Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo
Gems of Buddhist Wisdom
Buddhist Missionary Society, Malaysia, 1983, 1996
Thích Tâm Quang dịch
Chùa Tam Bảo, California, Hoa Kỳ, 2000

25

TÔN GIÁO CÓ THỂ MANG LẠI HÒA BÌNH KHÔNG?

Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda

Dị Biệt Trong Sự Giải Thích

Tôn Giáo và Hòa Bình là hai từ có thể định nghĩa và giải thích bởi nhiều người khác nhau, tùy theo quan niệm tôn giáo và mức độ hiểu biết khác nhau.

Các nhà học giả và triết gia nhìn vào tôn giáo theo nhiều đường lối. Một số định nghĩa trong một ý nghĩa hết sức hẹp và giới hạn trong khi những người khác đưa ra một cái nhìn tổng quát rộng rãi hơn.

Tự Ðiển Oxford định nghĩa tôn giáo như một hệ thống tín ngưỡng và thờ cúng, con người công nhận một Thượng Ðế cá nhân có quyền bắt phải vâng lời, và kết quả của sự công nhận này liên quan đến hạnh kiểm con người.

Thomas Paine, một triết gia người Anh nói: "Thế giới là quê hương của tôi. Nhân loại là anh em tôi, và làm điều lành là tôn giáo của tôi". Một thái độ như vậy đối với tôn giáo và thế giới rất thiết yếu để mang lại hòa bình, hòa hợp cho thế giới mà ta sống.

H.G. Wells nói: "Tôn giáo là phần chủ yếu trong nền giáo dục của chúng ta, nó quyết định hạnh kiểm tinh thần của chúng ta". Với triết gia người Ðức nổi tiếng Emmanuel Kant, "Tôn Giáo là sự công nhận những nguyên tắc luân lý như luật không được vi phạm".

Mặt khác Karl Marx lại nhìn tôn giáo như "thuốc phiện của con người" - cho con người xa rời thực tế, hy vọng ảo tưởng về hạnh phúc trong đời sống sau khi chết đền bù cho những tội lỗi thực sự của cuộc sống hiện tại. Với Engels, "Tôn Giáo không là gì cả mà là phản ảnh quái dị về những lực bên ngoài kiểm soát đời sống trong tâm con người lúc sơ khai".

Mục Tiêu Là Một

Dù sự khác biệt và giải thích ra sao đi nữa thì tất cả các tôn giáo đều nhất trí đồng ý là hòa bình là một điều thiết yếu tuyệt đối và tôn giáo đóng một vai trò sống còn trong việc phát triển hòa bình của cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và thế giới.

Sự Cần Thiết Giáo Dục Về Tôn Giáo

Vì thế giới chuyển càng ngày càng sâu vào một thời đại của rối loạn với những vũ khí càng tinh vi và nguy hiểm hơn, cùng với tai ương và tinh thần thoái hóa, sự cần thiết giáo dục tôn giáo ngày nay lớn lao hơn bao giờ hết. Lo âu và băn khoăn sinh ra từ sự bất trắc về tương lai càng làm tăng thêm áp lực và căng thẳng vào tâm con người. Những thứ này chỉ có thể khắc phục được với sự hiểu biết chính đáng bản chất của tâm - một môn học đã bị tách khỏi hệ thống giáo dục có định hướng học thuật và vật chất cung cấp bởi các trường học và các đệ tam tổ chức ngày nay. Tôn giáo lúc nào cũng là cái chìa khóa để duy trì an lạc của tâm và cung cấp niềm an ủi tinh thần trong lúc nguy cấp như trong lúc rối loạn, hay trong thời gian bị kẻ địch xâm chiếm và những xáo trộn khác.

Con người cần tôn giáo như chỗ thả neo khi tàu cập bến. Tâm con người luôn luôn thay đổi và xao động nên cần có một số hình thức trợ giúp cho tâm vững vàng kiên định để có thể tạo các quyết định hầu theo đuổi lý tưởng của mình trong cuộc sống. Với sự chấp nhận một số giáo lý của tôn giáo, ta ràng buộc tâm ta vào các giáo lý ấy giúp cho tâm có thể hướng về con đường thẳng hơn nếu ta là một nhà tự do tư tưởng hay như một con sói đơn độc. Như con tàu bỏ neo nơi bến đậu có thể chịu đựng gió to bão lớn, giống như tâm ràng buộc với nguyên tắc tôn giáo, có thể đứng vững trước những cám dỗ và những xáo trộn tâm thần khác của cuộc đời.

