- TẠNG THƯ SỐNG-CHẾT
- THE TIBETAN BOOK OF LIVING
AND DYING
Sogyal Rinpoche
PHỤ LỤC MỘT
NHỮNG CÂU HỎI VỀ CÁI CHẾT
Những tiến bộ trong ngành y khoa đã cứu được vô số
sinh mạng và làm giảm thiểu vô số đau khổ.
Nhưng đồng thời chúng cũng đưa ra nhiều ngõ bí về đạo đức tâm linh
cho người hấp hối, gia đình và những bác sĩ điều trị, - những vấn đề phức tạp mà họ rất
khó giải quyết. Chẳng hạn, ta có nên tiếp tục gắn dụng cụ duy trì sự
sống cho thân nhân sắp chết, hay nên bỏ ra? Nên để
cho bác sĩ có quyền chấm dứt sinh mạng một người sắp chết để họ
khỏi đau đớn hay không? Với những người đang kéo dài cơn đau đớn của
sự chết, có nên khuyên họ, ngay cả giúp họ, chấm dứt cuộc đời
không? Người ta thường hỏi tôi những câu như vậy, và sau đây tôi sẽ nêu lên vài điều:
Giữ cho sống
Bốn mươi năm trước, phần đông
ngời chết tại nhà, nhưng bây giờ đa số chết ở bệnh viện và
những nhà điều dưỡng. Cái viễn tượng bị giữ cho sống bằng một cái
máy quả là một chuyện hãi hùng. Người ta đang tự hỏi, họ có thể
làm gì để bảo đảm một cái chết đầy đủ
tư cách và nhân phẩm, không để cho đời sống họ kéo dài một cách
không cần thiết. Điều này đã thành một vấn đề rất phức tạp.
Làm sao ta quyết định nên hay không nên bắt đầu tiếp sức sống cho một
người, ví dụ sau một tai nạn trầm trọng? Và làm sao nếu người ấy bị
hôn mê không nói được, hoặc bệnh quá nặng đã
mất hết khả năng tinh thần? Một trẻ em bị dị tật bẩm sinh trầm trọng,
hoặc não bộ đã hỏng, thì sao?
Không có giải đáp dễ dàng cho những
vấn đề ấy, nhưng có
vài nguyên tắc căn bản
có thể hướng dẫn chúng ta. Theo giáo lý Phật, mọi đời sống là
thiêng liêng, mọi chúng sanh đều có Phật tính, và sự sống cống hiến
cho họ cơ hội giác ngộ. Tránh sát sinh là một trong những nguyên tắc đầu
tiên của đạo đức con người. Nhưng Phật cũng mạnh
mẽ bác bỏ tính cách độc đoán, giáo điều, và ở đây tôi nghĩ chúng
ta cũng không thể có quan điểm cố định được, không thể có một “lập
trường chính thức” hay lập nên quy luật về những vấn đề như thế.
Chúng ta chỉ có thể hành động với trí tuệ của ta lúc đó, tùy
theo từng tình huống. Và luôn luôn nhớ rằng mọi sự tùy thuộc vào động
cơ và lòng bi mẫn của chúng ta ở đằng sau hành động.
Có nghĩa lý gì để giữ cho người
ta sống giả tạo trong khi họ sẽ chết nếu không có máy móc ấy? Đức
Dalai Lama đã nêu lên một yếu tố cốt tủy, đó là tâm trạng của
người hấp hối. "Theo quan điểm Phật giáo, thì nếu một người hấp
hối có thể có tư tưởng tích cực, phước đức, và có một mục đích,
thì điều quan trọng là nên để cho họ sống thêm dù chỉ vài phút"
. Ngài nhấn mạnh yếu tố gia đình trong
tình huống ấy: "Nếu không có dịp cho họ có tư tưởng tích cực,
và hơn nữa, gia đình đang tốn rất nhiều tiền
chỉ để giữ cho họ sống thêm thì dường như là không đáng Nhưng mỗi trường hợp cần phải xét theo cá nhân,
không thể quy nạp được".
