Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
NGHỆ THUẬT ZEN

  

Zengai là danh từ chung để chì những công trình hội họa và thư pháp của các trường phái Zen của Nhật từ năm 1600 cho đến ngày nay và càng ngày lại khai triển rộng thêm ra.  Zengai không phải là những tác phẩm được sáng tác “vì tình yêu nghệ thuật” một cách thuần lý và cảm xúc bình thường của người nghệ sĩ hay theo “đơn đặt hàng” của những nhà quý tộc Nhật thích chuyện thời thượng.  Trong thực chất, Zengai cũng một trong những phương thức tu tập, giáo huấn, hành trì, vì trong Zen, bất cứ hành động nào cũng hướng về tu tập.  Trong hội họa chẳng hạn, những chủ đề được nêu lên là các thiền sư và những mẫu mực lớn trong quá khứ; phổ biến hơn cả là tái tạo những  thi phẩm của trường phái Zen.

Trong thư pháp cũng thế. Khác biệt với hầu hết các hình thái khác trong nghệ thuật tôn giáo, ở đây, nét bút thể hiện sự táo bạo đầy ấn tượng và sự mãnh liệt biểu kiến, tạo cảm ứng bất ngờ và trực tiếp. Cảm ứng mang tính “dĩ tâm truyền tâm”. Một nghệ sĩ Zengai khi chuyển từ ý niệm của mình lên trên giấy vẽ thường diễn ra một cách tự nhiên, thanh thản, thoáng đạt, không chút gò bó. Tuy nhiên, trong đó, chứa bao nhiêu nội dung hành súc.

Thực chất của kinh nghiệm Zen  được tinh cất trong những động tác của nét bút; sức mạnh của nhập định, chỉ hiển hiện trong vài ba nét. Tánh chất “Phản Lo-gich” tiềm ẩn trong  những điều khó khăn nghệ thuật của Zen (Koan chẳng hạn) sẽ trở thành hữu hình, thấy được trong chuyển động như vũ điệu của thư pháp bằng những nét đại tự.

Trước tiên phải thấu hiểu nội dung trong nghệ thuật Zen. Trường phái Zen khác với phần lớn các hệ phái Phật Giáo truyền thống. Ở thời kỳ Phật Giáo được truyền bá khắp Á Ðông, tôn giáo nầy vốn  được xây dựng trên nền tảng những nghi lễ cúng bái, sùng mộ đức Phật, Bồ Tát, có thể giúp những Phật tử thuần thành đi đến đốn ngộ hay tái sinh, theo cách hiểu của Mật Tông. Nhưng Zen thì khác. Zen không phải chỉ là sự áp dụng đơn thuần các nguyên lý của Phật Giáo nguyên thủy. Giáo huấn  của trường phái Zen cho rằng: Những ham muốn và những tư duy duy lý chỉ là hảo huyền và làm lu mờ Phật tính sẵn có trong mỗi người. Mội các nhân có nhiệm vụ làm tĩnh thức bản chất đích thị của mình.

Một tu sĩ trường phái Zen phải chấp nhận một sự rèn luyện lâu dài, ngày đêm và nghiêm khắc, bao gồm nhiều năm thiền định trước khi đạt tới sự đốn ngộ. Ðiều nầy có thể được gây ra một cách đột ngột bởi một tiếng chuông, một cú roi, một tiếng thét.

Nghệ thuật Zen cũng là một phần quan trọng trong sự thực hành giáo lý Zen. Ðã từ hơn một ngàn năm nay, các thiền sư Trung Hoa, Nhật Bản đã sử dụng hội họa, thư pháp như là một phương tiện để tự rèn luyện: một vòng tròn (enzo) được vẽ vu vơ, mang tính ám thị nhiều hơn là ngôn từ để giải thích về Thiền. Những bức hoa Thiền bằng mực Tàu sẽ hỗ trợ cho việc Thiền định.

Các tu sĩ chi họa hoằn mới có được một dịp để rèn luyện về hội họa, tuy nhiên, những năm tháng dài rèn luyện thư pháp đã giúp họ có được tài hoa trong việc sử dụng cây bút và nét mực., diễn đạt một các phóng khoáng.. Hầu hết các đại thiền sư trường phái Zen đều thực hành thư pháp. Vì mỗi chửa Hán  điều được biểu thị bởi một kiểu tượng hình riêng biệt; kho tàng chữ viết nầy bao gồm trên 50,000 chữ khác nhau, mỡi chữ được viết theo 5 kiểu. Sự phong phú bao la của những hình, những tượng, những đường nét, phong cách khác nhau nầy, cộng theo sự phối hợp nhịp nhàng của đường nét, tạo ra vô số tiềm năng nghệ thuật, nếu được rèn luyện hoàn chỉnh.

Ðộng tác cầm thỏi mực tàu, cho nước vào nghiêng, thư thái và kiên trì mài mực, tất cả những động tác nầy cũng đã giúp cho vị thiền sư có đủ thì giờ suy gẫm, trầm tư, trước khi hạ bút. Cây bút lông mềm mại được cầm trên các đầu ngón tay sẽ phản tác đối với từng cử động của ngon tay, cổ tay, khuỷu tay và vai. Tất cả cần lập luyện lâu dài. Thật khó thực hiện để sửa chữa, vì nét chữ lộ ngay trên giấy trắng. Chính nét vẽ được coi là biểu hiện trực tiếp của cá tính. Khả năng viết, khả năng vẽ, với sự trong sáng và mãnh liệt của tinh thần, trở thành công năng sáng tác của thiền sư.

Ðược du nhập vào đất Nhật từ thế kỷ thứ XIII, ngay từ đầu Zen được nhiệt liệt đón nhận. Trong thời điểm nầy, với sự nhạy cảm của giới trí thức và quý tộc đã tìm thấy trong nghệ thuật Zen những gì khoáng đạt, khác với kỷ luật nghiêm khắc của nghệ thuật giới Samourai. Nhưng đó là phản ứng ban đầu.

