Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

 

Tìm Về Cội Nguồn Dân Tộc

 NGUYỄN HỮU NHÀN

---000---

"Ði tìm dấu tích xưa - kinh đô Văn Lang" của TS Nguyễn Anh Tuấn, Phó giám đốc Bảo tàng Phú Thọ  là cuốn sách quý cho mọi người muốn tìm hiểu về cội nguồn của Việt Nam với nền văn hóa Hùng Vương và kinh đô của nước Văn Lang thời đại các Vua Hùng.

Trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc, lịch sử bằng chữ viết bị xóa đi, nhưng tinh thần yêu nước của người Việt thì không ai xóa nổi. Các làng Việt ta đã thật sự trở thành những pháo đài bất khả xâm phạm nhờ ở kho báu văn hóa làng.

Nước mất nhưng các làng Việt vẫn thờ thần của mình, vua của mình, không thờ ông Thống chế hoặc ông Hoàng đế xứ người. Quan quân của giặc đóng ở quận, phủ, đồn bốt của họ, còn các làng Việt về phong tục vẫn do người Việt tự quản.

Ngàn năm dân ta vẫn nói tiếng ta, sống theo phong tục của ta là chính. Dân ta lúc nào cũng kể về ông cha ta, thờ cúng ông bà, tổ tiên của ta, đặc biệt là tục thờ cúng Vua Hùng và các nhân vật thời Hùng. Vì thế ta mới nói: Nước mất nhưng làng còn. Vì còn làng nên khi mất nước nhân tài ở các làng lại liên kết với nhau, tập hợp lại để dấy binh giành lại nước.

 

Nhờ có văn hóa làng mà lịch sử thời đại Hùng Vương mới được gìn giữ, minh chứng bằng các tài liệu điền dã dân tộc học về các tục hèm cầu cúng tế lễ, các truyền thuyết, chuyện kể, đến dân ca, dân vũ và phong tục cổ truyền từ thời Hùng còn lại trong dân gian của làng Việt.

Với năm tập sách dày "Ðịa chí văn hóa dân gian Phú Thọ" do Hội Văn nghệ Dân gian tỉnh xuất bản đã cung cấp khá đầy đủ tài liệu giúp cho mọi người dễ dàng muốn tìm về cội nguồn dân tộc. Trong tập sách "Ði tìm dấu tích kinh đô Văn Lang" Nguyễn Anh Tuấn đã đi sâu trình bày cho bạn đọc về những trang sử vàng không phải bằng chữ viết mà bằng những hiện vật khảo cổ, những chứng cứ vật chất từ thời Hùng còn để lại. Phần này được mở đầu từ văn hóa Phùng Nguyên cách ngày nay quãng 4.000 năm.

Nền văn hóa khảo cổ này được gọi theo tên một di chỉ ở làng Phùng Nguyên, huyện Lâm Thao. Ðây là tiêu biểu của một nền văn hóa khảo cổ ở Việt Nam và Ðông-Nam Á. Ðó là sự mở đầu cho thời đại đồng thau ở Việt Nam. Riêng ở quanh Ðền Hùng, Phú Thọ đã phát hiện được 40 di tích cùng niên đại Phùng Nguyên, hay còn gọi là các di tích Phùng Nguyên ở xóm Rền, Gò Diễn (huyện Phù Ninh), Gò Con Lợn, Gót Rẽ, Gò Nghệ, Gò Dạ, Gò Ðường, Gò Con Cá, Thành Dền (huyện Lâm Thao), Gò Chè, Gò Bông, xưởng chế tác đá Hồng Ðà, Gò Chon (huyện Tam Nông)...

Văn hóa Phùng Nguyên là nhân tố quan trọng trong quá trình hình thành nền văn hóa Ðông Sơn, hay còn gọi là văn hóa Hùng Vương. Văn hóa Phùng Nguyên là sự mở đầu của nền văn minh sông Hồng vì cư dân Phùng Nguyên đã có trình độ điêu luyện với khiếu thẩm mỹ cao trong việc chế tác công cụ và đồ trang sức bằng gốm, đá, xương, sừng; đặc biệt biết nung đồng làm công cụ.

Trên nền tảng Phùng Nguyên, cư dân Việt cổ đã tiến cao hơn trong việc luyện kim. Ðó là con người thuộc văn hóa Ðồng Ðậu cách nay trên dưới 3.500 năm. Ðặc trưng cơ bản ở thời kỳ này là việc luyện kim và chế tác đồng thau bắt đầu phát triển mạnh mẽ với những rìu, giáo, lao, mũi tên, lưỡi câu, búa đồng...

Qua khảo cổ người ta biết con người thời Ðồng Ðậu đã có giao lưu trao đổi giữa các vùng ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả và các khu vực khác của nước ta. Người Ðồng Ðậu đã biết chăn nuôi, khai thác sản vật tự nhiên để sống định cư trên các đồi gò cạnh sông suối đầm bãi.

Quanh Ðền Hùng, Việt Trì cũng tập trung nhiều di chỉ thuộc văn hóa Ðồng Ðậu như Gò Ðồng Ðậu con ở Tứ Xã, Gò Diễn, Nội Gan (xã Kinh Kệ), xóm Thi Ðua, Gò Ðồng Ðậu (xã Thụy Vân)...