Những phương pháp phục hồi sự sống có thể gây bực bội,
phiền nhiễu và tán loạn vào giờ phút cao điểm
của cái chết. Giáo lý Phật cũng như kinh nghiệm cận tử đều cho thấy
ngay cả những người hôn mê cũng vẫn hoàn toàn biết mọi sự xảy
ra xung quanh họ. Những gì xảy ra trước khi chết, vào lúc chết, và cho đến
cái lúc thần thức rời khỏi xác là những giây phút hết sức quan trọng
đối với bất cứ người nào, mà nhất là với một hành giả tâm linh
đang cố tu tập an trú trong tự tánh tâm.
Nói chung, cách cứu chữa chỉ đ
ể
mà kéo dài tiến trình chết, có nguy cơ là nó chỉ nhen nhúm thêm sự bám
víu không cần thiết, giận dữ và bất mãn nơi người hấp hối, nhất là
khi đấy không phải là ý muốn của họ. Những thân quyến gặp phải khó
khăn trong lúc quyết định, và cảm thấy
tràn ngập trách nhiệm về cái chết của người thân, cần nên nhớ rằng
nếu không có hy vọng gì qua khỏi, thì phẩm chất những giờ phút cuối
cùng của người thân họ còn quan trọng hơn là chỉ giữ cho họ còn sống.
Ngoài ra, vì ta không bao giờ biết được thần thức còn ở trong thân xác
hay không, làm như vậy ta chỉ có bắt buộc thần thức họ bị giam giữ
trong một thể xác vô dụng.
Dilgo Khientse Rinpoche nói:
Dùng máy móc để giữ sự sống khi một người không hy vọng bình phục,
là chuyện vô nghĩa. Tốt hơn nhiều nếu để họ chết tự nhiên trong bầu
không khí thanh tịnh, và làm những việc thiện nhân danh họ. Khi những
máy móc duy trì sự sống còn đó, mà không còn hy vọng, thì rút máy ra
không là một tội lỗi, vì không có cách nào người ấy sống được, bạn chỉ đang cố níu kéo sự sống của họ một
cách giả tạo mà thôi.
Những nỗ lực để duy trì sự sống
đôi khi có thể là
vô ích và quấy rầy người hấp hối một cách
không cần thiết. Một bác sĩ đã viết:
Toàn bệnh viện lăn xả vào một hoạt động cuồng nhiệt. Hàng tá người
đổ xô tới giường bệnh trong một nỗ lực cuối cùng để phục hồi con bệnh. Người bệnh sắp chết được
bơm đầy cả các thứ thuốc, bị đâm hàng tá mũi kim, bị co giật
vì những dòng điện kích thích. Những giây phút
chết của chúng ta bị ghi hồ sơ kỹ lưỡng về nhịp tim, lượng dưỡng
khí trong máu, điện não đồ.v.v…… Rồi,
khi bác sĩ cuối cùng đã đo đạc thỏa thích, cơn cuồng nhiệt về kỹ
thuật này mới chịu chấm dứt.
Bạn có thể không muốn có những
máy móc cứu chữa ấy, không muốn được cứu sống lại, và muốn để
cho bạn yê
n một lúc sau cái chết lâm sàng. Nhưng làm sao bạn có thể bảo đảm ý muốn của bạn được tôn
trọng - muốn chết trong môi trường thanh bình như các bậc thầy đã
khuyên?
Ngay cả khi bạn nói rõ ý muốn của bạn, hay không muốn một
loại chữa trị nào đó trong bệnh viện, thì yêu cầu của bạn cũng có
thể không được tôn trọng, Nếu người thân ruột
của bạn không đồng ý với ước muốn của bạn, họ có thể yêu
cầu chữa trị một cách trái ý bạn, ngay cả khi bạn còn có ý thức,
còn nói được. Một điều không may là các bác sĩ
lại thường thể theo ý muốn của gia đình hơn là của người sắp
chết. Do dó, dĩ nhiên muốn có được sự kiểm soát
trong việc săn sóc về y dược, thì bạn nên chết tại nhà.
Ở vài nơi trên thế giới, có những văn kiện gọi là Di
chúc sống, trong đó bạn có thể nói rõ ước muốn của bạn về sự chữa
trị để phòng trường hợp bạn không còn có thể làm quyết định cho tương lai bạn. Đây là những đề phòng
khôn ngoan, giúp cho bác sĩ nếu họ gặp phải trường hợp khó xử. Tuy
nhiên, những giấy tờ này không ràng buộc về mặt pháp lý, và không thể
biết trước tính chất phức tạp của cơn bệnh nơi bạn. Ở Hoa Kỳ, bạn
có thể nhờ Luật sư làm một tờ gọi là "Quyền ủy nhiệm Săn sóc
y tế dài hạn". Đấy là cách hữu hiệu nhất để nói rõ ý bạn muốn,
và bảo đảm nó được tôn trọng. Trong tờ ấy,
bạn nêu tên một người đại diện hợp pháp
cho bạn, hiểu được thái độ và ước muốn của bạn, người có
thể làm những quyết định quan trọng thay cho bạn
khi bạn gặp trường hợp đặc biệt của bệnh tật.