Hai trường phái Zen được du nhập: trường phái Soto (Tào Ðộng) và trường phái Rinzai (Lâm Tế).  Giai đoạn đầu, trường phái Tào Ðộng có  tầm quan trọng hơn ở đây, với nhiều chùa chiền được xây dựng nhiều nơi. Những tu sĩ Tào Ðộng chú trọng đến lợi ích của tọa Thiền,  không gì khác hơn ngoài việc đó, cũng không phải chỉ nhằm mục đích đạt đến đốn ngộ.

Trường phái Lâm Tế ban đầu tập trung tại các thiền đường đô thị, chú trọng đến nhập định, nhằm chuẩn bị cho đốn ngộ bất ngờ. Trải qua nhiều thế kỷ, chính trường phái Lâm Tế đã cống hiến nhiều nhất cho  các tu sĩ nghệ sĩ. Cũng khi đó Thiền Tào Ðộng cũng phát triển với nhiều thiền sư lỗi lạc.

Một trường phái thứ  3: Thiền Hoàng Bá (Obaku). Trường phái nầy du nhập Nhật vào những năm  cuối thế kỷ XII. Trường phái nầy được truyền bá nhanh chóng, một phần là nhờ ở những giáo lý hỗn hợp tu nhận từ những giáo phái khác; mặt khác mnag đến những truyền thống nghệ thuật Trung Hoa đời Minh.

Dưới triều đại Muromachi (1392 – 1568), trường phái Zen đã chuyển qua một bước ngoặt, khác với tình hình tôn giáo Trung Quốc. Một số tăng sĩ dựa vào các Shôgun (Tướng quân), chứng tỏ là nội lực cần có cho một xã hội được xây dựng trên nền tảng các chiến binh lý tưởng, kỷ luật, trung thành, tuân thủ. Qua đó, các nguyên lý Zen ảnh hưởng đến giáo dục và chính trị. Do đó, văn hoá Zen của Nhật chuyển sang hình thức chuyên nghiệp hoá và tiêu chuẩn hoá.

Phật Giáo Nhật cũng phải trải qua nhiều thử nghiệm. Phần trước, có nhắc đến việc hoà hợp tôn giáo (Phật, Thần đạo, Khổng). Nay vào cuối thời đại Muromachi, 3 vị Tướng quân thay nhau cầm quyền, mà các hoạt động của họ  dẫn tới sự tái thống nhất nước Nhật sau một thời hỗn độn, tranh bá đồ vương. Thời đại Momoyama (1568 – 1600) đã không làm gì để phát triển Phật Giáo. Vị tướng quân tiếp đó là Tokugawa Ieyasu (1542-1616) tuy là một Phật tử thuần thành, nhưng với ông, phải dựa trên giáo lý Khổng Giáo trong việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Ieyasu chuyển kinh đô từ Kyoto đến Edo (Tokyo ngày nay). Việc giáo dục con em các võ sĩ được giao phó cho những viên chức theo Khổng Giáo hơn là Phật Giáo. Các học giả Khổng Giáo trở thành chức sắc của chế độ Shogun. Thời đó, đạo Khổng Nhật tỏ ra hữu hiệu trong việc trị quốc, nhưng lại suy thoái trong hành trì tôn giáo.

Chính quyền của chế độ Tướng quân lo sợ những ảnh hưởng ngoại nhập của Cơ Ðốc Giáo, cho nên phải mượn ảnh hưởng của Khổng Giáo và cả Phật Giáo để chế ngự. Phải chăng đây là một lầm lẫn với các nhà tu hành? Những thay đổi mang tính chính trị đã giáng một đòn nặng nề đến Thiền tông. Xa dần những hoạt động mang ý nghĩa chính trị, các thiền sư quay trở về con đường tu tập. Thay vì bắt bược phải vẽ những bức tranh để trang trí tư thất cho các Shogun, họ cố tránh né, lui trở về thiền đường.

Một khi các nghệ sĩ Zen đã cất được gánh nặng phải cung phụng triều đình, trở về con đường chính yếu,  thì một truyền thống mới ra đời: truyền thống Zenga. Và kể từ đó, Zen đích thực chọn con đường lý tưởng. Bài học nầy không chỉ giành cho Nhật.

 Quan điểm nghệ thuật của Zenga

 Thiền tông Nhật cho đến thế kỷ XV đã trải qua nhiều kinh nghiệm. Nghệ thuật Zenga, gián tiếp qua nét bút và mực viết, đã tạo sức mạnh tinh thần của thiền sư, trao truyền trực tiếp cho môn đò.

Giống như phần lớn các hình thái nghệ thuật châu Á, Zenga là một loại hình gợi lại quá khứ. Khi cầm cây cọ lên, các thiền sư lỗi lạc thời Edo đã thể hiện lại những truyền thống Zen từ xưa ở Trung Hoa và Nhật Bản. các hình mẫu về sự ngộ đạt của các vị chân tu trở thành chủ đề ưa thích. Ðiều nầy giải thích những kiểu dáng biểu đạt đức Bồ Ðề Ðạt Ma 9 năm diện bích. Nghệ thuật thời Edo của Phật Giáo mang tính giản dị, mạnh mẽ, bộc trực. Zenga là một phản ứng đối với những thay đổi xã hội diễn ra không ngừng của nước Nhật. Họ cố tránh né những chuyển động nhất thời: sự phát triển của đạo Khổng, những định chế ngày càng khắc nghiệt, đất nước bế quan toả cảng, hiện tượng gia tăng kinh tế thị trường, áp lực các thế lực Tây Phương.

Tách hẳn những biến động nầy, nghệ thuật Zen không những được tồn tại, mà lại còn nở rộ các thiền sư hướng nghệ thuật theo con đường chính của mình, tráng mọi ràng buộc thế nhân. Các thiền sư từ chối tham gia các nhóm, các hội, các hoạt động của chính quyền, chỉ dành những tác phẩm cho môn đồ tham bác, học hỏi.