Cho nên giáo dục tôn giáo dùng để làm cho tâm được vững vàng; phát triển sự thăng bằng tinh thần - tránh tất cả những dạng thức cực đoan. Nó dẫn đến sự hiểu biết bản chất thực sự của đời sống, cái chết, và thế giới - bên trong và bên ngoài. Rất cần thiết cung cấp sự hiểu biết sâu xa và tuệ giác vào bản chất của những giá trị cao của cuộc sống - nội dung tinh thần và đạo đức của nó - giúp quét sạch tôn giáo cuồng tín và thành kiến, dọn đường cho sự hòa hợp tôn giáo.

Người Có Ðạo Lý?

Một người có thể được công nhận là có đạo lý bởi tính nết tinh thần - tư tưởng, lời nói và hành động. Một người đã tự mình thanh tịnh hóa với tư tưởng thiện, lời nói hành vi lương hảo là người có đạo lý hoàn toàn theo quan điểm Phật Giáo. Rất khó khăn coi một người là đạo lý nếu người ấy chỉ đi đến chỗ thờ cúng và chỉ cầu lợi chính mình, cho gia đình mình và không lưu ý gì tới người khác cả. Hành động của người ấy thi hành với tâm địa hẹp hòi và động cơ ích kỷ.

Mặt khác, có thể có một số người không dự các lễ nghi tôn giáo mà cũng chẳng cầu nguyện nơi thờ phượng, nhưng lại giữ một số nguyên tắc tôn giáo bằng cách sống một cuộc đời an lạc, bằng cách khắc phục nhược điểm của mình, và có lòng thông cảm, khoan dung và hiểu biết đối với người khác. Những người như vậy có thể được coi như người có đạo lý nhiều hơn là người nói ở phần trên.

Lý tưởng cho bất cứ một người đạo lý nào là một cuộc sống đơn giản và khiêm tốn, một cuộc đời không bị vương mắc bởi bất cứ mục tiêu vật chất nào (và các động cơ về sau), và người ấy có thể đem hết năng lực vào sự trau dồi tinh thần đem lợi ích chính mình và cho người khác.

Giá Trị Của Tôn Giáo

Chỉ tu tập bề ngoài dưới danh nghĩa tôn giáo thì không thể hiểu được giá trị của một tôn giáo; với một người không được giáo dục và không am tường có thể người ấy tu tập một số truyền thống vô nghĩa vì nghĩ rằng điều đó là đúng. Muốn hiểu rõ bản chất thực sự của bất cứ một tôn giáo nào, rất cần thiết phải nghiên cứu giáo lý nguyên thủy của vị khai sáng ra tôn giáo ấy bằng cách tìm hiểu từ nguồn gốc càng sâu càng tốt.

Giá trị thực sự của tôn giáo có thể được hiểu trong phối cảnh đúng của nó, từ những lời dạy hữu lý và hòa hợp đưa ra những chỉ phần thực tiễn làm sao sửa chữa mình và có thể giúp cho một người sống một cuộc đời đơn giản, khiêm tốn, luân lý với an lạc và mãn ý, nơi đây và ngay bây giờ.

Biểu diễn phép lạ huyền bí hay thần thông, hứa hẹn thiên đường cực lạc sau khi chết và những sự tu tập dị đoan chỉ "đầu độc" tôn giáo mà thôi - kích thích tâm đại chúng với chuyện ly kỳ, phấn khích và niềm tin mù quáng. Những thứ này không dẫn đến loại bỏ được ô trược tinh thần- mà có lẽ dọn đường cho sự say mê lớn lao quyền uy trần tục, muốn nổi danh nổi tiếng và khoái lạc.