Để cho chết
Năm 1986, hội Y khoa Hoa
Kỳ có điều luật cho phép bác sĩ cởi bỏ các phương pháp cứu sống, kể
cả dưỡng chất và
nước uống, từ những bệnh nhân bị bạo bệnh
gần chết, và từ những người có thể kéo dài cơn hôn mê. Bốn năm sau,
một trưng cầu ý kiến của viện Gallup chứng tỏ có 84% người Mỹ muốn
ngưng chữa trị nếu họ chỉ còn sống nhờ máy móc duy trì, và không có
hy vọng nào bình phục.
Quyết định giới hạn hay ngưng hẳn
dưỡng chất và chữa trị thường được gọi là “phép an tử thụ động”.
Sự chết được để cho xảy ra tự nhiê
n, bằng cách không dùng thuốc
hay những biện pháp y học chỉ để kéo dài mạng sống một người thêm
vài giờ, hay vài ngày nữa, khi tình trạng họ đã vô phương hồi phục.
Hình thức an tử thụ động này cũng xảy ra khi gia đình
và bác sĩ quyết định không chữa một chứng bệnh phụ thuộc mà sẽ kết
thúc bằng cái chết. Chẳng hạn, một người đang
ở giai đoạn cuối của ung thư xương có thể phát ra bệnh phổi có
nước, mà nếu đừng chữa thì có thể đưa tới một cái chết an ổn hơn,
không kéo dài và ít đau đớn hơn.
Còn những người bệnh nặng gần chết, tự quyết định bỏ ăn uống thuốc men thì sao? Tự chấm dứt đời
mình như vậy, họ có phạm tội sát sinh không?
Kalu Rinpoche đã trả lời vấn đề này rất rõ ràng:
Con người nào thấy rằng mình đã đau đớn quá
đủ, muốn được chết, là đang ở trong một tình huống mà ta
không thể gọi là có phước hay có tội. Đương nhiên ta không thể trách
cứ họ vì đã làm môït quyết định như thế. Đó
không phải là một nghiệp ác. Đó chỉ là lòng mong muốn tránh đau
khổ, một ước muốn tự nhiên căn bản của tất cả mọi sinh loài. Nhưng
mặt khác, đó cũng không là một hành vi có công đức gì, hay phước thiện
gì… Thay vì nói họ muốn chấm dứt mạng sống,
đúng hơn nên nói họ muốn chấm dứt đau khổ. Bởi thế, đấy là
một hành vi vô thưởng vô phạt về phương diện nghiệp.
Nếu ta đang săn sóc cho một người
bệnh sắp chết, mà
họ yêu cầu ngưng cung cấp dưỡng chất thuốc
men cho họ thì sao? Kalu Rinpoche nói:
Chúng ta không thể cứu được mạng
sống của họ. Ta cũng không thể làm cho họ bớt đau. Nhưng ta đang cố hết
sức mình, được điều động bởi một động lực trong sạch nhất. Bất
cứ gì ta làm, dù cuối cùng không kết quả, cũng không thể bảo là
gây nghiệp xấu hay có hại.
Khi một người chữa bệnh được
con bệnh yêu cầu ngưng hệ thống duy trì sự sống, thì điều ấy đặt người chữa bệnh vào một vị
trí rất khó xử, vì bản năng bảo họ: “Nếu cứ
để họ tiếp tục thuốc men ăn uống, họ sẽ sống. Nếu không, họ sẽ
chết”. Hậu quả nghiệp này thuộc vào ý
định của người chữa, vì chính người này đang lấy mất phương tiện của bệnh nhân để sống, dù
việc ấy do bệnh nhân yêu cầu. Nếu động cơ chính yếu là muốn giúp đỡ cho người bệnh hết đau đớn, thì trong tâm
trạng ấy có lẽ không gây nghiệp xấu nào.