Theo những thiền sư, hội họa và thư pháp có những tác động mạnh hơn là những bài pháp thoại. Thiền sư Hakun, một bậc thầy của thế kỷ XVIII, đã viết: “Nghệ thuật làm lộ những nét thoáng qua, nhưng lại phổ biến trong tâm hồn con người”. Zengai mang ý nghĩa đó. Các thiền sư thời đại Edo đã ra sức sáng tạo những công trình Zenga để các môn đồ của mình xem đó là những hình thái biểu tượng trong việc tu hành”.

Cũng trong thể thức nầy, cùng với sự phát triển của phương thức diễn đạt Zenga, có những chủ đề hội hoa khác xuất hiện. Một số đề tài về Thiền nhưng lại liên quan đến hình thức sinh hoạt của quần chúng. Các nghệ sĩ thiền sư còn ghi thêm một vài câu thơ ngắn, đồng thời triết lý Zanga lại kết hợp với tinh thần hài hước và tánh tự nhiên. Trong giai đoạn nầy, thư pháp được xem là phương tiện sáng tạo đầy đủ ý nghĩa nhất. Như thế hội họa và thư pháp đã giúp cho tăng nhân thấm nhuần tư tưởng nội tại của Zen, suy gẫm chủ đích của đề tài, ra sức suy gẫm như thực hành một Công án (Koan).

Hầu như  ai đến Nhật Bản  không thể không ngạc  nhiên vì một quốc  gia có nền công nghiệp nhất  nhì trên thế giới, thường xuyên quốc tế hoá  để mở rộng  mọi giao  lưu  với bên ngoài,  tuy nhiên, bên trong vẫn giữ được nền văn hoá  lâu đời, đặc sắc, khó tìm thấy ở nước châu Á khác. Chẳng hạn ở Nhật, nhạc Jazz, Rap, Rock and Roll  hay  những dàn  nhạc giao  hưởng cổ  điển Tây  Phương tầm cỡ phát triển khá cao, trong khi đó, nền âm nhạc dân tộc vẫn tồn tại song  song,  không hề  bị lấn  át, đủ  sức thu  hút những  người vốn yêu thích. 

Trong những nghệ nhân hoạt động bảo tồn tuồng cổ Kabuki hay tuồng "Nô", một loại hình ca múa cung đình ở Nhật cũng đã có người được  phong là "hạt ngọc sống của  quốc gia" (Nigen Kokuhô) được xã hội tôn kính  không kém một nhà  bác học. Lãnh vực  ẩm thực cũng vậy; bên cạnh những nhà hàng sang trọng,  cũng có những cửa hàng ăn cổ kính không kém phần sang trọng, trang nhã kiểu Nhật bản với những khe suối róc rách, bình rượu Sake  ấm cúng và thức ăn bày một lối  bày biện thật hài hoà giữa màu sắc và hình dáng, giữa thiên nhiên và kiểu  cách khó tìm thấy. 

Một bình hoa trang  trí theo lối Hoa  Đạo, lối uống trà từ tốn để tịnh tâm của Trà Đạo và những nét chữ Hán bằng  Thư Đạo, đã làm  cho du khách nhẫn  ngơ, thích thú, cảm  thấy buổi ăn là một tận hưởng đầy đủ tính văn hoá và nghệ thuật.  Nền văn hoá  dân tộc làm cho họ  tự hào, hãnh diện, không  hề mặc cảm tự ti, cho thấy giá trị truyền thống dân tộc cao độ.

Khi bước vào một căn nhà của  người Nhật khá giả, bạn sẽ gặp ngay vườn cây kiểng với hồ sơn thủy, hòn non bộ, những cây anh đào hay Bonsai xinh xắn.  Vào nhà, chắc chắn bạn sẽ  được mời cỡi giày để  bước lên chiếu "tatami" đưa vào  phòng khách với những cánh cưa ô vuông nho nhỏ, xinh xinh bằng gỗ dán giấy bồi trắng tinh (washi).  Nhà càng  sang trọng bao  nhiêu thì cách  trang hoàng càng  thanh lịch bấy nhiêu: một  bát sứ cổ để góc, tấm liễn  viết một chữ Hán theo Thư Pháp trên tường, một chiếc bàn đơn sơ nhưng bằng gỗ quý,  hai ba  cái gối để khách  và chủ cùng ngồi  xuống chiếu uống trà, đàm luận thư thả, khác với cảnh tất bật, vội vã bên ngoài.

 Nhật Bản là  một đất nước hải đảo,  có nền văn minh cổ  xưa và họ cũng thường tự nào về truyền thống nầy. Khi mới  du nhập nền văn  minh Trung Hoa, người  Nhật đã mô phỏng  theo hai tông  phái của các bậc thầy: Nam  Tông và Bắc Tông. Tông phái miền Bắc là hiện thực, trung  thành với thế giới hữu hình và  màu sắc;  trong khi đó,  ngược lại tông  phái miền Nam  lại là lý  tưởng, là  ấn tượng, trong văn  học và nghệ thuật  cũng vậy; tông  phái nầy  tìm cách diễn tả  tư tưởng hơn là  hình thức, tính chất  sâu sắc bên trong hơn là ngoại diện phù phiếm bên ngoài. Bắc tông    dùng những màu  sắc rực rỡ để diễn đạt  thiên nhiên; trong khi đó thì Nam Tông thiên về đơn giản  hơn chỉ dùng mực xạ hoà với nước;  tông phái nầy  chỉ tìm vẻ đẹp lý tưởng  về tinh thần. Nhìn chung,   tông phái miền Nam tự nhiên gần gũi với tinh thần chính thống của người Nhật hơn.  

