Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Pháp Sư Nikkyo Niwano,
nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới
Thích Nguyên Tạng

030-Nikkyo Niwano.gif (47574 bytes)

Pháp sư Nikkyo Niwano (1906-1999), người khai sáng Hội Phật Giáo (PG) Lập Chánh Giảo Thành (Rissho Kosei-kai, phát xuất từ phái Pháp Hoa Nhật Liên Tông của Nhật), nhà lãnh đạo Hội Tôn Giáo và Hòa Bình Thế Giới, Hiệp Hội Tự Do Tôn Giáo, Hiệp Hội Hòa Bình Niwano, Liên Đoàn Tân Tôn Giáo Nhật Bản, là tác giả của nhiều tác phẩm Phật học quan trọng v.v.. đã qua đời tại Tokyo vào ngày 4 tháng 10 năm 1999, hưởng thọ 92 để lại phía sau mình một tổ chức khổng lồ với niềm tiếc thương và kính trọng không nguôi đối với nhân dân Nhật bản và Phật tử thế giới.

Cuộc đờ và đạo nghiệp của Pháp sư Nikkyo Niwano

Pháp sư Nikkyo Niwano sinh ngày 15 tháng 11 năm 1906 trong một gia đình nông dân uy tín ở Suganuma, một ngôi làng nhỏ ở tỉnh Niigata, thuộc miền Bắc Nhật Bản. Lên bảy tuổi, ông học trường làng và kết thúc chương trình học vấn của ông ở tuổi hai mươi.

Năm 1923, được cha cho phép, ông lên đường đến Kyoto để tìm việc. Nghề đầu tiên của ông là mở tiệm bán gạo, sau đó là đại lý bán than củi. Sau ba năm (1926-29) phục vụ trong ngành Hải quân Nhật, ông trở lại công việc của mình. Một năm sau đó, ông thành hôn. Sau khi đứa con gái đầu lòng chào đời năm 1931, ông mở shop bán dưa chua, một ngành đang phát triển ở Nhật thời bấy giờ.

Tháng 8 năm 1934, đứa con gái 9 tuổi của ông, bị chứng bệnh mất ngủ, không phương cứu chửa. Trong nỗi thất vọng, ông nghe theo lời khuyên từ một người láng giềng và nhờ ngài Sukenobu Arai, hội trưởng Hội PG Reiuykai giúp đỡ phương pháp điều trị. Không lâu sau đó, bệnh tình của con gái được hồi phục. Đối với ông Niwano, đây là công đức của Hội Reiyukai và điều gây ấn tựợng mạnh mẽ cho ông là công đức thọ trì Kinh Pháp Hoa, một trong những bộ kinh quan trọng của Phật giáo Mahayana.

Vì kính tin lời Phật dạy và Kinh Pháp Hoa đã lôi cuốn ông vào con đường đạo. Con đường này có thể cứu độ thế giới, từ cá nhân đến xã hội, từ thể chất đến tinh thần. Ông hiểu rõ những gì ông học được. Càng học và thọ trì Kinh Pháp Hoa, ông cảm nhận được sự mầu nhiệm, sâu sắc và tiềm lực vô biên của Kinh. Lòng từ bi và cứu độ, cả hai ý nghĩa này đều phù hợp với lý tưởng của ông. Ông cũng nhận ra rằng ông phải thay đổi công việc để có nhiều thời gian để tham gia công tác Phật sự và tu học Phật pháp.

Tiếp đó, ông quyết định đổi nghề, ông mở một đại lý bán sữa, công việc chỉ làm vào lúc sáng sớm để bỏ sữa ở các đại lý nhỏ khác, trưa và chiều là thời gian để ông nghiên cứu giáo lý và tu tập. Trong những khách hàng của ông có một phụ nữ, chủ một quán nước nhỏ. Bà bị bệnh và đau khổ nhiều năm vì người chồng không chung thủy và người con qua đời từ nhỏ. Bác sĩ cho hay là bà không sống được bao lâu nữa.

Tuy nhiên,không lâu sau khi bà nhận được sự giúp đỡ tinh thần của Pháp sư, bà đã phục hồi nhanh và nhờ đó bà đã tin tưởng vào Phật pháp. Sự hồi phục của bà cũng làm cho nhiều người ngạc nhiên. Trong một ngày nọ, bà và Pháp sư Niwano đã đưa 50 người vào tổ chức này. Bà chính là Myoko Naganuma, người mà về sau cùng với Pháp sư đứng ra thành lập Hội Phật Giáo (PG) Lập Chánh Giảo Thành.