Sau Ðồng Ðậu là văn hóa Gò Mun cách ngày nay trên dưới 3000 năm. Gò Mun là tên một di chỉ khảo cổ nổi tiếng thuộc xã Tứ Xã huyện Lâm Thao. Ở thời kỳ này cư dân đã sống tập trung đông đúc hơn, nghề đúc đồng phát triển và việc sử dụng đồ đồng đã đóng vai trò quan trọng so với đồ gốm và đồ đá. Kỹ thuật đúc đồng của người Gò Mun đã nâng cao hoàn chỉnh hơn so với người Ðồng Ðậu. Loại hình di vật bằng đồng đã phong phú hơn như: rìu, giáo, lao, mũi tên, búa, liềm, tượng, lục lạc, vòng tay, trâm cài. Nếu ở giai đoạn Ðồng Ðậu mới có 10 loại di vật đồng thì ở Gò Mun đã có tới 20 loại công cụ, vũ khí và đồ dùng sinh hoạt khác nhau bằng đồng.

Ba nền văn hóa Phùng Nguyên, Ðồng Ðậu, Gò Mun được gọi là văn hóa tiền Hùng Vương. Ðó là thời kỳ tiền sử chuẩn bị cho dân ta bước sang lịch sử thời đại các Vua Hùng với nền văn hóa khảo cổ Ðông Sơn mà tiêu biểu là trống đồng Ðông Sơn loại I.

Các di tích thời đại Hùng Vương ở Phú Thọ có sự diễn biến theo thời gian đã có thay đổi mạnh mẽ về mọi mặt, từ địa bàn cư trú kinh tế, xã hội và kỹ thuật chế tác công cụ, đặc biệt là đồ đồng đã phát triển rực rỡ.

Văn hóa Ðông Sơn hay văn hóa Hùng Vương có niên đại từ sáu, bảy trăm năm, đến một, hai trăm năm trước công nguyên.

Ðến nay đã phát hiện được khá nhiều di chỉ văn hóa Ðông Sơn ở Phú Thọ, đặc biệt là sự tập trung các di chỉ Ðông Sơn ở quanh Ðền Hùng và Việt Trì, với các hiện vật bằng đồng nổi tiếng như Trống Ðồng, bộ rìu gót vuông, rìu xéo, rìu hình thuổng, lục lạc, vòng ống, tấm che ngực, mũi lao, ngọn giáo, dao găm, vòng tay, v.v...

Qua hoa văn trên thạp đồng, trống đồng và những hiện vật khảo cổ khác người ta đã đọc ra những hình thái kinh tế, tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa của cư dân Văn Lang.

Một trống đồng Hê Gô loại I có đường kính lớn nhất trong số trống đồng cùng loại cả nước tìm thấy ở ngay chân núi Nghĩa Lĩnh, núi Hùng và tiếp sau là trống đồng loại II còn gọi là trống Mường, chỉ có ở vùng người Mường cư trú đã phát hiện được nhiều nhất trong vùng Mường Phú Thọ với hơn 60 chiếc.

Cả nước cộng lại có số lượng ít hơn nhiều, chứng tỏ Phú Thọ từng là đất Tổ cả nước, trống đồng Mường xuất hiện tương ứng với thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc. Khi ấy bọn giặc ráo riết tịch thu trống đồng và thủ tiêu văn hóa Việt, tinh thần Việt. Các làng ở vùng ngoài bị giặc lùng sục ráo riết hơn, từ đó trống đồng bị vắng bóng, bị cướp đi, hoặc do bị chôn giấu trong lòng đất. Ở vùng Mường khuất nẻo tục đánh trống đồng vẫn được duy trì, nên người ta vẫn đúc tiếp trống đồng.

Số trống đồng loại II được đúc ra khi mất nước nên tình cảm của người dân, đặc biệt là các nghệ nhân được gửi gắm vào đó qua sự đơn giản hóa các họa tiết hoa văn và hình dáng kích thước của trống. Ðến nhiều làng Mường Phú Thọ vẫn còn nghe kể truyền thuyết về nhạc khí và trống đồng bị chôn giấu khi chạy giặc. Trống đồng hầu như chỉ đào được ở xóm Chiềng các làng Mường vì xóm Chiềng là trung tâm một làng Mường, nơi quan thổ tù ở và là nơi có các đình miếu công đồng là nơi hàng năm diễn ra các lễ hội lớn có tổ chức chàm thau (đánh trống, đánh chiêng đồng). Có lẽ hoàn cảnh ngàn năm Bắc thuộc đã xảy ra hiện tượng người Việt cổ phân thành hai nhánh người Việt và người Mường.

Ðọc sách "Ði tìm dấu tích kinh đô Văn Lang" sẽ cho ta nhìn rõ ràng hơn về cội nguồn dân tộc, nhất là về lịch sử thời đại các Vua Hùng và kinh đô Phong Châu của nước Văn Lang xưa.

 

Nguồn: http://nigioingaynay.com

 

   http://www.buddhismtoday.com/viet/vh/coinguondantoc.htm

 


Vào mạng: 1-7-2007

Trở về mục "Văn hoá Phật giáo"

Đầu trang