 Nghệ thuật: Người Nhật  thường nói đến các  nghệ sĩ tiêu biểu  đương thời, mà  điển  hình là  ba anh  em dòng  họ Nakao:  Noami, Geami và Soami.  Trong diễn tả, họ thường để cho  ngọn bút lông của mình tự do đưa đẩy theo  những năng lực  huyền bí trong  tâm tưởng của  mình.  Họ khinh miệt hình thức, nhưng đồng  thời cũng không lưu tâm với các màu sắc lẫn lộn khác. Do những  đặc tính của thiên tài, họ đã lập ra một môn phái về hoa. Hoa trở  thành một chất liệu  cần thiết cho nghệ  thuật. Sắc điệu  của hoa thay  đổi vô cùng.

Phật Giáo Nhật Bản  thường cho rằng: chính  đức Phật A Di Đà đã định ra  chuyện đó. Nhưng hình của hoa thì có  hạn, và điều  nầy là một thuận lợi  vì chính sự hữu hạn  của hình  thức đã xác  định được ngôn ngữ của  loài hoa. Và cũng kể  từ đó,  nghệ thuật  Nhật Bản đã  tìm cách để  diễn tả đặc  thù và tự phát triển bằng những phương tiện riêng của mình.    Trong hội họa Nhật, người ta  ngạc nhiên khi thấy nghệ thuật phối cảnh lạ lùng ở những họa phẩm thời xưa của người Nhật. Trong những tác phẩm đó, những đường nét  phía trước thì ngắn; trái lại những đường nét  phía sau thì lại  dài hơn.

Chẳng hạn  như khi thể hiện  một khối  vuông, thì mặt  phía sau sẽ  được vẽ lớn,  còn mặt phía trước vẽ nhỏ  hơn. Tại sao thế. Tại vì  người Nhật luôn luôn quan tâm đến sự sâu sắc, vô hình.  Trong khi người phương Tây chỉ quan tâm đến điều gì trông được, sờ được, người Nhật Bản chú trọng đến  những gì họ không thể với tới được.

Một triết  gia người Nhật, ông  Syakaku trong quyển "Thẩm  Mỹ Học Nhật Bản" đã  cho rằng: Nghệ thuật chính là  sự rung cảm, sự phập phồng nhịp nhàng theo vận tiết của vũ trụ".  Ông viết: "Nếu một triết gia La  Mã thường khởi đầu bằng hình học,  triết gia Hy Lạp thông thạo số học, thì những bậc hiền triết Đông  Phương (trong  đó kể cả  Nhật Bản) thì  lại am tường  đến các quy  luật của "hình số tinh thần". Đó  là môn "hình học không gian bốn chiều" được tính bằng "dịch số",  dựa vào nguyên lý "tân nguyên".  Nguyên lý không  gian bốn chiều nầy là chìa  khoá mở mọi cánh cửa  của khoa học và nghệ thuật. 

 Về phương diện thi ca của Nhật cũng thế! Những bài thơ hay nhất ở phương Tây đều  do các kết cấu chữ, người  ta tìm cách trau chuốt  chữ nghĩa;  người Nhật khi  thưởng thức thi  ca nầy cảm  thấy như thiếu một cái gì,  cố tìm một thứ sinh chất cần  cho sự sống. Đối lại, thi ca Nhật Bản không khi nào được hiểu thấu đáo ở ngoài quê hương người Nhật.

 Việc phiên dịch ra tiếng nước  ngoài đã gây ra tai hại cho một  bài thơ Nhật. Nhưng nếu đã dịch,  mà còn lặp lại  hoàn toàn, thay vì  phô mặt tinh thần, lại chỉ bày  sự có mặt của vật chất, thì tai hại biết bao!  Trong khi thi ca Tây Phương nhằm mục đích cho thấy cõi đời không đến nỗi nhỏ mọn, xấu xa như người ta tưởng, thì thi ca Nhật Bản triệt để mong muốn giải thoát chúng ta ra khỏi  thế gian trần tục.

  Chỉ  vỏn vẹn có mấy chữ  như trong thơ Haiku (17 âm tiết hay 31 âm tiết), một bài thơ Nhật muốn nhắc ta nhớ lại nhịp  rung động của vũ trụ vô hình  mà chúng ta thường quên; thi ca Nhật cũng gợi cho tâm hồn nỗi niềm tưởng nhớ một quê  hương vô hình. Như thế, khi thưởng thức, không thể nào tách riêng những câu hay trong một bài thơ Nhật, vì vẻ đẹp của câu thơ riêng biệt sẽ là vẻ  đẹp vật chất, vẻ đẹp trần tục,  vẻ đẹp tầm thường. 

Cả đến những người từng dịch thơ văn Nhật Bản ra tiếng nước ngoài  cũng không biết  rằng chưa có ai trong họ  thành công bao giờ khi  chuyển ngữ  cả!   Chẳng hạn như  khi họ dịch chữ  "Mizu" là "nước",  chữ "Toku" là "đức hạnh", mà chẳng nói thêm được điều gì. Đối với các nhà  thơ Tây Phương, "nước"  là chất đẹp lóng  lánh muôn màu, gợn sóng... nhưng  đối với người Nhật, nước là  gương mẫu cho mọi đức hạnh của  con người. Nước rất khiêm tốn,  khi nào cũng ở dưới  thấp. Với  người Nhật, nước tiêu  biểu cho sự vâng  lời, an phận,  nước theo hình  dáng của vật chứa nó.

 Nhưng  kỳ thật, nước lại là nguồn sinh lực  cho mọi thứ: cầm thú, cỏ  cây sống nhờ nước. Nước  cũng có khả năng xoi mòn những thứ cứng như sắt đá, lửa nước cũng không sợ. Đại loại là thế! 