Chọn giải pháp chết
Cuộc trưng cầu ý kiến nói trên vào năm 1990 chứng tỏ có 66% người ở Mỹ tin rằng một người
quá đau đớn không hy vọng khỏi bệnh, thì có quyền tự sát. Trong
một xứ sở như Hòa Lan, mỗi năm có 10.000 người
chọn phương pháp an tử để chấm dứt đời mình. Nhưng bác sĩ nào
giúp cho bệnh nhân chết phải chứng minh được rằng con bệnh bằng lòng,
rằng con bệnh đã thảo luận kỹ vấn đề với bác sĩ, và bác sĩ cũng
đã bàn bạc vấn đề với một đồng nghiệp để
thêm ý kiến. Ở Mỹ, vấn đề đã đi tới chỗ có một quyển sách bán rất
chạy mô tả rõ ràng những phương pháp tự sát cho những người gặp chứng
bệnh hiểm nghèo, và có những phong trào khởi sự hợp pháp hóa việc
"an tử có tác động", hay "giúp cho chết".
Nhưng cái gì sẽ xảy ra nếu pháp an tử trở thành hợp
pháp? Nhiều người sợ rằng những con bệnh được
xem là đến thời kỳ chót, nhất là những người rất đau đớn, có thể
chọn cái chết mặc dù cơn đau của họ còn có thể chữa trị, và
đời sống còn có thể kéo dài. Nhiều người khác sợ rằng những người
già cả có thể cho rằng bổn phận mình là phải
chết, hoặc chọn cách tự sát chỉ để cứu mạng sống và tiền bạc
của gia quyến họ.
Nhiều người làm việc với người sắp chết cảm thấy rằng
tiêu chuẩn cao hơn trong việc chăm sóc bệnh sắp chết là giải đáp cho những
yêu cầu an tử. Khi được hỏi về chuyện hợp pháp cho việc làm pháp an
tử, Elizabeth Kubler-Ross trả lời: "Tôi nhận thấy thực buồn khi chúng
ta phải làm ra luật lệ về những vấn đề như thế. Tôi nghĩ chúng ta
nên xử dụng sự phán đoán của con người và khởi sự nghĩ đến nỗi sợ
chết của chính chúng ta. Khi ấy ta có thể tôn trọng nhu cầu của người
bệnh, lắng nghe họ, và sẽ không đi đến một vấn
đề như vấn đề này".
Người ta sợ rằng chết sẽ không chị nổi, sợ thình
lình bị bại liệt nằm một chỗ, hoặc bị điên loạn, và những đau đớn khốc liệt, vô nghĩa. Giáo lý Phật cho ta một
thái độ khác để nhìn nỗi đau khổ, đem lại cho nó một mục đích. Đức
Dalai Lama nói:
Nỗi đau khổ của bạn là do nghiệp của chính bạn, và bạn phải
gặt hái hậu quả của nghiệp ấy trong đời này hay đời khác, trừ phi bạn
tìm cách tịnh hóa nghiệp chướng. Muốn tịnh hóa thì tốt hơn nên kinh
quá nghiệp ấy trong đời người này, ở đấy bạn
có nhiều khả năng để chịu đựng đau khổ hơn, nếu làm một con
thú chẳng hạn.
Theo giáo lý Phật, ta nên làm bất cứ gì có thể để giúp người sắp chết đối phó với sự xuống tinh
thần, nỗi đau đớn sợ hãi của họ, đem lại cho họ sự nâng đỡ đầy
tình thương, làm cho đời họ kết thúc có ý nghĩa. Bà Cicely
Saunders, người sáng lập Tiếp dẫn đường ở Luân
Đôn, nói: “Nếu một bệnh nhân của chúng ta đòi được làm pháp an tử,
điều đó có nghĩa rằng chúng ta không làm bổn phận mình". Bà
cực lực phản đối sự hợp pháp hóa giúp cho người bệnh chết theo yêu
cầu họ. Bà nói:
Xã hội chúng ta không đến nỗi quá nghèo đến
độ không đủ thì giờ và tiền bạc để
giúp cho người ta sống cho đến khi họ chết. Chúng ta có bổn phận phải
giúp họ diệt cơn đau đớn đã khiến họ sợ hãi và chua chát. Muốn
làm vậy, ta không cần phải giết họ… Hợp pháp hóa việc an tử sẽ là
một hành vi thiếu trách nhiệm, ngăn cản sự giúp
đỡ, gây áp lực cho người đã bị tổn thương, từ bỏ sự kính
trọng và trách nhiệm của ta đối với người già
yếu, tàn tật và sắp chết.