Sau một thời gian học hỏi và nghiên cứu Kinh Pháp Hoa, Pháp sư Nikkyo Niwano và bà Naganuma cùng với 30 người khác thành lập Hội Rissho Kosei-kai vào ngày 5 tháng 3 năm 1938, lúc ấy ông chỉ mới 38 tuổi và bà Naganuma, 48 tuổi. Năm 1941, số thành viên của hội đã lên đến 1000. Năm 1942, cả Pháp sư Niwano và bà Naganuma đã từ bỏ công việc buôn bán và cống hiến toàn thời gian cho hội. Trong thời gian này, một trụ sở mới của hội đã được tạo dựng, nhưng quá nhỏ không đủ để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của hội, nhiều lúc thành viên phải đứng bên ngoài hành lang và sân cỏ để tụng kinh.

Vào ngày 11 tháng 8 năm 1948, Hội đã chính thức gia nhập vào một tổ chức tôn giáo lớn ở Nhật là Hội đoàn Tôn giáo Nhật bản. Năm 1951, ông được cử làm Chủ tịch thường trực của Liên Đoàn Tân Tôn giáo Nhật (Federation of New Religion of Japan / Shinshuren) sau khi hội này thành lập.

Ngày 10 tháng 9 năm 1957, bà Naganuma qua đời. Sau khi trở về với Chánh pháp, bà phát tâm dành thời gian còn lại của đời mình để phổ biến Kinh Pháp Hoa. Do đó bà đã làm việc không biết mỏi mệt để hướng dẫn những thành viên mới của hội cho đến ngày cuối cùng, bà đau nặng và qua đời trong yên bình vào ngày 10 tháng 9 năm 1957. Hội đã tổ chức trọng thể tang lễ của bà trong hai ngày 14 và 15 tháng 9, có đến 250.000 người trên khắp nước Nhật đến viếng linh cữu của bà. Cùng trong năm này, Pháp sư cho ra tờ nhị nguyệt san Dharma World để phổ biến giáo lý, đến nay tờ báo này vẫn phát hành đều đặn.

Năm 1958, Pháp sư Niwano tổ chức chuyến hoằng pháp trên khắp nước Nhật. Năm 1959, cho xuất bản cuốn sách "Đạo Phật Ngày Nay, một diễn dịch mới của Kinh Pháp Hoa" (Buddhism for Today : A modern Interpretation of the Threefold Lotus Sutra) in bằng tiếng Nhật. Năm 1963, Pháp sư lên đường đi châu Âu để tham dự Hội nghị về Hòa bình và bãi bỏ vũ khí hạt nhân tại Italy. Nhân dịp này Pháp sư có gặp riêng đức Giáo hoàng Paul đệ lục để trình bày những kiến nghị về hòa bình. Tháng 3 năm 1964 Pháp sư cho in cuốn : "Giảng luận mới về Kinh Pháp Hoa " (A Modern Commentary on the Threefold Lotus Sutra). Ngày 14 tháng 9 năm 1945, Pháp sư đi Italy dự Hội nghị tôn giáo lần thứ hai, nhân dịp này Pháp sư đã gặp và trao đổi với đức Giáo hoàng Paul đệ lục về các vấn đề liên quan đến tôn giáo. Tháng 7 năm 1965, Pháp sư được bầu làm Chủ tịch hội Shinshuren.

Tháng giêng năm 1968 , Pháp sư tham dự Hội nghị đối thoại Tôn giáo Nhật - Mỹ vì hòa bình tại Tokyo. Từ ngày 21 đến 23 tháng hai năm 1969, Pháp sư tham dự phiên họp của ủy ban tư vấn lâm thời của Hội nghị Tôn giáo và Hòa bình thế giới (World Conference on Religion and Peace / WCRP) và được cử làm ủy viên Ban thường trực. Tháng 4 cùng năm này, Pháp sư được bầu làm chủ tịch Liên Đoàn các Tôn giáo Nhật (Japan Religious League). Đến tháng bảy Pháp sư tham dự Đại hội lần thứ 20 của Hiệp hội Tự do Tôn giáo Quốc Tế (International Association for Religious Freedom / IARF) và được bầu làm ủy viên ban quản trị của hội.

