Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
Ngày thọ Ðại Giới
Thích-Hạnh-Thức

 

Nam Mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát... Tôi quỳ trước tôn tượng các đấng Hộ Pháp, niệm danh hiệu, đảnh lễ các ngài rồi lâm râm khấn vái. Tôi nguyện tinh tấn trên đường đạo. Xin hãy chứng minh cho lòng tôi, phò hộ cho tôi, cho tôi được gặp Thiện Tri Thức, được giữ giới thanh tịnh... Từ ngày xuất gia, tôi vẫn thường quỳ trước mặt các đấng Tôn Túc phát nguyện như vậy. Ðặc biệt lần nầy tôi quỳ thật lâu. Hình như đã vô lượng kiếp vừa trôi qua...

Buổi họp chúng khi chiều, Sư Phụ đã quyết định ai sẽ được thọ giới kỳ nầy: Hạnh Giới được thọ Tỳ Kheo, các cô Hạnh Thông, Hạnh Bình, Hạnh Ngộ được thọ Thức Xoa Ma Na để chuẩn bị sau 2 năm thọ Tỳ Kheo Ni. Ðó là những huynh đệ cùng thọ giới (Sa Di) một lượt với tôi. Tôi không có tên. Việc đó hầu như là chuyện đương nhiên. Hãy còn quá sớm cho tôi để được thọ đại giới. Tôi còn phải học rất nhiều nữa; mặc dù chúng Viên Giác được đào tạo hết sức "chính quy" (lời Sư Phụ thường hay nói), mỗi ngày đều có giờ học từ 14,30 giờ tới 16 giờ. Thầy Giáo thọ đi thăm các chùa trên thế giới từ Mỹ qua tới Úc về, đã phát biểu: Thầy thấy bây giờ các chùa Việt Nam hải ngoại chỉ còn chùa Viên Giác và tu viện Kim Sơn bên Mỹ là còn đánh trống khi tán tụng trong giờ công phu! Các cô chú ở các chùa khác qua thăm, thấy chúng tôi học như vậy đều trầm trồ khen ngợi và ước mong sao mỗi năm được về đây một hai tháng để cùng tu học. Sư Phụ thường bảo tôi thuộc diện "bán thế xuất gia", còn rất nhiều "ô nhiễm", phải cần nhiều thời gian để gột rửa. Trong thiền môn, quyết định của Sư Phụ đối với một đệ tử lúc nào cũng chính xác, vì Sư Phụ luôn luôn ở gần bên cạnh đệ tử, theo dõi diễn biến tâm linh để biết được người đệ tử đó như thế nào, đang đứng ở đâu. Ðối với tôi, việc thọ giới trước hay sau không thành vấn đề. Ðiều cốt yếu là mình có tu tập đàng hoàng hay không. Nhưng sau đó, thầy Ðồng Văn khuyên tôi nên phát tâm cầu giới. Thầy bảo: "Thọ giới để mà tu. Tại sao chú không chịu xin Sư Phụ?". Tôi mới biết rằng mình cần nên phát tâm để có cơ hội tiến tu. Càng nhiều giới pháp bao nhiêu, mình càng dõng mãnh tinh tấn bấy nhiêu. Và tôi đã xin gặp Sư Phụ để nói lên nguyện vọng đó. Nhưng người vẫn giữ nguyên ý định, bảo rằng không nên vội, "con cần phải cố gắng tu tập nhiều nữa". Sau khi gặp Sư Phụ và nghe Người  dạy như vậy, tôi rất an lòng. Tôi đã làm hết những gì cần phải làm, thành tựu hay không lại là chuyện khác. Cuộc đời là một chuỗi dài nhân duyên, làm sao mình có thể quyết định hết mọi việc được. Ðiều áy náy duy nhất là Hạnh Giới có tên trong danh sách thọ giới kỳ nầy. Tôi và H. Giới đều thọ Sa Di cùng một lúc. Nay đột nhiên H. Giới "qua mặt" tôi, khiến tôi không buồn sao được. Thiên hạ sẽ nghĩ sao về tôi? Nhưng quyết định của Sư Phụ rất rõ ràng: vì H. Giới là đồng chơn xuất gia, lại sắp lấy bằng tiến sĩ Phật Học, sẽ ra làm việc, tiếp xúc nhiều với người Tây phương, nên cần phải có giới thể để dễ làm việc.       

