuôi dưỡng đức Phật khi còn làm thái tử cũng được xuất gia và chứng chánh quả. Đó là nói về sự báo hiếu cha mẹ còn hiện tiền nhưng đối với cha mẹ quá cố thì người con báo hiếu bằng cách làm những phúc duyên thánh đạo tạo tất cả công đức lành để hồi hướng cho cha mẹ đã quá vãng nương nơi công đức ấy mà siêu sanh về cảnh giới an vui hay nói khác hơn là chúng ta báo hiếu cha mẹ theo tinh thần kinh Vu Lan mà đức Phật đã dạy cách đây hơn 25 thế kỷ, tôn giả Mục Kiền Liên đã thực hiện và thực hiện có kết quả.

Điểm đặc sắc hơn là hạnh hiếu của Bồ Tát Địa Tạng được ghi lại trong kinh Địa Tạng, lúc tiền thân của Ngài còn là Bà La Môn nữ vì thương tưởng đến thâm ân của cha mẹ nên Ngài sắm sửa lễ vật cúng dường chùa tháp…, thờ tôn tượng của Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, nhờ công đức đó mà mẹ của Ngài được sanh lên thiên giới.

Và hình ảnh thứ hai là tiền thân của Ngài là Quang Mục cũng vì mẹ mà sắmsanh trai giới cúng dường cho vị La Hán và họa vẽ hình tượng của đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục ngày đêm hết lòng chí thành xưng niệm danh hiệu của Phật, hồi hướng cho mẹ, nhờ phước lực đó mà mẹ Ngài được thoát hóa và cũng từ đó mà Ngài đối trước tôn tượng của đức Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai phát lời thị nguyện: “ Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp trong những thế giới nào mà có các hàng chúng sanh bị tội khổ nơi địa ngục cùng 3 ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, ngạ quĩ và súc sanh. Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi vậy sau tội mới thành bậc chánh giác” ( Kinh Địa Tạng phẩm thứ 4, phần 4 Quang Mục cứu mẹ, trang 36). Đó cũng đủ cho ta thấy từ hiếu hạnh đã trở thành nguyện hạnh của một vị Bồ Tát và cũng nói lên tinh thần vị tha, hy sinh bản thân để phụng sự chúng sinh của đạo Phật.

Qua các phần trình bày ở trên nhằm nhắc nhở cho người con Phật chúng ta nuôi dưỡng tâm hiếu và quay về đời sống thực tại để thực hiện tinh thần tri ân, báo ân cha me hầu xây dựng một đời sống đạo đức cho con người, cho gia đình và xã hội, đây là hành động cụ thể, phát huy trọn vẹn tâm hiếu và cũng là chất liệu giúp cho hành giả phát Bồ Đề tâm thực hành Bồ Tát đạo.

Hiện tại hơn là thực hành các bổn phận đáp đền ân nghĩa đó là thiết thực nhất của người Phật tử trong việc cử hành Đại lễ Vu Lan và cũng là đóa hoa lòng thanh khiết nhất, kết thành tràng hoa hiếu hạnh, chúng ta dâng lên cúng dường các bậc ân nhân trong mùa báo hiếu này vậy.

http://www.buddhismtoday.com/viet/vulan/trianvabaoan.htm

 


Vào mạng: 1-8-2002

Trở về mục "Vu-lan-bồn"

Đầu trang