Ngày 28 tháng tư năm 1970, Chánh Điện Phổ Môn của hội xây dựng hoàn thành. Tháng 10 cùng năm, Pháp sư bảo trợ và tổ chức Hội nghị Tôn giáo và Hòa Bình Thế giới (WCRP) lần thứ nhất tại Tokyo, hơn 300 đại biểu đến từ 39 quốc gia trên thế giới về dự để bàn thảo về các vấn đề như giải trừ quân bị, nhân quyền và kêu gọi chấm dứt cuộc chiến Việt Nam. Trong kỳ hội nghị này, Pháp sư được bầu làm Chủ tịch Hội WCRP tại Tokyo và là phó Chủ tịch hội WCRP Quốc tế. Cuối hội nghị, Pháp sư đã mời tất cả đại biểu đại hội tham dự buổi lễ cầu nguyện hòa bình được tổ chức tại chánh điện Phổ Môn của hội. Từ ngày 18 đến 23 tháng 12 cuối năm này, Pháp sư đến thăm miền nam Việt Nam để tìm giải pháp hòa bình cho vùng Đông Dương.

Tháng tư năm 1972, Pháp sư là người Nhật đầu tiên được bầu vào chức vụ chủ tịch Hiệp hội Tôn giáo và Hòa Bình Thế giới (WCRP). Tháng 5/1972, xuất bản cuốn "Giải pháp của Phật giáo về hòa bình" (A Buddhist Approach to Peace) bằng tiếng Nhật. Tháng 6 cùng năm này, Pháp sư được bầu làm thành viên Ban Cố Vấn Hội Tôn Giáo Nhật- My(Inter-Religious Consultation on Japanese-American Relations) trong kỳ hội nghị tại Hawaii. Đến tháng 8/1972, Pháp sư đi Tây Đức để dự Hội nghị lần thứ 21 của Hiệp hội Tự do Tôn giáo Quốc Tế.

Tháng tư năm 1974, Pháp sư nhận lời mời của Hội Thân Hữu Nhật-Trung và viếng thăm Hoa lục. Tháng 9 cùng năm, Pháp sư tham dự hội nghị WCRP lần thứ 2 tại Leuven, Bỉ quốc và được bầu làm Chủ tịch danh dự của hội WCRP quốc tế .

Tháng 3/1975, Pháp sư được Trường đại học Chicago, Hoa kỳ trao tặng bằng Tiến sĩ danh dự. Tháng 8, Pháp sư tham dự Hội nghị Tự do Tôn giáo Quốc Tế lần thứ 22 tại Canada. Ngày 15/11, sinh nhật lần thứ 70 của Pháp sư và cho xuất bản cuốn Đời sống phong phú hơn (The Richer Life) bằng tiếng Anh.

Tháng 2/1976, Pháp sư tham dự cuộc họp Ủy ban Thường Trực chuẩn bị cho Hội nghị Tôn giáo và Hòa bình châu A٠(Asian Conference on Religion and Peace/ACRP) tại Singapore. Tháng 3, Pháp sư cho ấn hành cuốn "Đạo Phật Ngày Nay, một diễn dịch mới về ba Kinh Pháp Hoa" (Buddhism for Today : A modern Interpretation of the Threefold Lotus Sutra) bằng tiếng Anh (cuốn sách này đã được GS Trần Tuấn Mẫn dịch ra tiếng Việt và VNCPHVN xuất bản năm 1997). Tháng 8, xuất bản cuốn "Nikkyo Niwano Tự Truyện" (Autobiography of Nikkyo Niwano) bằng tiếng Nhật.

Tháng 4/1977, Hội của Pháp sư tiếp nhận 102 thuyền nhân Việt nam. Tháng 12, cho xuất bản cuốn sách tiếng Anh : "Giải pháp của Phật giáo về hòa bình" (A Buddhist Approach to Peace).