            Thời gian lẳng lặng trôi, ba tháng qua rất nhanh. Tôi vẫn an vui với cuộc sống thiền môn, lo học và tu. Không tranh. Không cầu. Sắp tới ngày đi Ấn Ðộ. Phái đoàn thầy Hạnh Sa, rồi của thầy Hạnh Tấn lên đường. Còn lại phái đoàn của Sư Phụ gồm thầy Ðồng Văn, thầy Hạnh Bảo, Hạnh Giới, tôi, Hạnh Tuệ và vài vị Phật tử đi cuối cùng. Bất ngờ, trước hôm đi 2 ngày, Sư Phụ tuyên bố quyết định cho tôi được thọ đại giới kỳ nầy luôn! Người nói: Chú cũng được, chỉ còn cái tính "gàn"  (..!). Tôi cảm thấy nhẹ hẳn người. Những phiền muộn bấy lâu như được trút bỏ, những lời dèm pha bóng gió... Thầy Ðồng Văn điện thoại ngay về Việt Nam cho một người bạn của Thầy -cũng cùng Pháp danh Ðồng Văn- nhờ may Y Áo mang qua Thái Lan cho tôi (Thầy sẽ đi Thái Lan để tu học ở đó và chúng tôi gặp nhau tại phi trường Bangkok), được Thầy ấy hứa cúng cho tôi đầy đủ 3 Y và Áo Hậu. Bất ngờ là lúc đó Sư huynh Hạnh Ðịnh -đang về thăm VN- ghé thăm cũng có mặt ở đó! Thế là Sư huynh hứa sẽ mang qua Ấn Ðộ cho tôi, khỏi có bận tâm gì cả!

            Với tất cả niềm hân hoan, tôi khởi hành đi Ấn Ðộ. Sáu tháng trước, khi đăng ký đi -được Sư Phụ cho một nửa giá vé máy bay-, tôi chỉ nghĩ là mình đi kỳ nầy qua mục đích để dự lễ khánh thành trung tâm Viên Giác, và để được lễ bái chư Phật, chiêm ngưỡng các bật Tôn Túc cao Tăng từ khắp nơi vân tập về, để được thăm viếng Nhật Bản, Thái Lan... mà thôi; bây giờ lại thêm một phước báu nữa là được thọ Ðại Giới ngay tại thánh địa Bồ Ðề Ðạo Tràng, nơi Ðức Phật thành đạo, như thế làm sao không vui cho được!

Ðến Ấn Ðộ, chúng tôi được đưa về nghỉ đêm tại một khách sạn sang trọng ở Calcutta. Tại đây, tôi đã được gặp Người, Hòa Thượng Thích Như Huệ! Ngài trông hãy còn trẻ, khoảng trên dưới 70, diện mạo từ tốn, uy nghiêm, có nét tựa như Napoleon mặc chiến bào cỡi con tuấn mã tôi thường thấy. Ðúng là một bậc đại trượng phu! Nhưng Ngài bảo Ngài có nhiều bịnh lắm... Tôi thấy Ngài đi rất yếu và cử động khó khăn (tôi chợt nghĩ đến cách dinh dưỡng thường tình trong thiền môn với gạo trắng, đường, bột ngọt...). Sư Phụ giới thiệu cho chúng tôi biết, Ngài là hiệu trưởng trường trung học Bồ Ðề Hội An năm xưa; rất đa tài, kể cả việc tán tụng ... Sư Phụ luôn luôn tôn  quý Ngài như một bậc Thầy. Trên chuyến xe buýt về Bồ Ðề Ðạo Tràng ngày hôm sau, chúng tôi được Ngài  ban cho những lời Pháp nhũ quý báu về pháp môn niệm Phật. Ngài đã "tái xuất giang hồ" hai lần (lời của Ngài), ngâm một bài thơ của Thanh Tịnh (Quê Mẹ) và kể một chuyện vui trong Thiền Môn. Một bất ngờ khác, Ngài cũng là người cùng quê hương xứ sở với tôi!  Tôi đã hát tặng Ngài bản nhạc Quê Nghèo của Phạm Duy: Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói, có những cánh đồng cát dài, có lũy tre còm tả tơi; ruộng khô có những ông già rách vai cuốc đất bên đàn trẻ gầy, có người bừa thay trâu cày...

            Tới Bồ Ðề Ðạo Tràng, chúng tôi được đưa về ngụ tại trung tâm Viên Giác, chỉ cách Ðại Tháp vài phút đi bộ. Suốt thời gian tại đây, trước và sau khi thọ giới, tôi thường dậy sớm từ 3 giờ rưỡi sáng, ra Ðại Tháp lễ lạy sám hối. Trong khi chờ mở cửa (4 giờ), tôi ngồi dưới gốc cây trước cổng Tháp niệm Phật. Tôi cảm thấy sự linh thiêng đang bao phủ bàng bạc quanh đây, không ranh giới... Tôi đã đi tam bộ nhất bái nhiều vòng quanh Tháp; đảnh lễ chư Phật ở ba thời, quá khứ, hiện tại, vị lai; chư vị Bồ Tát; các bậc hiền thánh Tăng; các bộ Tôn Kinh tôi nhớ tên..., bằng tư thế lạy "ngũ thể đầu địa", nằm dài sát đất như những tăng sĩ Tây Tạng và các thanh niên nam nữ người Âu Mỹ đang lạy chung quanh đây.

Buổi chiều sau lễ khánh thành Trung tâm Viên Giác là giờ sát hạch các giới tử. Hòa thượng Chơn Ðiền (H.T. Giám Luật) -với sự chứng minh của Hoà thượng Như Huệ và chư Thượng toạ Tánh Thiệt, Quảng Ba- đã hỏi những câu thật khó và chỉ dạy thêm cho chúng tôi những điều hữu ích trong việc tu tập. Người hỏi tôi những câu về Giới Luật, về giới Bồ Tát, luật Sa Di, tại sao phải giữ giới... Có lúc, tôi nghĩ rằng mình sẽ không qua lọt được kỳ nầy. Nhưng cuối cùng, các vị cũng xác nhận cho tất cả giới tử chúng tôi được đăng đàn thọ giới.

Giới đàn Minh Hải -Minh Hải là tên vị tổ sư sáng lập thiền phái Chúc Thánh, Hội An Quảng Nam cách đây hơn 3 thế kỷ- được tổ chức thật trang nghiêm sau lễ khánh thành trung tâm Viên Giác một ngày, gồm có các giới thọ Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa Ma Na, Tỳ Kheo Ni, Tỳ Kheo, và Bồ Tát giới. Hoà thượng Thích Như Huệ làm Hoà Thượng đàn đầu, đại lão Hòa thượng Thích Chơn Ðiền làm chứng minh kiêm tuyên luật sư. Quý Thượng tọa Thích Tánh Thiệt, Thích Quảng Ba làm yết ma, giáo thọ a xà lê; quý Thượng tọa Chơn Lạc, Viên Diệu và quý Ðại đức Tâm Tường, Thị Quả, Chơn Tâm, Trường Phước và Ðồng Văn làm tôn chứng sư; quý Ðại đức Hạnh Bảo, Như Tú, Như Tịnh làm dẫn thỉnh sư. Có 5 giới tử thọ Tỳ Kheo: Ðức 2, Việt Nam 1, và Úc châu 2 vị.