Trong một bài giảng cho đại chúng, Swami Vivekananda nói: "KInh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của kiến thức. Cũng cùng phương pháp điều tra nghiên cứu mà ta áp dụng cho khoa học và kiến thức bên ngoài nên được áp dụng vào tôn giáo. Nếu tôn giáo bị hủy diệt bởi sự điều tra như thế có nghĩa tôn giáo không là gì cả, mà là một mớ sưu tập vô ích và không giá trị những niềm tin dị đoan, càng biến mất đi sớm càng tốt. Tại sao tôn giáo cho rằng tôn giáo không bị ràng buộc phải tuân theo lập trường suy luận mà chẳng ai biết...Tốt hơn nhân loại nên trở nên vô thần bằng con đường đi theo suy luận hơn là mù quáng tin vào hai trăm triệu thần thánh theo uy quyền của bất cứ ai..."

Trong khi tránh cái cực đoan của niềm tin mù quáng và cái hoài nghi tri thức, người tầm đạo phải tìm Chân Lý bằng suy luận và trí tuệ.

Phương Pháp Hữu Lý Ðể Giới Thiệu Tôn Giáo

Thời đại của thuyết huyền bí và thần bí đã nhanh nhường lối cho con đường của kiến thức khoa học và điều tra.

Mặc dù những phương pháp giả tưởng cổ xưa đã phục vụ mục đích loại bỏ mộtä số sợ hãi và bất an về cái không biết trong tâm của người xưa tại nhiều nơi trên thế giới, phương pháp này không còn áp dụng được với tâm người hiện đại.

Nhắc đến sự cần thiết cho một viễn cảnh hợp lý hơn, cố Thủ Tướng Ấn Ðộ, Shri Jawarharlal Nehru đã nói rằng ta nên tránh ba vấn đề chính khi giới thiệu tôn giáo. Ðó là: Kinh Thánh, ý tưởng Thượng Ðế và thế giới kế tiếp. Ngài nhấn mạnh nếu ai giới thiệu tôn giáo mà dùng bất cứ một trong ba điều này sẽ làm người dân có khuynh hướng tin vào điều đó - chấp nhận tôn giáo đó mà không sử dụng khả năng suy luận của chính mình. Lời khuyên để người dân tìm sự thực do kiến thức và kinh nguyện với tâm hoàn toàn tự do của chính mình. Ðiều này thực là một phương pháp lý tưởng để giới thiệu tôn giáo; để tránh khỏi nhiều loại thành kiến về tôn giáo, niềm tin mù quáng và thiếu hiểu biết.

Nehru cũng ghi rằng ta không nên chấp nhận mọi thứ viết trong bất cứ kinh thánh nào dưới danh nghĩa tôn giáo. Ngài cho rằng nguyên tắc chính của tôn giáo là: "làm tốt được tốt và làm xấu gặt xấu". Tán thán cách giải quyết hữu lý của Phật Giáo, trong cuốn "Sự Khám Phá của Ấn Ðộ", Nehru viết: "Ðức Phật đã can đảm vạch ra sự bất toại nguyện của tôn giáo bình dân, dị đoan, lễ nghi và thủ đoạn của các thầy tu. Ngài không chú trọng đến viễn cảnh siêu hình và thần học, phép lạ, khải huyền, và những thứ siêu nhiên. Lời kêu gọi của Ngài là lẽ phải, hợp lý, và kinh nghiệm.; sự nhấn mạnh của Ngài về đạo đức và phương pháp của Ngài là một phương pháp lý giải tâm lý, khoa tâm lý không có linh hồn. Toàn bộ cách giải quyết vấn đề của Ngài giống như luồng gió mát thổi từ núi xuống sau cái không khí ô trược của những ức đoán trừu tượng".

Ngài tiếp tục nói Ðức Phật đã dạy điều vĩ đại hơn tất cả học thuyết và giáo điều và thông điệp bất diệt của Ngài đã làm xúc động nhân loại qua nhiều thời đại. Có lẽ không bao giờ trong lịch sử quá khứ thông điệp hòa bình của Ngài lại cần thiết cho nhân loại đang đau khổ và lầm lạc như ngày nay.

Albert Einstein, trong khi đề cập về tôn giáo của tương lai, nói: "Tôn giáo này phải vượt qua một Thượng Ðế riêng tư, tránh giáo điều và thần học. Bao trùm cả về thiên nhiên lẫn tinh thần, tôn giáo này phải căn cứ vào ý niệm đạo giáo phát sinh từ những thực nghiệm của mọi vật, tự nhiên và tinh thần như một sự thuần nhất đầy đủ ý nghĩa. Phật Giáo đáp ứng được các điều đó.

Cách giải quyết của Ðức Phật là độc nhất vô nhị trong biên niên sử tôn giáo. Ngài khuyên các tín đồ không nên chấp nhận Giáo Pháp vì sùng kính mà chỉ chấp nhận sau khi đã điều tra nghiên cứu.

Ðức Phật khuyên nhiều người đừng nên vội vàng chấp nhận giáo lý của Ngài mà hãy suy nghĩ cẩn thận xem giáo lý của Ngài có thực thực tiễn với họ không. Nếu họ hoàn toàn tin tưởng phương pháp của Ngài, thì Ngài mới chấp nhận họ là những tín đồ.

Ngay cả đến khi đã trở thành tín đồ của Ngài, Ngài cũng không ngăn cấm họ hỗ trợ những đạo sư cũ của họ. Ðiều này cho thấy Ngài cho tín đồ khoảng rộng tự do, không chút ẩn nấp một ghen tị nào đối với các tôn giáo khác. Nó cũng làm sáng tỏ thái độ hòa hợp của Ngài đối với các tôn giáo khác.

T.H. Huxley ghi nhận "Phật Giáo trong sự thanh tịnh nguyên thủy không biết gì đến những lời nguyện phục tùng và không bao giờ tìm sự giúp đỡ của cánh tay thế tục, tuy đã truyền bá trên quá nửa thế giới cũ với một sự nhanh chóng tuyệt vời và vẫn đứng vững dù với nền móng có đôi chút pha trộn những dị đoan bắt buộc, những tín điều lấn át một phần số lớn nhân loại".

Theo nhận xét của Alexander Cunningham, một nhà khảo cổ, "Phật Tử truyền bá đạo của họ tiếng nói đầy tính thuyết phục, nhiều đạo khác truyền đạo bằng lưỡi guơm tàn nhẫn. Con đường đẫm máu của các đạo khác sáng rực lên bởi ngọn lửa khủng khiếp của những đô thị bị thiêu rụi, sự tiến bộ hòa bình của Phật Giáo được sáng lên bởi những bộ mặt hoan hỉ của những người đau trong bệnh viện các tu viện, bởi những nụ cười sung sướng của những khách du hành ngưng chân nghỉ tại những quán trọ dọc đường".

Với Ðức J.T. Sunderland, "Phật Giáo dạy các tín đồ nhiều về hòa bình rất hữu hiệu trong suốt lịch sử của tôn giáo này hơn bất cứ tín ngưỡng vĩ đại nào mà thế giới biết đến. Dân chúng có tâm trí cao hơn về mặt tinh thần, không giống như nhà duy vật hiện nay, họ đặt tâm tính, phụng sự tình thương và hòa bình trên danh tiếng, của cải, ưu thế và chiến tranh, và Phật Giáo phát triển rực rỡ vào thời gian này vì Phật Giáo là tôn giáo duy nhất không có đổ máu và bạo lực".

Tấm Gương: Vua A Dục

Sự kiện được ghi nhận Asoka (Vua A Dục) hết sức tích cực tận tụy cho hạnh phúc thần dân của Ngài. Với mục đích này, ông đã đào các giếng nước uống, trồng cây có bóng mát, xây đường xá, công viên, các vườn trồng dược thảo, và các bệnh viện cho người và súc vật. Ðể thấm nhuần tinh thần chính đáng vào các thần dân mà ông yêu dấu như con cái, ông đã xây dựng các trụ đá khắp trong vương quốc, trên các trụ đá này có khắc thông diệp cao quý về cuộc sống chánh đáng (Chánh mạng). Những đại thần và những ủy viên được chỉ định để hướng dẫn và giám sát sự tu dưỡng tinh thần. Ðại Hội Kiết Tập Lần Thứ Ba cũng do ông triệu tập. Những sứ giả do ông gửi đi trên khắp lãnh thổ xa gần giúp trong việc giao tiếp văn hóa du nhập trong lĩnh vực hòa bình và quan hệ quốc tế.

Hoạt động của Vua A Dục không còn gì nghi ngờ chứng tỏ ông là một điển hình nhiệt thành của một đời sống tích cực cho các hành vi thiện. "Sự cố gắng đem hạnh phúc chung và gửi tức thời các sứ thần thương mại là một số trong những nguyên tắc chỉ đạo chính của ông. Thấm nhuần ý thức thực tế và năng động nổi bật, Vua A Dục biểu lộ trong cuộc đời của ông tinh thần Phật Giáo cao độ, hành hoạt đúng theo tinh thần thực sự của 'Bahujana Hitaya, Bahujana Sukhaya"- vì phúc lợi cho nhiều người, vì hạnh phúc cho nhiều người - một lý tưởng mà chính Ðức Phật đã dạy cho sáu mươi thánh chúng đệ tử đầu tiên của Ngài trở thành nhóm truyền giáo đầu tiên trong lịch sử nhân loại.

Cảm hứng từ sự vĩ đại của Vua A Dục, H.G. Wells, trong cuốn "Ðại Cương Lịch Sử", tuyên bố giữa hàng ngàn tên tuổi các vua chúa đầy trên các cột lịch sử với oai nghi, thanh lịch, thanh thản, cao kỳ lộng lẫy và những đặc tính tương tự như vậy, tên tuổi của Vua A Dục sáng chói, chói sáng một mình, như một vì tinh tú".

Với tất cả cảm hứng từ Vua A Dục để cho ta, ta phải cố gắng vươn lên qua khỏi cái tối tăm đang bao trùm thế giới ngày nay.

Tôn Giáo và Chủ Nghĩa Duy Vật

Nhiều mây đen bao phủ - nhiều sự rối loạn và những khó khăn toàn cầu - có thể được truy nguyên do sự suy thoái của tôn giáo và sự nổi lên chủ nghĩa duy vật.

Lịch sử loài người cho thấy biết bao quốc gia đã suy đồi va nhiều nền văn minh đã tàn lụi với sự tan rã của tôn giáo như thế nào. Sử gia, Edwward Gibbons "Trong cuốn Lịch sử Thăng Trầm của Ðế Quốc La Mã" đã chứng minh sự đổ vỡ tôn giáo thành vô số dạng thức là một trong những nguyên nhân góp phần vào sự suy thoái và tan rã của Ðế Quốc La Mã. Việc xẩy ra cho La Mã, rồi đây cũng có thể xẩy ra cho những nền văn minh hiện đại của chúng ta.

Nhận thức sự nguy hiểm xẩy ra trước mắt, con người ngày nay phải có ý thức làm việc trong sự hợp tác để kiểm soát và tránh những nguyên nhân có thể đưa sự thăng hoa đến sự suy thoái và tan vỡ tôn giáo.

Trong khi những sự bất hòa tôn giáo do sự cạnh tranh không lành mạnh để lôi kéo tín đồ đổi đạo, nạn cuồng tín và "thánh chiến" tiếp tục làm hại viễn cảnh hòa bình nhờ tôn giáo, giáo điều và niềm tin dị đoan phá vỡ giá trị của tôn giáo dưới ánh sáng của kiến thức và các điều tra nghiên cứu khoa học ngày càng tăng trưởng. Những điều này đương nhiên dẫn đến việc nổi lên của chủ nghĩa duy vật- đang mang sự sói mòn luân lý to lớn cho xã hội loài người.

Tiến Bộ Vật Chất

Sự say mê điên cuồng theo đuổi lạc thú trần tục, uy quyền và của cải đã dẫn đến tất cả những dạng luân lý suy đồi, kỳ thị và thành kiến, thậm chí đến mức chính là nguyên nhân gây ra hủy diệt hàng loạt nhân loại.

Một số được gọi là giải trí hiện đại đã trình diễn khêu gợi thú tính và cảm xúc nhục dục của khán giả. Dưới ảnh hưởng của những sự đầu độc như vậy, khán giả đôi khi không kiềm chế nổi giác quan, nổi dục vọng đã làm những điều trái ngược với óc suy xét tốt đẹp của mình, vi phạm sự yên bình và hạnh phúc của người vô tội để thỏa mãn ham mê khoái lạc. Họ mất đi đường lối suy nghĩ hữu lý bình thường, và không chịu nghe người khác dù họ nhận thức rằng những việc này sẽ phá hoại đời sống của họ và của người khác.

Con người tham đắm quá mức vào thỏa mãn ham mê khoái lạc tạo thành một xã hội bệnh hoạn và vô vọng dẫn đến vô luân, vô đạo đức, hành động tội lỗi là điều ô nhục cho tinh thần và nhân phẩm của con người.

Sự say mê uy quyền trần tục dẫn các quốc gia đến những cuộc chạy đua vũ trang. Sự phát minh vũ khí giết người có thể tiêu diệt thế giới trong một giây đã được thi hành bằng cách tiêu pha ngân quỹ dành cho người đói và nghèo khổ . Chiến tranh được coi như một xu hướng hiện đại không thể tránh được và một lối cuộc sống, trả giá bằng sinh mệnh quý giá của hàng triệu người.

Những công cuộc tìm tòi xây dựng và những kế hoạch dự trù để nâng cao nhân loại chỉ được hoặc coi như quan trọng thứ yếu hay bị loại đi thay thế bằng lợi lộc vật chất trước mắt.

Trí tuệ truyền thừa bởi các giáo chủ với tinh thần giác ngộ đã chẳng được ai lắng nghe. Nh?ng lời khuyên của các vị này: sống hòa bình và duy trì tiêu chuẩn đạo đức áp dụng tổng quát trên vũ trụ, đã không còn được biết đến.

(Hãy Rút Kinh Nghiệm) Cái Vơ Vẩn Của Nero khi La Mã Ðang Bị Cháy

Những quốc gia kinh tế phát triển đến điểm không còn thấm nhập hơn được nữa dưới danh nghĩa tiến bộ vật chất đang phải đối diện với những khó khăn to lớn về ô nhiễm môi sinh, khủng hoảng năng lượng, thất nghiệp, lạm phát, luân lý suy đồi, và những khó khăn xã hội như lạm dụng ma túy, xáo trộn tâm thần nghiêm trọng, ly dị, tự tử, và nhiều dạng thức của bệnh tật.

Mặc dù những sự việc thảm thương điên cuồng này xẩy ra, vẫn còn có những cái gọi là quốc gia đang phát triển trên thế giới cố gắng tranh đua với thiên hình vạn trạng dạng thức phát triển kinh tế - bắt chước nhiều hơn nữa văn hóa vật chất hy vọng biến nhà của và xứ sở của họ thành thiên đàng vật chất. Giống như Nero vơ vẩn (không làm gì) khi La Mã đang bị cháy, những người như thế đã thất bại không biết học hỏi từ những lầm lẫn của người khác.

Tình Trạng Nhầm Lẫn Ðáng Kinh Ngạc

Càng tham gia vào cuộc chạy đua để đạt lạc thú nhục dục, uy quyền, danh tiếng, và 'vinh quang' - lại càng gặp phải rối trí và xáo trộn, lại càng đóng góp vào những mâu thuẫn; đó là thế giới ngày nay.

Một mặt, con người sợ hãi chiến tranh, mặt khác họ lại dốc toàn lực để sửa soạn chiến tranh! Họ nói nhiều về hòa bình nhưng lại gieo rắc nghèo đói! Tuy thế giới càng ngày càng đông lên mỗi ngày, con người lại cảm thấy càng cô đơn! Càng có nhiều giờ rảnh rỗi, lại càng bất an bấy nhiêu! Mặc dù được trang bị với đủ loại kiến thức để được an toàn trên cung trăng, nhưng không biết làm sao sống an toàn trên trái đất! Ðó là những rối rắm và mâu thuẫn của con người hiện đại sống trong thời đại không gian này. Tuy nhiên những khó khăn này chưa hẳn là hoàn toàn mới lạ với nhân loại.

Xáo trộn phát sinh chừng nào thì vết nhơ của si mê vẫn hiện hữu trong tâm con người. Cùng với các ô trược khác, si mê đã làm con người mù quáng không còn khả năng nhìn thấy và hiểu biết bản chất thực sự của sự vật hay thực tế chủ yếu của cuộc đời.

Cuộc Sống Không Cân Bằng

Sự không cân bằng giữa sự phát triển vật chất và tinh thần là nguyên nhân của sự bối rối lớn lao và những tình trạng khó xử mà thế giới hiện đại phải đương đầu.

Của cải không thôi không thể mang hòa bình và hạnh phúc cho con người. Dao động và thất bại đang chờ đợi tâm không cân bằng. Không tìm được phương cách và phương tiện thỏa mãn để chống lại biến động của cuộc đời, con người tìm đến đủ loại ma túy và độc dược để tạm thời xoa dịu thất bại, không xoa dịu nổi họ quay về tự tử hay bị xáo trộn thần kinh.

Những trường hợp ghiền ma túy càng ngày càng tăng, rượụ, cờ bạc vân vân... là những triệu chứng của cuộc sống không cân bằng.

Xu hướng ru ngủ ta vào những tiện nghi của cuộc sống hiện đại mà không có một tư tưởng cho tiến bộ tinh thần đã làm con người hôn mê và biếng nhác. Muốn khắc phục điều này, ta cần phải có nghị lực, sức mạnh, và kiên nhẫn thuộc về địa hạt của niềm tin ăn sâu trong tôn giáo.

Hòa Bình Do Tôn Giáo

Sự tăng trưởng nhanh chóng duy vật chủ nghĩa và cuộc sống không cân bằng đã che khuất tiềm lực hòa bình qua tôn giáo. Tôn giáo thế giới ngày nay đã phát triển thành những cơ cấu tổ chức lớn, và những giáo lý nguyên thủy của các nhà khai sáng ảnh hưởng rất ít đến các tín đồ trong các đức tính như đơn giản, kiềm chế, chân thật, và vị tha.

Muốn nhận thức được giá trị thực sự của tôn giáo, một sự hiểu biết tường tận về những thông điệp nguyên thủy của vị khai sáng rất cần thiết. Các giá trị đao đức và luân lý đơn giản có một tiềm lực lớn lao cho hòa bình.

Sự tu tập kiềm chế tư tưởng mang hòa bình và hòa hợp cho cá nhân và sự kiềm chế lời nói và hành động của thân đem hòa bình cho người khác.

Do ba luồng tư tưởng, lời nói và hành động của thân này mà tất cả tội lỗi hay những hành động bất thiện được thực thi. Chúng là những " cánh cửa" của thế giới bên trong - nơi những mâu thuẫn bắt đầu. Nếu thế giới này được canh chừng cẩn trọng, chiến tranh và xung đột đương nhiên bị ngăn chặn.

"Biết Mình" qua tôn giáo là nguyên tắc hướng dẫn đến hòa bình đến vương quốc của thiên đường. Nếu người ta có thể theo nguyên tắc tôn giáo chân chính liên quan đến kiềm chế và thực thi bổn phận và nghĩa vụ đối với mọi người trong xã hội, hòa bình và hòa hợp tự nhiên sẽ theo sau.

Lời khuyên đơn giản của Ðức Phật cho các tín đồ trong Kinh Sigalovada (Thi Ca La Việt), phác họa bổn phận và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái, thầy và trò, chồng và vợ, bạn bè và bạn bè, chủ và người làm, và các đạo sư và đệ tử, bao trùm toàn bộ bổn phận trong gia đình cũng như ngoài xã hội của một cư sĩ. Bình luận về Kinh này, Bà Rys Davis nói: "Học thuyết về tình thương và thiện chí giữa người với người của Ðức Phật được thiết lập trong đạo đức gia đình cũng như xã hội với nhiều chi tiết toàn diện hơn bất cứ nơi nào khác. Và thực ra ngay bây giờ chúng ta có thể nói về Giới Luật hay tiêu chuẩn kỷ luật ấy như thế này: Thật căn bản làm sao các lợi ích mà con người có thể có được nhờ giới luật này, thật lớn mạnh và lớn lao làm sao cái trí tuệ đã hình dung ra các giới luật này, đến mức các lời thuy?t giảng ấy ngày nay vẫn tươi rói và thực tiễn cũng như vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn nhu thuở các lời ấy được nói tại Rajagaha (Thành Vương Xá). " Sung sướng thay là dân làng hay nhóm người ở bên bờ sông Hằng nơi mà người dân đầy tình lương hảo và thông cảm, tinh thần cao thượng của công bằng được hít thở qua những lời dạy mộc mạc và đơn giản. Có thể nói rằng: "Có thể không kém phần hạnh phúc như dân làng hay gia đình ở trên bờ sông Thames ngày nay bởi họ có thể nghe những lời này".

Thay vì làm tôn giáo thành lối sống, tôn giáo đã được phát triển thành loại biệt ngữ triết lý và đã trở thành một môn học cho sự tập luyện tri thức và tranh luận. Tu tập dị đoan, quỷ thuật và thuyết huyền bí đã được giới thiệu nhằm đem vinh quang và thắng lợi cho một tôn giáo này hơn tôn giáo kia. Tôn giáo đã được dùng để bào chữa nhược điểm của con người - vì tham vàng và quyền uy.

Bằng cách đem các giải pháp trần tục như vậy vào nhà tôn giáo hầu xúc tiến điều gì đó dưới danh nghĩa tôn giáo, những nhà đạo giáo ngày nay phải hiểu những điều ấy chỉ làm mờ đi và quét sạch cốt lõi thực sự của tôn giáo và con đường tinh thần của đời sống, và giá trị thật sự của tôn giáo sẽ càng trở nên tối tăm cho hậu thế.

Vẫn Còn May Mắn

Liệu tôn giáo còn có thể mang hòa bình cho nhân loại ngày nay không, đương nhiên là một câu hỏi thích đáng, nhất là xét dưới ánh sáng của những sự phát triển mới đây tại một vài nơi trên thế giới nơi mà tôn giáo đúng là đã được đem vào chiến trường.

Duy vật chủ nghĩa, đạo đức giả, và cuồng tín chủ nghĩa giả dạng dưới chiêu bài tôn giáo đã là những thảm họa to lớn trong lịch sử nhân loại. Tái diễn những lầm lẫn và thảm họa trong quá khứ, đến thời điểm khi những hội nghị quốc tế về tôn giáo và hòa bình được triệu tập và những lời tuyên bố cho hòa bình thế giới, tình huynh đệ đại đồng, và hòa hợp tôn giáo chỉ là đạo đức giả hoàn toàn và là điều ô nhục cho xã hội loài người.

Ðể hỗ trợ cho những hành động vô lương tâm như vậy dưới danh nghĩa tôn giáo quả là chống lại chuẩn mức úng xử và phẩm giá của con người. Chiến đấu ngoài chiến trường để có hòa bình là không đúng, muốn có hòa bình phải có khả năng tự chiến thắng lấy mình chứ không phải đánh bại người. Ðó là điều phải nhận thức thấu đáo như một điểm chính yếu của vị tha. Mặc dù một số các nhà tôn giáo đã chọn, vì tham vàng bạc và quyền uy trần tục, chính họ đã tự nhúng vào chiến tranh tôn giáo, điều này không tiêu biểu cho toàn bộ lãnh vực tôn giáo. Cho nên hãy để cho những người biết tư duy, yêu chuộng hòa bình ngày nay phán xét liệu những thái độ của những con buôn chiến tranh như vậy có thể chứng minh dưới danh nghĩa tôn giáo được không, hay chiến tranh và đổ máu hoàn toàn tách khỏi tôn giáo.

Nếu người ta thực sự lưu ý đến tìm kiếm và xây dựng hòa bình và hạnh phúc cho chính mình cũng như cho những người khác, thì cũng chưa muộn - Sau cơn mưa trời lại sáng. Nguyên tắc tôn giáo và giáo lý, rất đáng cho con người trau dồi, có khả năng cảm thấy được và nhận thức được bởi chính con người vẫn hiện hữu.

"Mở rộng cho tất cả là cánh cửa dẫn tới giải thoát hoàn toàn". "Thắng ngàn lần, ngàn quân địch chưa thể gọi là thắng; Tự thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất". - (Ðức Phật - Kinh Pháp Cú - Câu 103).


Mục lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15
 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | 31

 


Vào mạng: 11-12-2001

Trở về mục "Đức Phật và Phật pháp"

Đầu trang