Tháng 1/1978, Pháp sư được cử làm đại diện cho Hiệp hội Tôn giáo và Hòa Bình Thế giới (WCRP) dự hội nghị đặc biệt của Liên Hiệp Quốc (UN) về vấn đề giải trừ quân bị. Tháng 7, Pháp sư được bầu làm Phó Chủ tịch của Hiệp hội Tự do Tôn giáo Quốc Tế trong kỳ hội nghị lần thứ 23 tại Oxford, Anh quốc. Tháng 11, nhà khách Horin-Kaku của hội ở Tokyo xây dựng được hoàn thành. Tháng 12, cho xuất bản cuốn Suốt đời vẫn là người khởi đầu (Lifetime Beginner) bằng tiếng Anh. Tháng 12, Tổ chức Hòa Bình Niwano ra đời và Pháp sư được bầu làm Chủ tịch.

Tháng 4/1979, là nhà Tôn giáo người Nhật đầu tiên nhận giải thưởng Templeton Foundation cho công trạng hợp tác các tôn giáo của Pháp sư tại Luân Đôn, Anh quốc. Tháng 9, Pháp sư được bầu làm phó Chủ tịch danh dự của Hiệp hội Tôn giáo và Hòa Bình Thế giới (WCRP) tại hội nghị ở New Jersey, Hoa kỳ. Tháng 12, Pháp sư được Quốc hội và các nhà Lãnh đạo Tôn giáo Mỹ mời tham dự cuộc họp thương thảo với các nhà chính trị và tôn giáo Iran để giải thoát những con tin do Iran bắt giữ.

Tháng 6/1980, Pháp sư được Cộng hòa Hồi giáo Iran mời tham dự Hội nghị quốc tế về việc can thiệp của Mỹ ở Iran. Tháng 10, Pháp sư cho xuất bản cuốn Lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni, A Narrative Biography) bằng tiếng Anh.

Tháng 2/1981, Pháp sư được mời tham dự cuộc gặp giáo hoàng John Paul II cùng với 28 đại diện cho Tôn giáo khác ở Tokyo. Tháng 7, Pháp sư tham dự hội nghị IARF lần thứ 24 tại Hòa Lan, và được bầu vào chức Chủ tịch của hội này. Tháng 10, cho xuất bản cuốn "Kim chỉ nam về ba bộ Kinh Pháp Hoa" (A Guide to The Threefold Lotus Sutra) bằng tiếng Anh. Tháng 11, Pháp sư tham dự hội nghị ACRP lần thứ 2 tại New Delhi, Ấn độ.

Tháng 2/1982, Pháp sư xuất bản cuốn "Cuộc sống ý nghĩa" (The Meaningful life) và "Đời sống hạnh phúc gia đình "(The wholesome Family Life). Tháng 6, với tư cách là Chủ tịch Hiệp hội Tự do Tôn giáo Quốc Tế (IARF) Pháp sư tham dự phiên họp lần thứ 2 tại Liên Hiệp quốc về việc giải trừ quân bị. Tháng 9, Pháp sư viếng thăm nước Nga theo lời mời của Giáo hội Chính Thống giáo Nga (Russia Orthodox Church).

Tháng 11/1983, Pháp sư được Youth Mission Service của Ý trao giải thưởng hòa bình. Tháng 4/1984, Pháp sư nhận Giải thưởng Nhân đạo Quốc tế (the International Humanitarian Award) tại Ý. Tháng 7, tham dự hội nghị IARF lần thứ 25 ngay tại trụ sở của hội ở Tokyo. Tháng 8, Pháp sư tham dự hội nghị WCRP lần thứ 4 tại Nairobi và được bầu làm Chủ tịch danh dự của tổ chức này.

Tháng12/1985, Pháp sư là khách đặc biệt được mời phát biểu tại Đại hội kỷ niệm lần thứ 40 của LHQ Liên Hiệp quốc tổ chức tại Geneva. Tháng 6/1986, Pháp sư tham dự Hội nghị Tôn giáo và Hòa bình châu Á (Asian Conference on Religion and Peace / ACRP) lần thứ 3 tại Seoul, Hàn quốc. Tháng 4/1987, Pháp sư đọc diễn văn trong cuộc Hội thảo quốc tế tổ chức tại đại học quốc gia Nhật bản về chủ đề Tương lai nhân loại và hợp tác Tôn giáo (Future of Mankind and Cooperation among Religions).