Sau khi Hoà Thượng yết ma bạch 3 lần với 3 tiếng gõ chát chúa và tiếng hô "thành tựu" của chư vị Tôn Chứng Sư, Hoà Thượng đàn đầu bắt đầu truyền trao giới tướng cho các giới tử. Ngài đọc chậm rãi, rõ ràng, trang nghiêm. Tôi chắp tay quỳ ngay ngắn chăm chú nghe, mở rộng lòng ra tiếp nhận. Tôi thấy rõ cuộc đời mình đang rẽ qua một khúc quanh quan trọng. Tôi đã chính thức là trưởng tử của Như Lai. Con đường trước mặt rộng thênh thang mời gọi tôi tiến bước, tôi chỉ việc ngẩng cao đầu đi tới (Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, trấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu...). Những nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi, thử nghiệm... trong thời gian qua đã tạm đủ cho tôi lựa chọn những pháp môn tu, giờ đây chỉ việc đem ra thực hành, không còn phải đắn đo suy nghĩ nghi ngờ gì nữa. Tôi biết được con đường phải đi, mục đích hướng đến, mặc dầu vẫn còn chưa được rõ nét cho lắm, chỉ lờ mờ ẩn hiện. Công việc của tôi là mỗi ngày ra sức đào bới, tô vẽ cho nó đậm nét thêm ra. Việc căn bản trước tiên là phải giữ giới. Giới là nền tảng của tất cả thiện pháp; là ngọn đèn soi sáng đêm tối tăm; là tư lương phải mang theo trên đoạn đường Giới-Ðịnh-Huệ đi đến giải thoát (nhân giới sanh định, nhân định phát huệ, thứ cơ thành tựu thánh đạo, bất phụ xuất gia chi chí hỉ). Người trì giới thời như người nghèo được của báu, người bịnh được lành, người tù được thả, kẻ đi xa được về nhà (kinh Phạm Võng). Nhưng giữ giới là một việc làm gò bó, khó khăn. Bản chất con người là yếu đuối, dễ sa ngã. Làm sao mắt thấy sắc không đắm, tai nghe thanh không say? Và ái tình là căn bổn của sinh tử, làm sao một sớm một chiều có thể đoạn diệt? (sanh tử căn bổn, dục vi đệ nhất). Vì vậy nên tự ta khó có thể hoàn thành việc giữ giới một cách trọn vẹn được, nếu không đầy đủ nhân duyên, phước báu. Phải cần có tha lực giúp đỡ. Bởi thế nên tôi thường quỳ trước mặt chư Phật, chư Bồ Tát xin phò hộ cho tôi được giữ giới thanh tịnh. Do vì đi tu trễ, cuộc đời  đã từng trải, những đam mê tuổi trẻ đã đi qua, hấp lực bên ngoài đã lắng dịu, nên việc trì giới với tôi không đến nỗi quá gian nan, chỉ cần mình quyết tâm. Sư Phụ vẫn thường hỏi đùa: theo chú, khi nào thì con người mới hết ái tình? Tôi trả lời: bạch Sư Phụ, khi mình muốn, nếu mình muốn hết thì nó hết! Người bảo: cũng có thể. Và cảnh cáo tiếp: chỉ khi nào nắp quan tài đậy lại mới chấm dứt, cho nên các chú phải cẩn thận!... Có những cặp tình nhân đã 70, 80 tuổi, đi không nổi thế mà vẫn còn dắt nhau ra tòa làm đám cưới !

            Phải dành hết thì giờ cho việc tu tập, phát tâm dõng mãnh, hạ thủ công phu. Ðạo Phật là đạo xuất thế, thoát ly sanh tử, không để trôi lăn trong lục đạo luân hồi ! Phải tự mình bắt đầu trước. Tự giác rồi mới giác tha. Và giác hạnh viên mãn... Làm sao để thấy được bổn lai diện mục? Thế nào là con số không ban đầu, làm sao để trở về? Ai là người đang niệm Phật?... Suốt cuộc đời chạy theo ngũ dục sẽ được gì? Có gì khác nhau giữa người vừa hưởng dục và người bình thường? Sau mỗi lần hưởng dục người ta sẽ được lợi gì? Có chăng là sự mất mát, chết chóc, đau đớn, ê chề. Như môi kề vào giọt mật trên lưỡi gươm. Như những con thiêu thân lao vào đóm lữa. Biết dừng lại tất cả sẽ bình yên, chạy theo thì đại dương nỗi sóng, và sẽ bị nhận chìm trong lòng biển sâu với bao nhiêu loài thủy quái! Một niệm sinh là tam thiên đại thiên thế giới sinh theo... (một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật). Tất cả không ngoài chỉ và quán. Dừng lại những vọng niệm và quán vô thường, nhân duyên sinh, tính không. Cái gì sau một thân hình đẹp đẽ kia? Chỉ là một đãy thịt thúi! Câu chuyện về nhà Sư Chân Dung do Hoà thượng Thích Huyền Tôn kể, đăng trong Bản tin Viên Giác tập 3 (Ấn Ðộ) đã gây trong tôi một ấn tượng rất mạnh. Ðời tu hành nào cũng đều như thế. Nếu không biết điều phục tâm, chế ngự hoàn cảnh bên ngoài thì rất dễ bị nghiệp trần lôi kéo, đoạ lạc. Những công đức có được do sự hành trì tụng niệm giống như sức mạnh của đá đè lên trên cỏ, chỉ làm cho cỏ không ngoi đầu lên được, nhưng nó vẫn còn tiềm phục, chờ cơ hội thuận tiện là vùng dậy mọc trở lại ! Thế gian vì ái dục mà tán thân bại sản, người tu há lại để mắc phạm ? (thế nhân nhân dục sát thân vong gia, xuất tục vi tăng khởi khả cánh phạm ?)...

Sau nầy mình sẽ đóng góp được gì cho đời, cho đạo? Có rất nhiều việc cần làm. Xin tự biết như vậy. Cần có nhiều con tim và khối óc. Hiện nay, sau khi chiến tranh lạnh ý thức hệ sụp đổ, những giá trị Ðông phương đang được vực dậy. Việt Nam cũng không ra ngoài quỹ đạo đó. Muốn thế, trước tiên phải tự mình chứng tỏ khả năng. Những việc gì?!... Tại sao có sự chia rẽ? Bài học lịch sử 1963 đã học hết chưa? v.v. và v.v... Ôi, biết bao nhiêu việc phải làm. Nầy đây quốc gia dân tộc, nầy đây đạo pháp. Tuy hai mà một, tuy một mà hai.

            Qua ngày hôm sau là giới đàn thọ Bồ Tát Giới và lễ Tấn Hương cúng Phật, đặc biệt  dành cho các tân Tỳ Kheo. Tôi đã phát tâm cúng dường chư Phật, nguyện đi theo đến cuối con đường các Ngài đã chỉ bày.

            Tại phòng tổ Trung tâm Viên Giác Ấn Ðộ, Sư Phụ đã giới thiệu các Sư thúc đồng môn ở chùa Viên Giác Hội An, Việt Nam qua, gồm có các thầy Như Tịnh, Như Tú, Như Vân... Người cũng gọi tôi lên để phát biểu cảm tưởng. Tôi nói vài lời về sự bất ngờ sung sướng của mình khi biết sẽ được thọ giới kỳ nầy và hứa tinh tấn nghiêm hành giới luật, dõng mãnh phát bồ đề tâm, lợi lạc quần sanh, qua đó, phát huy và làm vẻ vang tông môn...

Những linh nghiệm không thể nghĩ bàn của Phật pháp -chỉ những người tín tâm mới nhận biết được- do đâu mà có? Phải chăng là do lời phát nguyện dõng mãnh của các ngài khi còn tu hạnh Bồ Tát (hạnh giác tha)? Muốn đạt được quả vị Giác Ngộ các ngài phải trải qua nhiều vô lượng  kiếp tu đạo Bồ Tát, hy sinh tất cả, của cải, vợ con, thân mạng mình... để làm lợi lạc chúng sanh, cầu pháp Ðại Thừa. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni chẳng hạn, trong nhiều tiền kiếp đã từng là một nhà tu, hy sinh các phần thân thể của mình để tu hạnh nhẫn nhục; là gã tiều phu dâng hiến thân mình cho cọp đói để cứu vớt một chúng sanh đang đau khổ ; là vị quốc vương bỏ ngôi vua đi hầu hạ một vị tiên nhân để cầu pháp Ðại Thừa...; hoặc như lời nguyện của ngài Ðịa Tạng: địa ngục vị không, thệ bất thành Phật; của ngài A Nan: ngũ trược ác thế thệ tiên nhập, như nhất chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ nê hoàn;...và phải chăng những sợi dây liên lạc, tiếp xúc giữa chúng ta với các ngài vẫn luôn luôn còn đó, ta chỉ việc mở rộng lòng ra tiếp nhận, đón lấy. Phước cho ai biết được điều nầy. Và đáng thương cho kẻ lầm đường lạc hướng, đã hại mình lại còn làm khổ cho gia đình, quốc gia, dân tộc... Ðạo Phật là đạo của khoa học, đi trước khoa học. Hãy tin và hiểu như vậy. Vì chân lý luôn luôn đúng, ở bất cứ thời gian và không gian nào...

Những bất ngờ may mắn trong lần thọ Ðại Giới nầy làm tôi tin tưởng sâu xa vào Phật pháp nhiệm màu và vững tâm tu hành. Con xin tri ân Sư Phụ, Người có lòng từ bi bao la, đã dìu dắt con từng bước đi vào Ðạo; Người có tâm bình đẳng, sáng suốt ; Người dõng mãnh nghiêm trì giới luật, không bỏ qua một thời công phu khuya nào, đã là tấm gương sáng mãi mãi cho chúng con noi theo. Con xin tri ân tất cả chư vị Thiện Tri Thức, hữu danh cũng như ẩn danh, đã hộ trì, khuyến tấn, giúp đỡ con thành tựu bước đầu đầy gian nan trên con đường trở về với tự ngã nầy.

Sau đây là một vài điều lạ lùng khác:

Tối hôm trước ngày thọ giới, khi trang trí trong chánh điện để chuẩn bị cho giới đàn ngày mai, các Thầy bảo tôi đi tìm cuộn dây kẽm dài để dăng màn. Tôi xuống dưới tìm một chặp không ra. Sư huynh Hạnh Tấn bỗng nhiên quay qua tôi, buột miệng: chú tìm ra sẽ được đắt giới, không ra sẽ không đắt giới! Tôi nhìn Thầy âu lo. Có phải chỉ một câu nói đùa hay một động lực nào khiến Thầy thốt lên như vậy? Thầy vẫn nghiêm nét mặt! Và trong một tích tắc, tôi đã chấp nhận trò chơi may rủi đó, dù biết rằng mình rất ít hy vọng thắng (vì đã tìm một lần rồi). Tôi lẳng lặng đi ra. Nhưng trung tâm Viên Giác rộng lớn và quá mới mẻ đối với tôi, biết ở đâu mà tìm? Tôi loay hoay lục lạo trong phòng chứa đồ, tình cờ cô Tuệ Ðàm Hương đi ngang qua, tôi hỏi cô có thấy cuộn dây ở đâu không (cô ở đây lâu rồi, may ra biết). Thật ra lúc hỏi như thế, tôi không hy vọng gì vì cô có phải là thợ đâu mà biết, nên vẫn tiếp tục tìm kiếm mấy chỗ khác. Vài phút sau, thất vọng, tôi lên trở lại chánh điện. Bỗng trước mắt tôi, cuộn dây thép nằm sẵn tại đó từ bao giờ! Thì ra cô T.Ð.Hương vừa mới cầm lên cho tôi. Tôi sung sướng quá reo to lên: ta đã thắng, ta đã thắng!

            Một chuyện khác: sau lễ thọ giới 3 hôm, buổi sáng tại Ðại Tháp sau thời công phu khuya, có sự hiện diện của Sư Phụ và tất cả Phật tử hôm đó, tôi đã khấn nguyện, nhắm mắt lại đi trên con đường "định mệnh" Quan Thế Âm. Hy hữu làm sao, tôi đã tới đích, ngay chính giữa, giơ tay lên nắm được bàn chân ngài! Mở mắt ra, tôi mừng quá nhảy tưng lên. Chưa bao giờ tôi sung sướng như vậy! Thật lạ lùng, trước khi thọ giới, tôi đã thử nghiệm nhiều lần nhưng không lần nào thành công cả.

            Liền sau ngày thọ đại giới, tôi bị sổ mũi, sốt và ho liên miên. Sư Phụ nhìn tôi rũ rượi trong cơn ho, lắc đầu ái ngại: chú nầy chắc đang trả nghiệp! Chỉ sau khi rời Ấn Ðộ, qua đến Thái Lan, Nhật Bản, cơn ho mới dịu dần rồi dứt hẳn trước khi tôi về lại Ðức (tôi vẫn không dùng thuốc)!

Khi về đến nhà sau 3 tuần hành hương các thánh tích tại ba nước Á-Châu, Sư đệ Hạnh Lý bưng qua trả chậu bông tôi gởi nhờ tưới nước trước khi đi. Hoa đang mỉm cười hé nụ, vài ngày sau nở ra 4 đóa tiên hồng, rực rỡ hân hoan chào đón người về từ miền giác ngộ./.

                                                Thích-Hạnh-Thức
(1-5-2002)

http://www.buddhismtoday.com/viet/vanhoc/thodaigioi.htm

 


Vào mạng: 1-5-2002

Trở về mục "Văn học"

Đầu trang