Tình yêu:  Chuyện kể như vầy:  Ngày xưa, ở Nhật  có một nhà quý  tộc trẻ tuổi,  thông minh, cực kỳ giàu có.  Chàng ta có rất nhiều  đồ cổ quý giá, do Thiên Hoàng và các nhà vọng tộc ban tặng.  Chính  vì thế, chàng  ta xem những thứ đồ  nầy còn quý hơn sinh  mạng của  mình. Chàng tuyên  bố: "Người nào làm vỡ một  chiếc độc bình sẽ bị  mất đầu!"   Ngày nọ, người ái thiếp của chàng muốn thử tình yêu của  đức lang  quân, bèn đem  một chiếc độc  bình ra đập  vỡ tan tành.  Chàng không hề nói một tiếng. Nhưng  đến khi nàng cho biết nỗi lo  sợ chồng quý trọng chiếc bình hơn yêu thương vợ. Cách hiểu nầy đã  khiến cho chàng ta chán nản vô cùng.  - Tại sao người vợ đầu ấp tay gối  lại quá hèn mọn để có thể nghĩ  rằng chồng  mình tha thiết  đến các đồ  vật xưa về  mặt vật chất?  Đáng thương thay! Nhà quý tộc nầy  lần lượt đem hết bảo vật đập  vỡ từ chiếc nọ đến  chiếc kia cho đến khi không còn lại một bảo vật nào nữa trườc đôi  mắt kinh ngạc của người vợ. Sau đó, rút kiếm chém luôn đầu nàng.  

Câu chuyện trên đây khiến cho nhiều người suy gẫm đến ý nghĩa sâu  sắc hàm chứa bên trong.  Tình yêu của người Nhật là như thế. Tình yêu của họ không phải là  tình yêu vật chất. Qua nhiều thế  kỷ, người Nhật tin chắc rằng sự  khinh thường đó là dấu hiệu của sự cao cả, triết lý, tư duy.  Trong thực tế, rất khó giải thích  tình yêu của người Nhật gồm có  những gì? Chẳng  hạn tình yêu hoa lá của  người Nhật, không giống  tình yêu kiểu Tây Phương. Ở Âu  Châu, không có ai yêu hoa đến say  đắm như người Nhật cả.

Có người cãi "Người ta vẫn yêu thú vật đấy  chứ".  Đúng, người  ta vẫn  bảo vệ  thú vật,  chống mọi  ngược đãi chúng, nhưng,  thật ra, đó chỉ  là một sự tính  toán. Nếu hành hạ  thú vật,  chúng sẽ làm việc  ít đi, nay trở  nên hung hiểm, thú vật đói sẽ kêu la trong các đường phố, làm rầy tai khách bộ hành.   Lòng tốt ấy là  lòng tốt có tính toán. Bất cứ  ai ý thức về quyền  lợi riêng tư cũng đều có "lòng tốt" như vậy cả.  Hãy hiểu về  từ ngữ yêu. Người Nhật là  những chuyên gia về những gì liên quan đến tinh thần. Vì vậy, cũng đừng ngạc nhiên khi thấy  có quá nhiều từ để diễn tả  tình yêu.

   Không một nước nào trên thế  giới có nhiều giống  hoa như ở Nhật. Không phải do kỹ nghệ hay do khí hậu thiên nhiên.  Điều quan trọng là từ những thời xa xưa, người Nhật Bản trong mọi  thành phần đã tập yêu những loải  hoa hèn mọn, những loài hoa xấu  số, những hoa mọc bên đường bị  khách bộ hành giẫm lên, nhưng hoa  mà người lái đò lấy mái chèo đánh  vẹt lên qua một bên vì cản trở lưu thông trên mặt nước. Không  một loài hoa nào, không một giống  lá nào mà  người Nhật không khám phá  ra vẻ đẹp của riêng  nó cả.  Ngay cả những cây cỏ tầm thường  nhất cũng có được một cái tên.   

Tuy nhiên, có tên riêng không vẫn  là chưa đủ; mỗi loài cây, cũng  như người và kể  cả các đấng Thần linh, cón có  một lô "bí danh",  "biệt danh",  tên gọi trong thơ  văn, tên gọi trào  phúng hay tên  đáng tôn kính.  Vả lại, càng tập cách yêu hoa  như người Nhật, người ta càng nhận  thấy rằng đây không chỉ là một nghệ thuật đơn thuần và càng không  phải là nghệ thuật trang trí.

 Muốn chơi hoa, trước hết phải biết  thực vật  học, vật lý học,  hóa học, sử học,  địa lý và cả  y học  nữa. Chỉ khi nào thấu triệt các khoa học nầy, người ta mới có thể  trở thành một bậc thầy về hoa.   

(a) Trước  tiên là thực vật  học. Phải nghiên cứu  cách thức dinh dưỡng của các loài cỏ li ti cũng như của các cây cao lớn; phải am tường cách chăm  bón và biết cách gây những  giống cây mới. Người  chơi hoa  Tây Phương thì  không dạy một  tý gì về  vấn đề nầy cho người chơi hoa. Hơn nghìn năm  nay, những người làm vườn Nhật Bản  đã biến  cải những giống cây  hoang dại đến độ  người ta đã không còn nhận ra chúng nữa.

  (b) Thứ nhì, phải là một nhà  hoá học; đúng hơn, là một nhà luyên  kim. Phải biết nên pha vào đất chất gì có cánh hoa nhỏ lại, đồng  thời làm  cho hoa tăng thêm  vẻ đẹp mỹ miều.  Phải biết dùng cách bón làm cho hoa Adisai dần dà  ngả sang màu xanh. Tại sao có thể dùng cây Chua  Me đất (Katabami) để đánh gương  soi bằng bạc?

 Rất nhiều vấn đề đã được giải quyết từ xa xưa. Phải là một nhà nghiên  cứu am tường  mới giải thích được tại sao  chỉ trong một loại cây như cây hoa Hosenka (Phụng tiên,  Móng tay, Nắc nẻ, Chân đèn) lại  chứa đủ các loại  cần thiết để làm tăng vẻ đẹp  của người phụ nữ:  một thứ sơn móng tay tốt nhất, một thứ kem xoa tay tuyệt hảo, một  thứ thuốc nhuộm tóc thượng phẩm, một thứ son môi màu đỏ thật tươi  thắm chưa từng có!

Phải mang tâm hồn thoáng đạt mới hiểu giá trị đó!

 Các trường phái hội họa

 Cho đến nay, với những thành quả của Nhật, những sắc thái đặc thù văn hoá Nhật, sách báo Tây phương mới thi nhau viết về các ngành nghệ thuật của đất Phù Tang. Cũng như nghệ thuật của người châu Phi đen, mãi đợi đến những công trình  sáng tạo tại đây, thì người thưởng ngoạn mới có được cái nhìn đúng vị trí của nó trong nghệ thuật thế giới. Nghệ thuật Nhật Bản cũng tương tự thế. Gaugin, Van Gogh, Toulouse – Lautrec... lưu tâm đến những nét độc đáp của nền nghệ thuật nầy. Hay những sách của D. T. Suziki đã khiến đông đảo dân Tây Phương hướng về Nhật.

Thực ra, nghệ thuật Nhật có một lịch sử lâu đời. Kể từ thế kỷ VI, những tranh Phật từ Triều Tiên và Trung Hoa mang đến cùng lúc với du nhập Phật Giáo. Sau đó các thiền sư  Nhật dùng nghệ thuật để chuyên tải giáo lý. Trong giai đoạn sơ khai, những họa phẩm bản địa Nhật còn dựa theo mẫu mực Trung Hoa, nhưng họ đã nhanh chóng tạo phong cách riêng cho mình. Thanh thử, càng ngày, hội họa Nhật đã mang nhiều hình thức đa dạng.

Các nhà phê bình nghệ thuật Nhật thường nói đến 2 phong cách: Kara-e và Yamato-e.

Về phong cách Kara-e: Giai đoạn đầu nầy vẫn còn chịu ảnh hưởng hội họa Trung Quốc. Ða phần là những tranh liên quan đến đạo Phật; có những trường phái  riêng, như trường phái Sesshu, trường phái Nanga. Nhưng cả hai dần dà muốn thoát ảnh hưởng Trung Quốc. Những tranh nổi tiếng tại ngôi chùa Horyuji còn được bảo lưu cho đến nay tiêu biểu cho nghệ thuật nầy.

Về phong cách Yamato-e: Ðến giai đoạn nầy thì nghệ thuật hội họa Nhật thoát ly hoàn toàn ảnh hưởng ngoại nhập. Họ tự tạo sắc thái riêng. Cả trong lý luận nghệ thuật cũng  nêu các tiêu chuẩn văn hoá bản địa. Ðó là những “cuộn tranh  e-maki” thể hiện trên những tấm pa-nô, bình phong cửa lòn. những trường phái chính là: trường phái Tosa, trường phái Kano, trường phái Korin. Ðặc sắc nhất là những ấn bản Nishiki-e của trường phái Ukiyo-e. Những nhà danh hoạ thế kỷ VII và  VIII phải kể đến: Utamaro, Hokusai, Sharaku.

Trường phái Yamato-e 

Ðây là một trào lưu nghệ thuật có phong cách thuần túy Nhật sau những đột phá vững chắc. Giai đoạn đầu, vẫn là hội họa cung cấp cho cung đình, quý tộc và trong tế lễ. Những đại danh họa mở đầu cho phong cách nầy phải kể: Kose No Kanaoka và Kose No Omi. Vào triều đại Heian, triều đình cho thiết lập những xưởng vẽ tại cung đình (thế kỷ X).

 Những tranh vẽ thời nầy thực hiện trên những pa-nô lớn, những bình phong cảnh vật trang trí, những vách lùa, những cuộn tranh ngang... Ða phần có những nét thanh thoát, hài hoà, tế nhị, được giới thưởng ngoạn không ngớt ca ngợi. Cũng dựa vào những tranh nầy, nhiều văn sĩ Nhật viết thành truyện. Hay ngược trở lại, tranh vẽ thực hiện theo nội dung những truyện cổ. Một khi đề tài cung đình đã cạn kiệt, họ được phép quay về tranh “thế tục”. đaq0c biệt là loại truyện kể “Monogatari” có nội dung trình bày những nét sinh họat dân gian và những phong tục, tập quán cổ truyền...

Có hai thể tài chủ đạo: thể tài tôn giáo và thể tài truyện cổ. Về thể tài tôn giáo khá đa dạng; tiêu biểu nhất là những tranh Phật tại hùa cổ Byodo-in, mà còn được bảo lưu cho đến ngày nay. Còn thể tài truyện cổ dựa vào “Cổ Sự Ký” và “Nhật Bản Ký” hay “Vạn diệp hoa”. Bức tranh nổi tiếng nhất còn lưu lại đến nay là “Truyện núi Shigi” (Shigisan – engi), thể hiện một khía cạnh sinh hoạt giữa giới quý tộc và giới bình dân, dưới góc độ biếm hoạ rất sinh động.

Vào đầu thế kỷ XII, triều đình đã mở ra trường hội họa Kasuga, để đào tạo những họa sĩ trong giới hoàng tộc và quý tộc của dòng họ Fujiwara; đến thế kỷ XIII, lại có thêm trường dạy hội họa Tosa của trường phái Yamato-e, cũng kiến tạo trong kinh đô.

Nhưng về sau, vào thời đại Kamakura, thì trường phái Yamato-e đã không còn được ưa chuộng, suy thoái dần.

Trường phái Kano (Thế kỷ XV – XVII)

Trường phái nầy là sự tiếp nối có chọn lọc của trường phái cũ Yamato-e, đã gạt bỏ hoàn toàn những ảnh hưởng hội hoạ của Trung Quốc và Triều Tiên.

Trường phái nầy được thành lập do họa sư Kano Masanobu (1434 – 1530) và người con trai trưởng của ông là Kano Motonobu (1467 – 1559), được thành lập chính thức vào những  năm cuối thế kỷ XV trong thời đại Muromachi. Dưới thời đại Tokygawa (1615 – 1868), trường phái nầy được triều đình  công nhận chính thức và ra sức bảo trợ, cho nên được tổ chức có hệ thống. Do đó, mục đích chính cũng vẫn là cung ứng họa phẩm trang trí cho cung đình.

Masanobu có  nhiều biệt tài về điêu khắc, đồ họa, kiến trúc, là họa sĩ thế tục đầu tiên được giao phó  trách nhiệm chỉ đạo những xưởng vẽ của dòng họ Ashikaga. Người con của ông, Motonobu  lại có nhiều sáng kiến, đã biết kết hợp kỹ thuật Sumi-e (Mặc họa) Trung Hoa với những màu sắc rực rỡ thừa kế thành tựu của kỹ thuật Yamato-e của thời kỳ Heian.

Những họa sĩ tham gia trong trường phái nầy đều là người thế tục. Ở những vị trí xã hội được ưu đãi,  họ được các lãnh chúa (Shogun) giao phó trách nhiệm về việc trang trí những cung điện triều đình, cũng như những lâu đài riêng cho giai cấp nầy. Cũng theo chiều hướng và nhu cầu nầy, các họa sĩ của trường phái Kano hướng về khuynh hướng trang trí hơn là sáng tạo, hiện thực.

 Những hoạ sĩ Kano khai thác những thể tài sâu sắc và dí dỏm trong dân gian, cho nên được quảng đại quần chúng ưa chuộng. Cũng đồng thời, kỹ thuật in ấn bằng tay (thủ ấn) được thịnh hành, cho nên họa sĩ Kano hướng về những nét đơn giản, để tiện in ấn, phổ biến sâu rộng.

Một đường hướng khác của trường phái nầy là những tác phẩm dùng trong tế lễ dân gian, với nhiều màu sắc khác nhau. Vào cuối thế kỷ XVI, họa sĩ Kano Eitoku (1543 – 1590) được xem là họa sư hàng đầu của trường phái nầy. Sau khi thực hiện thành công hai bức bình phong về thành Kyoyo do vị Shogun là Oda Nobunaga đặt vẽ vào năm 1576, ông lại được giao phó trang trí toàn thể toà lâu đài Azuchi. 12 năm sau đó, vị Shogun mới là Hideyoshi giao cho ông trang trí những cửa trượt của toà lâu đài Jururaku; ông lại tiếp tục việc trang trí cho toà lâu đài Hoà Bình ở Momoyama.

Ông cũng đào tạo một số họa sĩ tài danh kế thừa. Nhìn chung, tất cả những nội dung trang trí, rất ít tranh được gán cho ông (vì không ký tên), tuy nhiên, trong mọi thời đại về sau đó, ông là bậc thầy về trang trí bình phong.

 Về thời đó, trang trí bình phong của mọi công trình xây cất là thời thượng của giới thượng lưu.

Hội họa Nhật thay đổi không ngừng qua các triều đại; một phần do tiến bộ tư duy thời đại; phần khác do ảnh hưởng ngoại lai, mà nước Nhật vốn là quần đảo nên tiếp tục nguồn ngoại nhập liên tục.

 Thiền Tông du nhập

 Thiền tông là một tông phái  Phật Giáo Nhật Bản. Thiền bắt nguồn từ từ Phạt Thích Ca, rồi được  Tổ Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) con trai của  vua Chi Cương thuộc  dòng Sát Dế Lợi,  nước Quốc Hương,  nam Thiên Trúc, vùng cao nguyên Decan, miền Nam Ấn Độ. Ngài là vị  Tổ sư Thiền tông  đời thứ 28 của Ấn Độ. Năm  480, vâng lời Thầy,  Ngài đến Trung Hoa để truyền bá  pháp môn Thiền.

 Ở Trung Hoa, lúc  đầu Thiền chịu ảnh hưởng mạnh mẽ  của đạo Lão và đạo Khổng. Thiền chỉ độc lập  và nổi tiếng từ thế  kỷ thứ VII và đã  trở thành một tông phái chính cho tới ngày nay tại Trung Hoa.  Thiền được  giới thiệu đến Nhật  Bản vào khoảng thế  kỷ thứ IX từ  Trung Hoa qua hai Thiền phái Lâm  Tế và Tào Động, cả hai phái nầy  đều ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của Lục Tổ Huệ Năng ở thế kỷ VIII.

Hiện nay ở Nhật có 3 Thiền phái như sau:

Thiền Lâm Tế (Rinzai Sect

Dòng Thiền nầy  do công khai sáng của Thiền  sư người Nhật – Vinh  Tây (Eisai -1141 - 1215). Ngài xuất  gia từ năm 13 tuởi ở chùa An Dưỡng (Annyo) ở Kibitsu). Ngài đã  tìm đường đến Trung Hoa để học đạo trong hai  lần vào những năm 1168 và  1187. Lần sau cùng Ngài  về đến Nhật vào năm 1191 và  kiến tạo ngôi chùa Shofuku ở Hakata.  Ngôi chùa nầy được xem là Thiền viện đầu tiên trên đất nước nầy.

Năm 1215, triều đình Nhật xây  dựng chùa Kiến Nhân (Kennin -ji)  tại Kyoto, Ngài được thỉnh về làm  chứng minh đạo sư cho ngôi già lam nầy. Ngài  cũng được xem là người có  công trong văn hoá Trà  Đạo tại Nhật.

Ngài đã mang giống trà từ Trung Hoa về trồng tại  Nhật. Vị  Thiền sư nổi  tiếng của Thiền  Phái nầy về  sau là ngài  Bạch Ẩn (Hakui Ekaku - 1685 - 1786) với những tác phẩm nổi tiếng.  Ngày nay ở Nhật có 14 chi phái thuộc dòng Thiền nầy tuy không hợp nhất về tổ chức,  nhưng vẫn đeo đuổi lý tưởng ban  đầu của Tổ sư Vĩnh Tây.

Thiền Tào Động (Soto Sect)

  Thiền Tào Động  là một trong năm Thiền phái  chính của Trung Quốcvà là một trong 13 tông phái  cính của Phật Giáo Nhật Bản. đây là một Thiền  phái kiểu mẫu  như để so  sánh với Thiền  Lâm tế, cuối cùng nó dường  như phổ biến hơn nhưng hơi  khác ở Nhật. Thiền Tào Động được  Thiền sư Đạo Nguyên  (Dogen - 1200 -  1253) khai sáng. Đạo Nguyên vốn là đệ tử của  Ngài Vĩnh Tây, sau đó ông sang Frung  Hoa du học và  trở về Nhật Bản xây dựng Thiền  phái nầy.

Người kế thừa và phát triển sâu rộng thêm  dòng Thiền phái nầy là Thiền sư   Suzuki Shogan (1579 - 1653). Hiện nay ngôi chùa già lam chính của Thiền phái nầy là chùa Tổg Trì (Soji-ji) ở Yokohama do Thiền sư Hành Cơ (Gyogi 666 - 749) tạo dựng năm 1321.

Thiền Hoàng Bá (Obaku Sect

  Đây là Thiền phái thứ ba của  người Nhật, có tầm ảnh hưởng ít hơn hai Thiền  phái kể trên,  do Thiền sư  người Trung Hoa  Ẩn Nguyên (Yin Yuan  1592 - 1673) khai  sáng. Sau nhiều năm  tu học tại quê nhà, ông  sang Nhật Bản để  hoằng pháp vào năm  1654 và tiến hành thành lập Thiền  phái nầy tại chùa Vạn  Phước (Mampuku-ji) ở tỉnh Yamato. ông  đã được Nhật Hoàng  ban cho danh hiệu  Quốc Sư (Daik Fusho Kokushi)  ông đã lưu lại  nhiều tác phẩm Phật  học giá trị.  Hiện nay có hơn 600 ngôi chùa là chi nhánh của Thiền  phái nầy.

  Nhìn chung lại cả 3 Thiền phái  trên đã phát triển mãnh tại Nhật và có  tầm ảnh hưởng câu  rộng trong đời sống  tâm linh của người Nhật.

Cả ba  đều có nhiều trường đại học,  nhà xuất bản kinh sách riêng, cơ quan  từ thiện, xã hội... Không những  thế. Thiền đã ăn sâu vào  tiềm thức của người  Nhật: Trà đạo, Nghê  thuật cắm Hoa,  nghệ thuật Suiseki, Hoa đạo, Thư pháp...   Một trong những ảnh hưởng lớn với  nền văn hoá nầy là Thiền Tông.

Văn hoá Nhật thấn nhuầm tinh thần Tiền Tông trong nhiều lãnh vực: thi ca,  hội hoạ, kiến trúc,  điêu khắc, sân khấu,  đình viên cho  đến  trà đạo,  hoa đạo,  võ đạo.  Không những  ảnh hưởng đến nghệ thuật, Thiền còn  đi vào đời sống thường ngày  của người dân Nhật  trong ẩm thực, nghỉ ngơi và cả trong kinh doanh.  Đã không sai lầm khi nói rằng Thiền đã trở thành sinh mệnh và cốt tủy  của nền  văn hoá  Nhật. Nhiều  quốc gia  cũng chịu ảnh hưởng Thiền Tông, nhưng không nơi nào thấm  nhuần đến mức độ sâu sắc và bền vững như nền văn hoá nước  nầy.

So với các quốc gia vùng Đông Á, Thiền Tông du nhập Nhật khá muộn màng.  Phật Giáo tuy đã có mặt tại Nhật từ thế  kỷ thứ VI, qua sự truyền nhập  của Trung Quốc và Triều Tiên,  nhưng Thiền Tông chỉ được  xác lập ở Nhật từ thế kỷ XII.

Thiền là một tông phái Phật Giáo, với đường lối tu luyện thân tâm  nhằm đạt  đến giác ngộ. Thiền  được xem là kết  tinh của những gì  huyền diệu nhất của Phật Giáo Đại  Thừa. Những cũng có thể xem là  sự kết  hợp tài hoa của  tư tưởng Ấn Độ  và các nền văn  hoá Viễn  Đông, mà nổi bậc nhất là Trung Quốc và Nhật Bản.  "Mục tiêu của Thiền dĩ nhiên là  để kiến tánh và chứng ngộ, nhưng  đó không phải là nơi an trụ  cuối cùng. Trên quan điểm chứng ngộ, chân  lý là  bình thường,  không có  gì đặc  biệt. Liễu xanh, hoa thắm, lửa nóng và gió luôn luôn  thổi...   Nơi an trụ cuối cùng của Thiền, mạch sống  của Phật Giáo chính là  "Thiền trong hoạt động"    không lạc  ra ngoài sinh hoạt  tự nhiên của đời  sống bình thường  hàng ngày. Như vậy, dù không để  ý đến ngày và đêm, chúng ta sống  trong Phật pháp và  áp dụng nó. Vậy thì cần gì  phải giác ngộ và tu tập? "Đi cũng thiền, ngồi  cũng thiền".

 Nhưng không phải thế!  Nước đã đun sôi và sau đó  để nguội chắc chắn phải khác với nước thường, mặc dù  cả hai thứ đều nguội. Phải  có sự khác biệt giữa  một thường nhân và một môn đệ  đã trải qua công phu tu luyện lâudài.  Nếu  không  thế,  tu  tập  thiền  định  chỉ là vô dụng..."  (Takashina Rosen).   

 

http://www.buddhismtoday.com/viet/thien/nghethuat_zen.htm

 


Vào mạng: 3-6-2007

Trở về thư mục "Thiền Phật giáo"

Đầu trang