Tháng 6/1988, với tư cách là Chủ tịch Hội Rissho Kosei-kai, Pháp sư được mời phát biểu lần thứ 3 tại hội nghị đặc biệt của Liên Hiệp Quốc (UN) về vấn đề giải trừ quân bị. Tháng 1/1989, tham dự Hội nghị Tôn giáo và Hòa Bình Thế giới (WCRP) lần thứ 5 tại Melbourne, Úc châu. Tháng 7/1990, cùng với các nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới tham dự Hội nghị Thế giới về thiếu nhi (World's Children Conference) tại Hoa kỳ.

Tháng 1/1991, với tư cách Chủ tịch WCRP, Pháp sư phát lời kêu gọi chấm dứt chiến tranh tại Vùng Vịnh. Tháng 3, Pháp sư phê chuẩn cho con trai trưởng là Nichiko Niwano, người kế thừa Pháp sư và là chủ tịch Hội Rissho Kosei-Kai. Tháng 10, Pháp sư tham dự hội nghị Hội nghị Tôn giáo và Hòa bình châu Á (ACRP) lần thứ 4 tại Katmandu, Nepal.

Tháng 10/1992, Pháp sư được bầu làm Chủ tịch danh dự Ban Điều Hành Shinshuren. Tháng 11, phát biểu tại Hội nghị về các quốc gia Trung Đông tổ chức tại Tokyo. Ngày 15/11, Pháp sư được Order of Saint Greory trao tặng Ngôi sao bạc trong dịp sinh nhật lần thứ 86 của ông.

Tháng 8/1993, Pháp sư được Ủy Ban Tôn giáo Quốc tế trao tặng Giải thưởng Thế kỷ (Centenary Award). Ngày 13/04/1994, bạn đời của Pháp sư , bà Naoko Niwano qua đời. Tháng 11, Pháp sư tham dự hội nghị WCRP lần thứ 6 tại Ý, đây là lần đầu tiên có Giáo hoàng Paul 2 tham dự và phát biểu tại hội nghị. Tháng 12, cho xuất bản cuốn Hàng mi vô hình (Invisible Eyelashes) bằng tiếng Anh.

Tháng 3/1996, thôi giữ chức Chủ tịch WCRP trong phiên họp Ban Điều Hành và Pháp sư được bầu làm Chủ tịch danh dự. Tháng 6, Pháp sư tham dự lễ kỷ niệm lần thứ 50 của Liên Đoàn Tôn Giáo Nhật bản. Tháng 10, nhận giải thưởng quốc tế do Franciscan Internation Center trao tặng. Tháng 8/1997, Pháp sư tham gia lễ cầu nguyện hòa bình thế giới do Hội liên Tôn giáo tổ chức tại Tokyo. Tháng 3/1998, đọc diễn văn trong lễ kỷ niệm lần thứ 60 của Hội Rissho Kosei-kai, có nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới về dự trong lễ này.

Ngày 5/3/1999, Pháp sư tham dự lễ kỷ niệm lần thứ 61 của Hội Pháp Hoa Rissho Kosei-kai và đến 10 giờ 34 phút sáng ngày 4 tháng 10 năm 1999, sau một thời gian pháp thể khiếm an, Pháp sư đã qua đời tại bệnh viện đa khoa ở Tokyo, hưởng thọ 92 tuổi.

Tang lễ của cố Pháp sư Nikkyo Niwano

Tin về sự qua đời của Pháp sư Nikkyo Niwano đã nhanh chóng loan đi các chi nhánh của Hội Pháp Hoa Rissho Kosei-kai trên khắp nước Nhật và thế giới. Tin buồn này đã được các hãng truyền hình thông báo ngay trong bản tin tức đầu tiên trong ngày và các tờ báo lớn của Nhật đều liên tục đưa tin về cuộc đời và sự nghiệp hoạt động tôn giáo của Pháp sư. Các nhà lãnh đạo tôn giáo, chính trị ở Nhật và nhiều quốc gia trên thế giới đã gởi điện thư chia buồn cho sự mất mát này.