Vài câu hỏi khác:
Cái gì xảy đến cho tâm thức một hài nhi bị sẩy thai hoặc chết non?
Cha mẹ có thể làm gì để giúp hài nhi ấy?
Dilgo Khientse Rinpohe giải thích:
Thần thức của những người chết trước khi sinh, trong khi sinh, hoặc lúc
còn bé, sẽ du hành một lần nữa qua các trạng thái Trung Ấm, và lấy một
hiện hữu khác. Cũng có thể làm cho những vong linh này những hành vi công
đức và pháp tu dành cho người chết: pháp tịnh hóa nghiệp chướng, đọc
thần chú Kim cương tát đỏa, cúng đèn.v.v….
Trong trường hợp sẩy thai, ngoài những pháp tu thông thường
này, nếu cha mẹ cảm thấy ân hận, họ có thể nhận lỗi, xin tha thứ,
và chí thành làm pháp tịnh hóa Kim cương tát đỏa.
Họ cũng có thể cúng đèn, phóng sinh, bố thí, bảo trợ một số chương
trình tu tập nhân đạo để hồi hướng cho sự an
lạc và giác ngộ trong tương lai của tâm thức hài nhi ấy.
Cái gì xảy đến cho tâm thức một người tự sát?
Dilgo Rinpoche nói:
Khi một người tự sát, thần thức không có chọn lựa nào khác ngoài
ra đi theo nghiệp xấu của mình, và rất có thể xảy ra rằng một ác ma sẽ
bắt lấy và chiếm hữu sinh lực người ấy. Với cái chết tự sát thì một
bậc thầy có năng lực phải làm nhiều phép đặc
biệt, như năm cuộc lễ và những nghi thức khác để giải thoát thần thức
người chết.
Ta có nên hiến tặng những bộ phận trong người ta khi ta chết không?
Cái gì sẽ xảy ra nếu những bộ phận này phải cắt bỏ trong lúc máu vẫn
còn lưu thông hay trước khi tiến trình chết hoàn tất? Việc này có trở
ngại hay làm hại tâm thức vào thời gian trước khi chết không?
Những bậc thầy mà tôi thỉnh ý việc này đều đồng ý rằng sự hiến tặng ấy là một
hành động rất tích cực, vì nó phát sinh từ một mong muốn lợi lạc cho
người khác với lòng bi mẫn chân thực. Bởi thế, nếu thực sự đấy là
ước nguyện của người sắp chết, thì nó tuyệt nhiên sẽ không hại gì
cho thần thức họ khi rời khỏi thân xác. Trái lại, hành vi bố thí tối
hậu này tích lũy nghiệp tốt. Một bậc thầy khác nói rằng bất cứ sự
đau đớn nào mà một người trải qua trong
tiến trình hiến tặng thân phần, và mỗi một giây phút tán loạn vì đau đớn, đều trở thành một nghiệp tốt, có công đức.
Dilgo Rinpoche giải thích: "Nếu người ấy chắc chắn vài
phút nữa sẽ chết, mà đã bày tỏ nguyện vọng bố thí thân phần của
mình, lòng đầy bi mẫn, thì có thể lấy những thân phần ấy ngay cả trước khi tim ngưng đập”
Còn về những trường hợp đông lạnh (cryonics) thì sao? Khi thân xác một
người, hay chỉ cái đầu được giữ cho đông cứng
để chờ đến lúc y khoa tiến bộ sẽ sống lại?
Dilgo Rinpo che bảo chuyện này hoàn toàn vô nghĩa. Thần thức người ấy không thể trở lại cái thân
xác sau khi người ấy đã thực sự chết. Sự tin tưởng rằng cái thây của
người ta đang được giữ để làm sống lại trong tương lai, rõ
ràng có thể gài bẫy cho tâm thức người ta càng thêm bám víu thân xác một
cách bi thảm, tăng cường vô tận nỗi đau khổ của
họ, và bít lấp tiến trình tái sinh. Một bậc thầy so sánh pháp đông
lạnh này với sự đi thẳng đến địa ngục hàn
băng mà không cần trải qua giai đoạn Trung Ấm.