Linh cữu của Pháp sư được quàn tại nhà riêng trong 3 ngày, vào ngày cuối cùng, linh cữu được đưa đến đặt tại Đại Thánh Đường (Great Sacred Hall) của hội. Tại nơi đây linh cữu được an trí sau tượng đài đức Phật Thích Ca và một buổi lễ truy điệu cử hành vào lúc 5 giờ 18 chiều ngày 6/10. Buổi lễ được truyền hình trực tiếp phát đi trên khắp Nhật Bản. Tiếp đó thành viên của Hội thay phiên tụng Kinh Pháp Hoa để nguyện cầu và trợ tiến giác linh của Pháp sư. Khi tụng đến phẩm Như Lai Thọ Lượng (Revelation of the Eternal Life of the Tathagata) và phẩm Thường Bất Khinh Bồ Tát (The Bodhisattva Never Despise), những giọt nước mắt xúc động chảy dài trên những khuôn mặt của thành viên.

Trong buổi lễ, hai bức điện thư chia buồn của Giám mục Ronrad Raiser, Tổng thư ký Ủy hội Gia Tô Thế giới ở Geneva, và một của giáo sư Andrea Riccardi, Chủ tịch Hội Thánh Egidio ở Ý, được đọc lớn để đại diện cho hàng trăm bức điện thư khác trên khắp thế giới. Tiếp đó, 18 người đại diện cho các đoàn thể đến trước linh cữu thắp hương để tưởng niệm cố giác linh Pháp sư Niwano, gồm có các vị như Hòa thượng Kinzo Takemura, cố vấn cho Hội Pháp Hoa Rissho Kosei-kai, Thủ tướng Nhật ông Keizo Obuchi .v.v… Lễ truy điệu kết thúc vào lúc 7 sau khi quan khách dâng hương hoa để tưởng niệm giác linh.

Từ chiều ngày 6 đến sáng ngày 10 tháng 10, các khóa lễ tụng kinh Pháp Hoa vẫn liên tục duy trì, có khoảng 30.900 thành viên đã phân thành 2 ban (Nhóm ban ngày có 21.700 người, chia thành 3 toán khác nhau, và nhóm ban đêm gồm có 9.200 thanh niên Phật tử tựu về từ tất cả chi nhánh trên khắp nước Nhật, dẫn đầu bởi đại đức Keiji Kunitomi, Chủ tịch Hội Thanh Niên) để luân phiên tụng niệm.

Lễ động quan và hỏa táng được cử hành vào sáng ngày 10/10, có khoảng 60.000 thành viên và quan khách hiện diện đông đủ tại Đại Thánh Đường để tham dự lễ. Tại đây tất cả đều thành kính trước linh cữu và bức chân dung luôn nở nụ cười của Pháp sư. Có khoảng 60.000 hoa cúc trắng và 16.000 hoa phong lan hồng và trắng được bài trí trước tượng đài Phật Thích Ca và xung quanh linh cữu của Pháp sư. Hoa phong lan trắng cũng được kết thành một vòng tròn để gắn lên bức chân dung của pháp sư như để biểu trưng cho tính toàn bích của Kinh Pháp Hoa, riêng hoa cúc trắng là biểu tượng nơi ra đời của pháp sư ở Suganuma đầy tuyết trắng bao phủ.

Lễ động quan này cũng được truyền hình trực tiếp qua vệ tinh, mở đầu hai dàn nhạc Tokyo Kosei và Kosei Gagaku đã trổi những bản nhạc tang lễ theo truyền thống của Nhật Bản, rất trang nghiêm và xúc động. Tiếp đó, một lần nữa thành viên của hội tụng Kinh Pháp Hoa với các phẩm Như Lai Thọ Lượng (Revelation of the Eternal Life of the Tathagata) và Như Lai Thần Lực (The Divine Power of the Tathagata).

Sau nghi thức tụng niệm là phần tuyên đọc tiểu sử, điếu văn tưởng niệm. Mở đầu là ông Nichiko, là trưởng tử và cũng là người kế thừa sự nghiệp của Pháp sư. Ông đã đại diện gia đình và toàn thể thành viên của hội dâng lời tri ân công đức đến pháp sư Niwano, người đã dâng tặng cả cuộc đời và lời dạy của mình để đem lại niềm vui sống cho mọi người. Và nhiều quan khách khác cũng đọc ai điếu, đó là Hòa Thượng Eshin Watanabe, tông chủ của Tông Thiên Thai, HT. Mitsushiro Fukata, chủ tịch Liên Đoàn Tân Tôn Giáo Nhật Bản, Tiến sĩ WilliamF. Vendley, Tổng thư ký Hội Tôn giáo và Hòa bình thế giới..v.v..

Tiếp đó linh cữu được đưa đi hỏa táng, trên linh cữu của pháp sư được đặt một quyển Kinh Pháp Hoa và một quyển giảng luận về kinh Pháp Hoa do chính pháp sư viết. Hàng chục ngàn người đứng dọc theo hai bên đường từ Đại Thánh Đường đến nơi hỏa táng, người ta nghe được tiếng nhạc tang lễ và tiếng khóc vang lên khi xe tang đi ngang qua. Tất cả mọi người đều xúc động và kính tiếc về sự ra đi của một con người vĩ đại đã cống hiến trọn đời mình cho hạnh phúc nhân sinh.

Linh cữu của pháp sư được hỏa táng vào lúc 1 giờ 25 chiều tại quận Suginami, Tokyo. Và đến 2 giờ 40 cùng ngày, tro hỏa táng được thỉnh về tôn thờ ngay trên lầu 7 của Đại Thánh Đường, nơi thờ phụng thành viên quá cố của hội.

Cũng trong thời gian tang lễ xảy ra ở Nhật bản, các chi nhánh của Rissho Kosei Kai ở nước ngoài như Triều Tiên, Tích Lan, Đài Loan, Thái Lan, Bangladesh, Hong Kong, Nepal, Úc châu, Anh quốc, Geneva, Brazil, Hoa Kỳ .v.v...đều tổ chức các khóa lễ truy điệu và trợ tiến giác linh Pháp sư Niwano.

Đôi nét về Hội Phật Giáo Lập Chánh Giảo Thành (Rissho Kosei-kai)

Hội do pháp sư Niwano thành lập vào năm 1938, từ 38 thành viên lúc ban đầu đến nay đã có hơn 6,5 triệu hội viên và đã trở thành một Hiệp hội Phật tử tại gia (Lay Buddhist Organisation) lớn nhất ở Nhật bản và trên thế giới. Cở sở sinh hoạt của hội hiện này gồm có:

  1. Nhà khách Horin-kaku : dùng cho những hoạt động hợp tác tôn giáo và hòa bình thế giới.
  2. Đại sảnh Phổ Môn ở Osaka: là một trung tâm hoạt động tôn giáo ở miền Tây Nhật Bản.
  3. Trường y khoa Kosei: nơi đào tạo sinh viên y khoa để trở thành những y, bác sĩ điều trị bệnh theo tinh thần của PG.
  4. Bệnh viện đa khoa Kosei : nơi điều trị và chăm sóc sức khỏe cho thành viên và mọi người.
  5. Nhà khách hành hương: nơi cung cấp nơi ăn chốn ở cho du khách đến thăm hội
  6. Đại thánh đường: trung tâm chính cho những hoạt động tôn giáo của hội.
  7. Đại sảnh Phổ Môn: sử dụng cho nhiều mục đích của hội bao gồm một sân khấu lớn và một hội trường lớn với đầy đủ tiện nghi để tổ chức hội nghị thế giới.
  8. Trụ sở Kosei: bao gồm văn phòng chính và các ban ngành của hội.
  9. Nhà xuât bản Kosei-kai: chuyên lo in ấn sách báo của hội và nhiều tổ chức PG khác.
  10. Trường Trung học Kosei-gakuen.
  11. Trường Cao đẳng Hoju-Jogakuin.
  12. Thư viện Kosei.

Lời kết

Cuộc đời và đạo nghiệp của pháp sư Niwano là một tấm gương sáng ngời trong tinh thần hòa hợp hòa giải tôn giáo nói chung cũng như hộ trì và phát triển đạo Phật trên thế gian này. Sự ra đi của pháp sư Niwano là một mất mát to lớn cho tôn giáo thế giới và Phật giáo nói riêng. Hy vọng rằng sự nghiệp hoằng dương Chánh Pháp của Pháp sư sẽ được các thành viên của Rissho Kosei-kai kế thừa, duy trì và làm lớn mạnh hơn nữa trong tương lai./.


Tổng hợp theo tạp chí Dharma World, Jan/Feb. 2000, Vol 27 (Special Memorial Issue for Rev. Nikkyo Niwano, (http://www5.mediagalaxy.co.jp/kosei/index1.html ).

http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/nguoi/030-Nikkyo Niwano.htm

 


Cập nhật: 1-8-2000

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang