Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Đức Tin Công Giáo
Trần Chung Ngọc

CHƯƠNG II
KINH TIN KÍNH CÔNG GIÁO

   Trong chương này, tôi sẽ thảo luận về Đức Tin Ca-Tô (Catholic Faith) trong ánh sáng của Khoa Học và Lý Trí.  Như  đã viết trong phần Dẫn Nhập, Đức Tin và Lý Trí là hai con đường trái ngược nhau, con đường đi tới mê tín đối với con đường đi tới hiểu biết.  Nhưng chúng ta đã biết, gần đây Giáo Hoàng Gion Pôn Hai (John Paul II) đã gửi một bức thư thông tri (Encyclical letter) cho các giám mục của ông về đề tài "Mối quan hệ giữa đức tin và lý trí " (The relationship between faith and reason).  Trước khi bàn đến mối quan hệ giữa Đức Tin và Lý Trí, chúng ta cần phải biết rõ định nghĩa của hai từ này.  Tôi dịch "Faith" là Đức Tin và "Reason" là Lý Trí. 

   Theo định nghĩa của H. L. Mencken thì Faith hay Đức Tin là "một kiểu tin phi-lôgic vào sự xảy ra của những gì không chắc có thực" (an illogical belief in the occurrence of the improbable).  Theo định nghĩa trong tự điển thì Faith hay Đức Tin là "sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực" (Firm belief  in something for which there is no proof.)  Định nghĩa của Reason hay Lý Trí trong tự điển là "khả năng có những tư tưởng hợp lý, suy lý, hoặc phân biệt" (The capacity of rational thought, inference, or discrimination) hay "suy xét đúng, phán đoán hợp lý" (good judgment, sound sense).  Theo những định nghĩa trên thì hiển nhiên là Đức Tin Ca-Tô Giáo Rô-Ma và Lý Trí là hai từ có nghĩa loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), có cái này thì không có cái kia.  Thật vậy, khi chúng ta dùng lý trí để xác định và chấp nhận một điều gì thì chúng ta không cần đến đức tin, và khi chúng ta tin vào điều gì mà không cần biết, không cần hiểu, thì lý trí trở nên thừa thãi.  Trong Ca- Tô Giáo Rô-Ma có nhiều thí dụ để chứng minh luận điểm này.   Trước hết, chúng ta hãy nghe một lời Thánh phán.

   Thánh Ignatius of Loyola (1491-1536), người sáng lập dòng Tên, phán rằng:

   Chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng tin rằng cái mà chúng ta thấy là trắng thực sự là đen, nếu hàng giáo phẩm trong Giáo hội quyết định như vậy. 1

   Cho nên, bất kể những quyết định của Giáo hội phi lý đến đâu, phản tiến bộ và phản khoa học đến đâu, xúc phạm đến các tôn giáo khác đến đâu, các tín đồ Ca-Tô chỉ có việc nhắm mắt tin theo, không cần biết, không cần hiểu, và lẽ dĩ nhiên không bao giờ cần dùng đến lý trí.  Nhưng trong giáo hội Ca-Tô không phải chỉ có toàn những người nhắm mắt tin theo tất cả những lời "giáo hội dạy rằng", mà còn có những vị thuộc giới lãnh đạo Ca-Tô Giáo và những tín đồ trí thức đã dùng lý trí để phân tích toàn bộ giáo lý của Ca-Tô Giáo và đưa ra những nhận định về chính tôn giáo của mình.  Những nhận định này sẽ được trích dẫn, khi cần, trong phần phân tích Đức Tin Ca-Tô sau đây.

   Tín đồ Ca-Tô tin nhiều thứ lắm. 

   Họ tin rằng Thánh Kinh là những lời "mạc khải" của Thần Ki Tô nên không thể nào sai lầm, tuy ngày nay bằng chứng tràn ngập cho thấy vô số những điều trong Thánh Kinh sai lầm về cả Thần học lẫn khoa học.

   Họ tin rằng Thánh Linh hay Thánh Ma (Holy ghost) có thể làm cho Bà Mary mang thai rồi sinh ra Giêsu, tuy ngày nay khoa sinh học đã chứng minh rằng không có tinh trùng của phái Nam, Mary chỉ có thể sinh ra con gái (như sẽ được trình bày với nhiều chi tiết hơn trong một đoạn sau.)  Một hồn ma nhập vào người mà có tinh khí gồm 2 loại sắc tố (chromosome) X và Y để có thể làm cho người đàn bà thụ thai và sinh ra con trai là điều không tưởng.

   Họ cũng tin rằng Thánh Ma là nguồn tâm linh  hướng dẫn giáo hội, dẫn dắt các Hồng Y trong việc bầu Giáo Hoàng. Vậy mà giáo hội đã phạm 7 núi tội lỗi đối với nhân loại, và ngày nay các nhà nghiên cứu về Ca-Tô Giáo đã chứng tỏ từ xưa tới nay, Giáo Hoàng lên ngôi phần lớn dựa vào bạo lực và bằng những thủ đoạn, âm mưu, đàng sau hậu trường, khoan kể là số Giáo hoàng vô luân, vô đạo đức trong Ca-Tô Giáo không phải là nhỏ.  Những sự kiện lịch sử này sẽ được trình bày trong một phần sau.

   Họ tin rằng Giáo Hoàng là đại diện của Chúa (Vicar of Christ) trên trần, giữ trong tay những chìa khóa mở cửa Thiên đường, tuy Tiến sĩ Arthur Frederick Ide, sau khi nghiên cứu lịch sử các Giáo hoàng, đã viết trong cuốn Unzipped: The Popes Bare All, rằng các Giáo hoàng thực sự chỉ giữ những chìa khóa mở những cánh cửa vào nhục dục, trụy lạc, và bạo lực (..which history shows actually open the doors to sex, vice, and violence).  Thiên đường chỉ là một hứa hẹn trống rỗng mà mà giáo hội nhồi vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ, chứ thực tế không có một căn bản thuyết phục nào về sự hiện hữu của Thiên đường, và cũng chưa có ai biết Thiên đường ở đâu, như thế nào.  Cho nên, trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, nhất là, trước những bằng chứng tràn ngập của những khám phá khoa học về vũ trụ, gần đây, tháng 7, 1999, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai đã phải tuyên bố: "Thiên đường chẳng phải ở trên Trời, trên các tầng mây, Thiên đường ở trong Tâm con người". 

   Tuy nhiên, Ngài vẫn tự cho rằng mình có quyền, hoặc Vatican có quyền, "tuyệt thông" tín đồ, nghĩa là quyền khai trừ tín đồ ra khỏi giáo hội, không cho tín đồ hưởng các "bí tích" trong "hội Thánh" và lên Thiên đường hiệp thông cùng Chúa.  Đối với những tín đồ thấp kém, nhẹ dạ, cả tin, "tuyệt thông" hay "dứt phép thông công" là một vũ khí hù dọa hữu hiệu, vì họ đã được nhồi vào đầu từ khi con nhỏ là muốn hiệp thông với Chúa thì phải đi qua các trung gian như Linh mục, Giám mục, Giáo hoàng hay "Tòa Thánh".   Nhưng đối với giới trí thức, ngay cả trong giáo hội, thì đó chỉ là một trò cười đáng khinh vì nó vô giá trị, vô nghĩa và lỗi thời.  Thật vậy, trong cuốn Thần Chưa Chết: Từ Sự Sợ Hãi Tôn Giáo Đến Sự Tự Do Tâm Linh, Linh Mục James Kavanaugh đã vạch rõ cho chúng ta thấy bản chất và ý nghĩa của "tuyệt thông" như sau:

   Tôi thấy khó mà có thể tin được là trong thời đại kỹ thuật không gian này mà một đoàn thể tôn giáo (Ca-Tô giáo. TCN) lại có thể quá lỗi thời để tin rằng một hình phạt thuộc loại huyền thoại như vậy vẫn còn có ý nghĩa gì đối với con người.

...Tuyệt thông,  trong nhiều thế kỷ, đã là vai trò của giới quyền lực đóng vai Thượng  đế .  Đó là sự chối bỏ sự tự do suy tư của con người một cách vô nhân đạo và phi-ki-tô.  Nhưng nhất là, nó đã là nỗ lực điên cuồng của một quyền lực, vì quá lo sợ mất đi quyền lực của mình, nên phải kiểm soát tín đồ thay vì hướng dẫn họ đi tới một tình yêu thương tự do và trưởng thành.

   Tuyệt thông toan tính biến sự thực chứng tôn giáo thành một trại huấn luyện quân sự trong đó sĩ quan phụ trách nhào nặn lên những người máy trung thành bằng cách làm chúng ngạt thở bởi giam hãm và sỉ nhục.  Có thể những phương pháp này có nghĩa trong việc huấn luyện con người để chiến đấu ngoài mặt trận.  Những phương pháp này thực là trẻ con và bất lương khi xử lý với sự liên hệ của con người đối với Thượng đế; nhưng thật không thể tin được là chúng vẫn còn tồn tại. 2

   Họ tin rằng linh mục mà họ thường gọi một cách sai lầm là cha, cũng là một Chúa khác.  Một người học nghề linh mục trong mấy năm để trở thành một loa phóng thanh cho các "bề trên" mũi lõ mắt xanh ngồi ở tận Rô-Ma xa xôi là có thể thay Chúa tha tội cho họ, dù chính bản thân nhiều vị linh mục, về kiến thức cũng như về đạo đức, còn thua và tội lỗi hơn cả tín đồ.  Thật vậy, số linh mục đồng giống luyến ái (gay priests), nghiện rượu (alcoholic priests), bị bệnh AIDS, phạm tội cưỡng bách tình dục trẻ em (child abuse) đã lên tới mức độ mà Tòa Thánh không có cách nào che dấu bằng cách thuyên chuyển họ đi một giáo xứ khác như trước, đành phải lập ra những ủy ban nghiên cứu để giải quyết vấn đề, cùng gửi họ đi các trung tâm chữa trị, phí tổn lên đến trên tỷ đô la.  Tín đồ Ca-Tô biết rất ít về các linh mục, giám mục v...v... của họ, họ vẫn tin rằng các "bề trên" này của họ là cao quý, đạo đức lắm.  Họ không đọc lịch sử các Giáo hoàng, họ không đọc lịch sử cái mà họ gọi là "Hội Thánh". Đôi khi trong đám tín đồ cũng có người biết những chuyện động trời của các linh mục nhưng họ không dám động gì tới họ vì Giáo hội dạy rằng như vậy là mang tội với Chúa.  Thật là tội nghiệp cho họ.

   Họ được dạy rằng quyền phán xét các linh mục là thuộc về Chúa.  Do đó, họ không cần để ý đến chuyện Chúa có thể tha tội cho linh mục của họ, nhưng chính quyền dân sự lại vượt trên quyền của Chúa, vẫn đưa "Cha cũng như Chúa" của họ vào nhà tù như thường nếu "Cha cũng như Chúa" của họ phạm những tội hình dân sự. 

   Nếu kể hết những điều tín đồ Ca-Tô tin thì quá dài, nên sau đây tôi chỉ luận qua một số tín điều căn bản trong Ca-Tô Giáo  Rô-Ma.

   Căn bản những niềm tin chính trong Ca-Tô Giáo được gói ghém trong bản Kinh Tin Kính của các Tông Đồ (Apostle's Creed) thường gọi tắt là Kinh Tin Kính, đặt ra khoảng năm 150.  Trong thời đại đế Constantine, qua công đồng Nicene năm 325, kinh này được thêm vào vài đoạn nâng Giêsu Kitô (Chúa Con) lên cùng hàng với Chúa Cha với những lời có tính cách mơ hồ, trống rỗng vô nghĩa như "Thần của Thần, ánh sáng của ánh sáng" (God of God, light of light) v..v..  Kinh này đưa đến một sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa giáo hội miền Đông và giáo hội miền Tây.  Đến thế kỷ thứ 7, kinh này lại được thay đổi và thêm vào thuyết Chúa Ba Ngôi và nhiều điều hoang đường nữa, dài hơn kinh Tông đồ và kinh Nicene nhiều.  Kinh này có tên là Kinh Tin Kính Athanasius.  Vì kinh này dài và lủng củng nên chẳng có mấy ai đọc nó.   Anh Giáo thường dùng kinh Nicene làm căn bản và Ca-Tô Giáo dùng kinh Tông đồ làm căn bản.  Trong sách Giáo Lý Công Giáo của Việt Nam chỉ có kinh Tin Kính của Tông đồ chứ không có những kinh Nicene hay Athanasius.

   Nguyên văn bản kinh như sau, chúng ta nên để ý rằng bản kinh bằng tiếng Việt (Sách Giáo Lý Công Giáo, nxb Zieleks, Texas, 1991, trg. 14) có vài chỗ không đúng với bản kinh bằng tiếng Anh.

Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng
dựng nên trời đất.
Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu KiTô
là con một Đức Chúa Cha cũng là Chúa chúng tôi,
bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai,
sinh bởi bà Maria đồng trinh,
chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô,
chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết và táng xác,
xuống ngục tổ tông,
ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại,
lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng;
ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần.
Tôi tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này,
Các Thánh thông công.
Tôi tin phép tha tội.
Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.
Tôi tin hằng sống vậy.  Amen.

   Có vẻ như Kinh Tin Kính tiếng Việt ở trên pha trộn hai bản văn khác nhau, cũ và mới.  Để cho vấn đề được rõ ràng và dễ bề so sánh, tôi xin đăng nguyên 2 văn bản tiếng Anh như sau.  Những phần để trong dấu ngoặc cong (..) là thuộc bản văn mới trong cuốn Catechism of the Catholic Church, xuất bản năm 1994, hoặc để thay một từ cũ (có gạch dưới), hoặc mới thêm vào.  Còn những phần trong dấu ngoặc thẳng [..] là trong bản văn cũ được bỏ đi: 

I believe in God the Father Almighty,
maker (creator) of heaven and earth
And in Jesus Christ, his only Son, our Lord
who (He) was conceived by (the power of) the Holy Spirit,
(and) born of the Virgin Mary;
(Jesus Christ) suffered under Pontitus Pilate,
was crucified, dead (died), and (was) burried;
he descended into hell
(on) the third day he rose again [from the dead];
he ascended into heaven
and sitteth (is seated) on (at) the right hand of
[God] the Father [Almighty]
from thence he shall (will) come (again)
to judge the living and the dead.
I believe in the Holy Spirit,
(I believe in) the holy catholic church,
[the communion of saints]
(I believe in) the forgiveness of sins,
(I believe in) the resurrection of the body,
(I believe in) [and the] life everlasting, Amen.

      Bản kinh trên rõ ràng là sản phẩm của một số người ở vài thế kỷ đầu, không hiểu gì về vũ trụ học, sinh học, di truyền học, sinh hóa học, cổ sinh vật học, địa chất học, vật lý học hiện đại v...v..., những môn học mới phát triển trong những thế kỷ gần đây.  Ngoài ra, bản kinh này còn chứa nhiều điều mâu thuẫn, phi lý, hoang đường, chỉ hợp với những tín đồ đã bị điều kiện hóa, không có khả năng tự mình suy nghĩ. Chứng minh? 

   Trước hết, tưởng chúng ta cũng nên biết, Giám Mục John Shelby Spong đã viết một cuốn khảo luận nhan đề Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Hoặc Chết trong đó ông đưa ra một nhận định tổng quát về Kinh Tin Kính:

   Những lời trong Kinh Tin Kính của các Tông đồ, và sau đó được khai triển thành Kinh Tin Kính Nicene, được nặn ra trong một thế giới quan mà ngày nay không còn hiện hữu.  Thật vậy, thế giới quan này thật là xa lạ đối với thế giới mà tôi đang sống trong đó.  Cách nhận thức thực tại khi những Kinh Tin Kính của Ki Tô Giáo được đề ra thì nay đã bị xóa sạch bởi sự phát triển hiểu biết của con người. 3  

   Muốn hiểu tại sao Giám Mục Spong lại nhận định như trên, chúng ta hãy phân tích những lời kinh này từng câu một trong ánh sáng của lý trí, của khoa học hiện đại và thực tế.  

     Kinh mở đầu bằng câu: "Tôi Tin Kính Đức Chúa Trời..." .

      Với sự hiểu biết của con người hiện nay thì câu trên trở thành vô nghĩa và huyền hoặc, không hợp với thực tế.  Tín đồ Ca-Tô Việt Nam dịch God là Đức Chúa Trời trong khi, như chúng ta đã biết, God trong Ki Tô Giáo chỉ là một vị Thần của một dân tộc hay một bộ lạc Do Thái cổ xưa.  Mặt khác, người Ca-Tô hiểu rằng Trời là trụ xứ của Thần Ki Tô (Christian God) như được mô tả trong Thánh Kinh, nghĩa là ở trên các tầng mây một chút, vì vậy họ thường ngẩng mặt cầu nguyện "Lạy Cha chúng tôi ở trên Trời".   Cũng vì vậy mà họ gọi cái "nhà ở trên trời", nơi Chúa ngự, là "Thiên đường", đường tiếng Hán có nghĩa là cái nhà.  Trong một phần sau, tôi sẽ trình bày với nhiều chi tiết hơn về cái gọi là "vòm Trời" trong Thánh Kinh.  Ngày nay, cái vòm Trời như được mô tả trong Thánh Kinh đã tan vỡ ra thành từng mảng trước những khám phá của khoa học về vũ trụ.   Khi con người bắt đầu ý thức được rằng, qua những khám phá của Copernicus và Galileo, chẳng có vòm Trời nào để cho "Chúa Trời" ngự trên đó mà phán xét, thưởng phạt con người, thì những nhà bảo vệ tín lý Ki Tô Giáo bèn thay đổi chỗ ở của "Chúa Trời", sửa lại là "Chúa Trời" không ở "trên đó" (up there) mà ở  "ngoài đó" (out there), hàm ý ở khắp mọi nơi, hi vọng sự thay đổi này sẽ làm cho con người tin vào "Chúa Trời" hơn.  Nhưng, với một vũ trụ được cả thế giới, kể cả Tòa Thánh Vatican, công nhận là vô biên, thiên hà Andromeda gần giải ngân hà của chúng ta nhất cũng cách xa chúng ta khoảng 2 triệu năm ánh sáng, và vũ trụ gồm cả tỷ thiên hà như vậy, có thiên hà cách xa chúng ta cả 15 tỷ năm ánh sáng, mỗi năm ánh sáng là một khoảng cách vào khoảng 9460800000000 cây số (9 ngàn 4 trăm 60 tỷ 8 trăm triệu), thì "Chúa Trời" ngự ở đâu?  Cả "trên đó" và "ngoài đó" đều không có ý nghĩa. Chưa kể là thay đổi từ "trên đó" thành "ngoài đó" hàm ý bác bỏ một điều tin trong Kinh Tin Kính: "Sau khi chết Chúa Con lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha".   Khoa học tiến tới đâu thì "Chúa Trời" lui tới đó, và hiện nay "Chúa Trời" đã bị đẩy ra khỏi "vòm Trời" tưởng tượng của những người viết Thánh Kinh, và rơi vào cõi hoang tưởng của những người có đầu mà không có óc. Trước khi đi vào chi tiết vấn đề này, tưởng chúng ta cũng nên tìm hiểu về nguồn gốc đức tin Ca-Tô về một "Chúa Trời".

   Đức tin Ki Tô nói chung, Ca-Tô nói riêng, bắt nguồn từ một thế giới khác hẳn với thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay.  Trong thế giới đó, thế giới của người Do Thái, trí tuệ con người chưa mở mang.  Trong thế kỷ đầu, khi các Phúc Âm trong Tân Ước được viết ra, quan niệm về thế giới viết trong Cựu Ước chỉ phản ánh sự hiểu biết của người Do Thái trong thời đó về vũ trụ.  Nhưng Ki Tô Giáo cho đó là những lời mạc khải của "Chúa Trời" nên không thể sai lầm, vì một điều sai lầm trong Thánh Kinh sẽ đưa tới kết luận là tư cách thần thánh, toàn năng, toàn trí của Chúa Trời, theo như "giáo hội dạy rằng", chỉ là điều tưởng tượng của những người khi xưa sùng tín Thần của họ.

   Theo Cựu Ước thì vũ trụ gồm có ba tầng:  trái đất mà chúng ta đang sống trên đó thì phẳng và dẹt như một cái đĩa, là trung tâm của vũ trụ, đứng vững dưới một tầng trời, ở dưới trái đất là tầng địa ngục.  Tầng trời được hiểu là nơi trú ngụ của "Chúa Trời", nơi đây "Chúa Trời" thường xuyên ngồi xem xét  những chuyện của con người và can thiệp vào những chuyện thế gian.  Cho nên, những gì mà trí tuệ con người thời đó chưa hiểu nổi, thí dụ như thiên tai, bệnh tật, và ngay cả những hiện tượng thiên nhiên như sấm, sét v..v... đều được coi là những hành động của "Chúa Trời" (acts of God) để trừng phạt tội lỗi của con người, những vụ được mùa được coi là ân sủng của "Chúa Trời".  Ngày nay, chúng đã biết, và biết rất rõ, nguyên nhân của những hiện tượng thiên nhiên và có thể tiên đoán khá chính xác khi nào thiên tai nào xảy ra và ở đâu.

   Trải qua 16 thế kỷ, niềm tin tất cả là do "Chúa Trời" tạo ra đã tạo thành đức tin của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo nói riêng, ở phương trời Âu Mỹ.  Nhưng khi nền văn minh hiện đại bắt đầu ló dạng vào đầu thế kỷ 16 thì quan niệm về một Thiên Đường nơi đó "Chúa Trời" ngồi để phán xét những việc thế gian cũng bắt đầu chao đảo và hiện nay thì trở thành Hoang Đường (cái nhà hoang), ít ra là đối với đa số dân chúng trên thế giới, nhất là đối với tuyệt đại đa số những người trong giới trí thức hiểu biết.  Muốn chứng minh luận cứ này, chúng ta cần trở lại sự tiến bộ của nhân loại từ khi cuộc cách mạng khoa học bắt đầu.    

   Có thể nói rằng cuộc cách mạng tư tưởng của Tây phương bắt đầu bằng những công cuộc khảo cứu của Nicolaus Copernicus (1473-1573) khi ông nghiên cứu vũ trụ, khi đó chỉ gồm có mặt trời, trái đất và trăng sao mà con người nhìn thấy trên trời.  Ông đưa ra một nhận định phá đổ dứt khoát quan niệm về trời mà con người khi đó cho là trụ xứ của "Chúa Trời".  Nhận định của Copernicus có ít người biết đến cho đến khi Galileo Galilei (1564-1642), dựa trên những tư tưởng của Copernicus và trên những kết quả quan sát thực nghiệm, xác định lại quan niệm về vũ trụ và vị thế của trái đất trong vũ trụ.  Galilei đi tới kết luận là không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất như đã viết trong Thánh Kinh mà chính là trái đất quay xung quanh mặt trời.  Kết luận này làm thay đổi toàn bộ hệ thống tư tưởng của con người về vũ trụ, và làm "lạnh xương sống" giới giáo sĩ Ca-Tô Giáo, những kẻ buôn bán quyền lực (power brokers) thời đó, những kẻ xây dựng quyền lực trên sự "không thể sai lầm của Thánh Kinh" và trên sự hiểu biết vô cùng giới hạn của quần chúng Tây phương.  Nói rõ hơn, trái đất không còn được coi như là đứng yên, trung tâm của vũ trụ như là "lời không thể sai lầm" của "Chúa Trời" trong Thánh Kinh, và vì thực tế là trái đất luôn luôn di chuyển trong không gian với một vận tốc trên 1 trăm ngàn cây số một giờ, đồng thời quay xung quanh trục Nam Bắc với vận tốc quay khoảng 1600 cây số một giờ cho nên không có chỗ nào để cho "Chúa Trời" ngồi yên "trên đó" hay "ngoài đó"à can thiệp vào việc hàng ngày của thế gian.  Muốn theo dõi sự việc trên thế gian để mà can thiệp, "Chúa Trời" cũng phải điên đảo, đảo điên như là trái đất đang điên đảo, đảo điên trong không gian.  Cũng vì vậy mà, như trên đã nói, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai, trước sự tiến bộ của khoa học, đã phải thú nhận: "Không làm gì có Thiên đường ở trên các tầng mây."

   Trên đây là những điều mà hầu như cả thế giới chấp nhận, kể cả một số trong hàng giáo phẩm Ca-Tô Giáo gồm có Giám mục, Linh mục và một số trí thức trong chính giáo hội, qua sự phân tích khoa học, dùng lý trí suy luận để tìm ra sự thực.  Đối với đa số tín đồ mà lý trí được coi như là một xa xỉ phẩm không cần thiết thì vấn đề lại khác hẳn, vì họ vẫn còn tin theo lời dạy giả dối của giáo hội cho đám tín đồ thấp kém, rằng "Chúa Trời" toàn năng, hay là "phép tắc vô cùng", làm gì cũng được.  Đây chính là câu tiếp theo trong Kinh Tin Kính mà chúng ta sẽ thảo luận:

"... Là Cha Phép Tắc Vô Cùng"

   "Chúa Trời" bây giờ được gọi là Cha, nghĩa là giống đực.   Tại sao lại là Cha mà không phải là Mẹ?  Căn bản giống đực của "Chúa Trời" dựa vào đâu?  Chữ "Cha" trong câu kinh này chẳng qua chỉ là sản phẩm của những người sống trong thời đại và địa phương theo chế độ phụ hệ, kỳ thị và coi rẻ phái nữ.  Chính chữ "Cha" này đã được các giáo hội Ki Tô dùng làm căn bản "truyền thống thiêng liêng của giáo hội" (sacred tradition of the Church) trong suốt 20 thế kỷ nay để biện minh cho đường lối coi thường và đàn áp phái nữ, kéo dài cho tới tận ngày nay.

   Chúng ta biết rằng, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai đã ra thông tri quyết định không chấp thuận cho phái nữ làm linh mục với lời tuyên bố: "Trong Giáo hội Ca-Tô Rô-Ma, đàn bà sẽ không bao giờ được làm linh mục, vì Giêsu không chọn người đàn bà nào làm tông đồ của Người" (Women will never be priests in the Roman Catholic Church because Jesus did not choose any women to be his disciples).  Có người hỏi lại rằng: "Thế Giêsu có chọn một người Ba Lan nào làm tông đồ của Người không?  Tại sao một người Ba Lan như Karol Jozef  Wojtyla (tên tục của Giôn Pôn Hai) vẫn có thể làm linh mục, rồi leo lên làm Giáo hoàng, một địa vị mà "giáo hội dạy rằng" kế nghiệp Phê-rô, làm đại diện cho Giêsu trên trần?"  Có cách nào trả lời câu hỏi trên cho hợp lý ngoài cách dựa vào một tín điều: "Giáo hoàng là một bí nhiệm"?  "Bí nhiệm" là từ giáo hội thường dùng để "giải thích" những điều "bí đặc", không thể giải thích được cho nó hợp lý.  Khi giáo hội tuyên bố đó là một  bí nhiệm thì con người chỉ có thể hoặc tin hoặc chối bỏ, không phải là vấn đề để thắc mắc, bàn cãi.  Mọi lý luận đều trở thành vô giá trị, do đó lý trí trở thành thừa thãi.

   Nhưng không phải chỉ có chữ "Cha" trong kinh Tin Kính mang sắc thái coi thường, hạ thấp phụ nữ mà trong cuốn Thánh Kinh chúng ta cũng thấy đầy những tư tưởng kỳ thị, coi rẻ phụ nữ, coi phụ nữ như là vật sở hữu của đàn ông, là công dân hạng hai, nhơ nhớp v..v...

   Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong Thánh Kinh.  Thánh Phao Lồ phán, 1 Cor. 11: 3:

   Nhưng còn điều này tôi muốn nhắc anh em:  Chúa Cứu Thế là chủ của người Nam; Người Nam là chủ của người Nữ; Thượng đế là chủ của Chúa Cứu Thế (mâu thuẫn với thuyết Chúa Ba Ngôi. TCN)..

    Và trong 1 Timothy 2: 2: 11-12 chúng ta đọc:

   Người đàn bà hãy học hỏi trong yên lặng, với tinh thần tuân phục.  Ta không cho phép người đàn bà nào  dạy hoặc có quyền đối với đàn ông, mà phải yên lặng.

          Chẳng thế mà một số Thánh nổi tiếng trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma đã đưa ra những nhận định kỳ thị phái nữ, những nhận định có thể đưa các Ngài vào tù trong thời đại này.  Thí dụ, Thánh Augustine (354-430) (cha đẻ của nền Thần học Ca-Tô và được Ca-Tô Giáo tôn sùng, coi như là có trí tuệ "siêu việt", tác giả cuốn Đô Thị Của Thần Ki Tô), đã phán:

   Người đàn bà, khi xét cùng với chồng, là hình ảnh của Thần Ki Tô .., nhưng khi xét riêng là đàn bà...thì không phải là hình ảnh của Thần, nhưng đối với người đàn ông xét riêng, thì đó là hình ảnh của Thần. 4

   Thánh Jerome (347-420) thì phán:

   Đàn bà là cửa ngõ của quỷ, của đường xấu xa, cái chích của con bọ cạp, nói tóm lại, là một thứ nguy hiểm. 5

   Và Thánh   John Chrysostom (347-407) coi đàn bà còn tai hại hơn là thú dữ:

        Trong những thú dữ, không có con nào gây hại như   một người đàn bà. 6

Còn Thánh Anthony (1195-1231) thì coi đàn bà như là quỷ, là rắn:

Khi các ngươi thấy một người đàn bà, hãy coi như là các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính là một con quỷ.  Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con rắn. 7

     Như vậy, chúng ta đã hiểu tại sao Ruth Hurmence Green, một phụ nữ đã trưởng thành trong một gia đình Ca-Tô và trong nền giáo dục Ca-Tô, đã phải viết như sau trong cuốn "Quyển sách của Ruth":  

    Không có một trang sách nào trong Thánh Kinh mà không làm tôi bất bình về một phương diện nào đó... Và khi tôi thấy Thánh Kinh coi thường phụ nữ thường là tôi muốn quẳng nó ra cuối phòng.   Tôi nguyện không bao giờ còn cầm cuốn Thánh Kinh một cách lộ liễu trên tay ở nơi công cộng. 8 

   Quý độc giả nào muốn biết rõ hơn về căn bản kỳ thị, khinh rẻ phụ nữ trong Thánh Kinh, xin đọc cuốn Ki Tô Giáo, Chế Độ Nam Trị, Và Sự Lạm Dụng: Một Phê Bình Của Phái Nữ (Christianity, Patriarchy, and Abuse: A Feminist Critique) của Joanne Carlson Brown và Carole R. Bohn, trong đó có 10 bài tiểu luận về các đề tài xung quanh vấn đề kỳ thị phụ nữ viết bởi các giáo sư đại học phái nữ.  Thật là tội nghiệp cho những tín đồ phụ nữ trong giáo hội Ca-Tô, vì một lời hứa hẹn hão huyền về một cái bánh vẽ "cứu rỗi" trên trời mà phải chịu an phận với sự kỳ thị đã được nuôi dưỡng bởi giáo hội trong suốt 20 thế kỷ.

   Giám Mục Spong cũng cho rằng chữ "Cha" trong kinh Tin Kính đã được dùng trong nhiều ngàn năm để biện minh cho sự đàn áp phụ nữ của các định chế tôn giáo (Ibid., trang 5): "The word Father...shouts of the masculinity of the deity, a concept that has been used for thousands of years to justify the oppression of women by religious institutions..."

   "Phép tắc vô cùng" là dịch sai từ chữ "Almighty".  Vì "phép tắc vô cùng" làm ta liên tưởng đến Tề Thiên Đại Thánh, đệ tử của Đường Tăng Trần Huyền Trang, theo Thầy đi Thiên Trúc thỉnh Kinh Phật.  Giám mục John Shelby Spong giảng Almighty, theo nghĩa Thần học của Giáo hội, có nghĩa là Toàn Năng và Toàn Trí (Almighty has been translated theologically by the Church into such concepts as omnipotence (all-powerful) and omniscience (all-knowing), nghĩa là "làm gì cũng được", và "cái gì cũng biết", kể cả quá khứ vị lai.  Ngoài hai thuộc tính này, về sau Giáo hội còn đặt   ra một thuộc tính nữa là Toàn Thiện (omnibenevolent) nghĩa là "nhân từ vô cùng".  Ba thuộc tính trên đã là những điều mà các tín đồ Ca-Tô cứ nhắc lại như những con vẹt mà không chịu tìm hiểu, phân tích để biết ý nghĩa thực của những từ này là như thế nào.  Đó cũng là những điều mà con người trong thời Trung Cổ ở Âu Châu bắt buộc phải tin, nếu không thì bị tù đầy, tra tấn, và thiêu sống như lịch sử Ca-Tô Giáo đã chứng minh.  Nhưng khi Giáo hội Ca-Tô mất quyền sinh sát vì sự tiến bộ của nhân loại thì chính ba thuộc tính trên lại là những vấn nạn   quật ngược lại nền Thần học của Giáo hội, vì Giáo hội không có cách nào giải thích được những mâu thuẫn trong những quan niệm trên, và nhất là thực tế đã bác bỏ hoàn toàn những quan niệm về Toàn Năng, Toàn Trí và Toàn Nhân, ba thuộc tính mà Giáo hội đặt ra để gán ép vào Thần Ki Tô.

   Để cho vấn đề được rõ ràng, chúng ta hãy luận về ba thuộc tính trên của Thần Ki Tô.

   Thứ nhất, chúng ta hãy nhìn vào thực tế trên cõi đời: từ những em bé mới sinh ra đã bị tật nguyền cho tới những thiên tai gây ra cảnh tang tóc thiệt hại cho con người; từ những bệnh truyền nhiễm cho tới những chiến tranh tàn sát hàng triệu người; từ những cuộc tranh chấp chính trị nhỏ cho tới những cuộc chiến tranh tôn giáo còn đang tiếp diễn ở Bosnia, Ireland, Palestine; rồi những cảnh trẻ em đang bị chết đói ở Rwanda, Ethiopia v...v.., chúng ta có thể tin được chăng là có một Thần Ki Tô "làm gì cũng được" và có lòng “nhân từ vô cùng” được không?  Tại sao những tín đồ Ca-Tô vẫn còn tin vào lòng thương yêu của Thần Ki Tô theo như lời rao giảng của các cán bộ truyền giáo?  Bởi vì họ đã được reo rắc vào trong đầu óc một tâm cảnh ích kỷ, chỉ biết đến mình mà không nghĩ đến người khác.  Họ được dạy rằng những bất hạnh xảy ra cho mình là do ý Chúa để thử thách, cứ kiên trì tin Chúa, thờ phụng Chúa thì Chúa sẽ cho sống đời đời tốt đẹp bên Chúa.  Nếu có gì may mắn xảy ra cho mình thì đó là do lòng thương yêu của Chúa, hoặc ân sủng của Chúa ban cho.  Chẳng thế mà trong một tai nạn máy bay, 3 hành khách sống sót trong số 286 người trên chuyến bay, đã cám ơn Chúa vì Chúa đã thương yêu, cứu họ.  Họ không hề để ý đến chuyện 283 người tử nạn kia sẽ cám ơn ai?  Cái tâm cảnh ích kỷ này đi đến độ cực đoan là những tín đồ tân tòng, ở Việt Nam cũng như ở bất cứ nơi nào trên thế giới,  vui sướng vì tin là mình sẽ được lên Thiên đường ở cùng Chúa, mà không hề nghĩ đến ông bà tổ tiên hay đồng bào mình bị đày địa ngục vì không tin Chúa, theo như lời dạy lố bịch, hoang đường, mê tín, xúc phạm đến mọi tôn giáo khác của Giáo hội.  Ngày nay, một số nhà Thần học đã đưa ra vấn đề "có sự cứu rỗi ngoài giáo hội" (salvation outside the church) nhưng luận điểm này mang nhiều sắc thái gượng ép vì cho rằng con người ngoài giáo hội cần đến một sự cứu rỗi không tưởng trong Ki Tô Giáo.  Những thực tế trên cõi đời đã cho chúng ta thấy rõ ràng là Thần Ki Tô, nếu có, chẳng phải là một vị Thần đầy lòng thương yêu nhân loại, vậy thì người hãy thương lấy người, và vứt bỏ đi những cặp nạng Toàn Năng, Toàn Trí và Toàn Nhân trong Thần học Ki Tô.  Ngày nay những sự việc xảy ra trên khắp thế giới đã chứng minh rất hùng hồn là chỉ có con người mới giúp được con người.  Trận lụt lớn ở miền Trung Việt Nam vào đầu tháng 11, 1999, nếu không có bàn tay vô Thần cấp thời và tích cực cứu giúp của chính quyền, quân đội và đồng bào; và sau đó, không có sự cứu trợ vật chất với tính cách đại qui mô của các tổ chức tôn giáo như Chùa Từ Đàm, Chùa Từ Hiếu v..v.., với sự hăng say hoạt động từ thiện của các Tăng, Ni Phật Giáo cùng đồng bào trong nước v..v.., sự đóng góp của đồng bào hải ngoại v..v... thì những sự đau khổ  về chết chóc, thiệt hại và thiếu thốn vật chất của nạn nhân bão lụt không biết lên tới mức nào.  Đâu có thấy bàn tay cứu giúp của Chúa ở đâu, dù rằng Thánh Kinh viết rằng Chúa Cha có thể làm mưa bánh mì cho những người đang đói ăn, và Chúa Con cũng có khả năng biến một ổ bánh mì thành trăm ổ bánh mì.  Phải chăng Chúa chỉ có khả năng làm bánh mì cho dân Do Thái, chứ không có khả năng thổi cơm hay chế tạo mì gói ăn liền cho dân Việt Nam?

   Lịch sử thế giới cũng cho thấy, những người chết đói ở Somalia, Rwanda, Ethiopia cứ tiếp tục chết đói cho đến khi có những cơ quan từ thiện quốc tế cứu giúp, dù rằng trong những xứ này có khá nhiều người tin Chúa.  Các nhà bảo vệ tín lý bèn diễn giải rằng, những cơ quan từ thiện chính là bàn tay cứu giúp của Chúa.  Đến khi bị hỏi ngược lại là trong số những người làm việc thiện có rất nhiều người không theo đạo thờ Thần, không tin là có Thần, và nhất là, tại sao Thần lại để cho sinh ra những nạn đói kém hay thiên tai trên thế giới rồi mới đưa bàn tay ra cứu giúp một phần, vì trước khi cứu giúp đã có nhiều người chết đói rồi?  Câu trả lời có tính cách mạ lỵ đầu óc con người là: những việc Thần Ki Tô làm, con người không thể nào hiểu nổi.  Người ta lại hỏi: nếu con người không hiểu nổi thì tại sao các ông lại cứ tuyên bố là Thần muốn thế này, Thần muốn thế nọ, và muốn chúng tôi phải thờ Thần của ông?  Câu trả lời để chấm dứt mọi lý luận là: tin thì lên Thiên đường, thắc mắc thì xuống điạ ngục.

   Cách đây khoảng 23 thế kỷ, triết gia Epicurus đã đặt vấn đề Toàn Năng, và Toàn Thiện như sau:

"Hoặc Thần muốn hủy bỏ sự  ác, và không thể
Hoặc Thần có thể hủy bỏ nhưng không muốn
Hoặc Thần không thể, và không muốn

Nếu Thần muốn, nhưng không thể làm được, Thần bất lực. (nghĩa là không Toàn Năng)

Nếu Thần có thể, nhưng không muốn, Thần thật là xấu xa. (nghĩa là không nhân từ)

Nếu Thần không thể và cũng không muốn,
Thần vừa bất lực vừa xấu xa.

Nhưng nếu (như họ thường nói) Thần có thể hủy bỏ sự  ác

Và Thần thật sự muốn như vậy
Tại sao trên cõi đời này lại có sự  ác?"
(Either god wants to abolish evil, and cannot;
Or he can, but does not want to;
Or he cannot, and does not want to.
If he wants to, but cannot, he is impotent.
If he can, but does not want to, he is wicked.
If he neither can, nor wants to,
He is both powerless and wicked.
But if (as they say) god can abolish evil,
And god really wants to do it,
Why is there evil in the world?)

     Từ xưa tới nay, chưa có ai trả lời được câu hỏi mà Epicurus đã đặt ra, dù những bộ óc kém cỏi đã phát minh ra chuyện Thần muốn trừng phạt sự xấu xa của con người, những sản phẩm do chính Thần tạo ra theo y như hình ảnh Thần và tự khen tác phẩm của mình là "tuyệt hảo", như được viết trong Cựu Ước, chương Sáng Thế.  Tại sao con người do Thần tạo ra một cách tuyệt hảo như trên lại làm ác?  Câu trả lời phi lôgic của các nhà truyền giáo là Thần muốn cho con người tự do, không muốn con người là những người máy.  Nhưng nếu Thần toàn năng thì tại sao không thể tạo ra một con người tự do giới hạn, nghĩa là không thể có cái tự do làm ác mà chỉ có tự do làm thiện mà thôi.  Vậy nguồn gốc của sự xấu ác ở trên đời là ở đâu? ở con người hay ở Thần?

   Những tín đồ Ki Tô tin vào một vị Thần toàn năng trong khi họ không hiểu toàn năng là gì.  Họ không thể hiểu được rằng, theo định nghĩa, không làm gì có chuyện toàn năng.  Vì toàn năng nghĩa là có khả năng làm bất cứ điều gì mà con người có thể tưởng tượng được, thí dụ, làm cho một cặp vợ chồng da đen sinh ra một đứa con da trắng, làm ra một con rùa có lông, hay con thỏ có sừng, hay một cây mít sinh ra trái soài v...v..  Có người đã đặt một câu hỏi rất ý nhị về thuộc tính toàn năng của Thần Ki Tô: "Thần có thể tạo ra một phiến đá nặng đến nỗi chính Thần cũng không vác nổi không?"  Đây là một câu hỏi không một nhà thần học Ki Tô nào trả lời nổi, vì trả lời "có" hoặc "không" đều đương nhiên bác bỏ thuộc tính toàn năng của Thần.  Kết luận: thuộc tính toàn năng không thể có.  Nếu thuộc tính toàn năng không thể có thì một vị Thần toàn năng cũng không thể nào có.  Mặt khác, toàn năng và toàn trí (cái gì cũng biết) là hai thuộc tính có tính chất loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), nghĩa là có cái này thì không thể có cái kia, cho nên một vị Thần kiêm cả hai thuộc tính toàn năng và toàn trí là điều không tưởng.  Thật vậy, nếu Thần "biết" cái gì sẽ xảy ra trong tương lai và Thần không thể thay đổi được sự việc đó, điều này rất rõ ràng trước những thực tế và quy luật thiên nhiên ở ngoài đời, thì làm sao có thể gọi là "Thần toàn năng" được?  Ngược lại, nếu Thần có khả năng thay đổi sự việc nhưng lại không biết những gì sẽ xảy ra để mà thay đồi, vậy thì "toàn trí" ở chỗ nào?  Nói tóm lại, một vị Thần toàn năng, toàn trí chỉ có trong niềm tin đã được nhồi vào óc từ khi còn nhỏ của những người không hiểu thế nào là toàn năng, toàn trí.

   Sau cùng, đọc Thánh Kinh, nhất là Cựu Ước, thì không ai có thể chấp nhận Thần Ki Tô trong đó là bậc toàn thiện.  Tại sao?  Vì Thần Ki Tô trong Cựu Ước được mô tả như một vị Thần tiền hậu bất nhất, lòng đầy thù hận, trí tuệ kém cỏi,  ham vật chất, ham gái, độc ác, vô lương tâm, tàn nhẫn, bất công ..., những thuộc tính hoàn toàn trái ngược với thiện tâm và lòng nhân từ của con người. Chứng minh?

   Trong chương I, tôi đã trích dẫn vài đoạn trong Cựu Ước chứng tỏ một vài hành động độc ác, bất nhân của Thần Ki Tô, ví dụ như chuyện Thần Ki Tô dùng Vua Ai Cập để giáo dục dân Do Thái nhưng rồi lại gây ra 10 tai họa cho dân Ai Cập, với cao điểm là làm cho tất cả những đứa con đầu lòng trong mọi gia đình dân Ai Cập chết hết (Exodus  11: 4-6); khi dân Do Thái chạy ra khỏi Ai Cập thì Thần rẽ nước biển ở Hồng hải, nghĩa là tạo ra một lối thoát khô, để cho dân Do Thái chạy qua, rồi sau đó lại đóng nước lại làm cho cả toán quân Ai Cập đuổi theo chết đuối hết ở Hồng Hải (Exodus 15) v.. v.. Ngoài ra chúng ta còn có thể đọc trong Cựu Ước: Thần là một người chinh chiến (Exodus 15:3: The Lord is a man of war); Thần khuyến khích dân Do Thái quật đầu những đứa trẻ dân Edom vào đá cho chết (Psalm 137: 7-9);  Thần ra lệnh cho Moses tiêu diệt dân Midian (Numbers 31: 1,2), quân lính của Moses thiêu rụi mọi thị trấn của dân Midian, cướp bóc hết của cải, gia súc v...v..., giết chết mọi đàn ông (Numbers 31: 7) nhưng chừa lại đàn bà và trẻ con.  Điều này làm Moses nổi giận, ra lệnh giết hết đàn bà và trẻ con trai, chỉ chừa lại các trinh nữ để chia cho Thần một phần.  Tất cả có 16000 trinh nữ, số nộp cho Chúa là 32 (Numbers 31: 40) v...v...  Thật là khôi hài khi ta đọc đến những điều răn của Thần trong đó có những khoản như: không được giết người, không được trộm cắp, không được tà dâm, những điều khoản mà chính Thần là người đầu tiên vi phạm.  Một vị Thần độc ác, bất nhân như vậy có đáng để chúng ta tôn kính hay không? khoan nói đến chuyện thờ phụng.

    Đó là về Chúa Cha, và chúng ta nên nhớ Chúa Cha chỉ có con một là Chúa Con, Giê-su.  Thánh Kinh Tân Ước cũng viết rõ,  Chúa Con, Giêsu, được phái xuống trần để dạy con người thi hành luật của Chúa Cha, những luật mà nếu thi hành trong thời đại này thì sẽ bị cả thế giới lên án và đưa ra tòa án quốc tế xét xử (Hãy đọc kỹ 4 Phúc Âm Matthew, Mark, Luke, John và các chương Acts, Corinthians, Revelation v..v.. trong Tân Ước).  Điều đáng nói là đọc kỹ Tân Ước chúng ta thấy trí tuệ, đạo đức của Chúa Con, Giê-su, cũng chẳng hơn Chúa Cha là bao nhiêu.   Những nhận định này sẽ được chứng minh trong một phần sau.

   Như trên tôi đã chứng minh không làm gì có chuyện toàn năng, nhưng người ta vẫn cứ tin vào một vị Thần toàn năng.  Chỉ cần nhin những sự việc xảy ra xung quanh mình cũng thấy toàn năng là một thuộc tính tưởng tượng của con người.  Toàn năng làm sao mà cho tới bây giờ trên thế giới vẫn chỉ có khoảng 30% (1.9 tỷ tín đồ mọi tông phái Ki Tô trên tổng số hơn 6 tỷ người trên thế giới) tin ở Thần toàn năng?   Chuyện đã quanh quẩn lại trở thành quẩn quanh..

   Trên một khía cạnh khác, tin vào Chú Cuội hay tin vào Táo Quân còn đỡ hơn tin vào một Thiên Chúa toàn năng, vì chưa có ai nhân danh Chú Cuội hay Táo Quân để giết người hay ép người khác phải tin vào Chú Cuội hay Táo Quân, trong khi không biết bao nhiêu người đã tin vào Thiên Chúa và đã nhân danh Thiên Chúa  để phạm phải không biết bao nhiêu là tội ác và gây ra không biết bao nhiêu thảm cảnh cho nhân loại.

   Do đó, những quan niệm thuộc loại mê tín như Thần có thể ban phúc, giáng họa cho nhân loại, hoặc làm những phép lạ để chứng tỏ khả năng thần thánh v...v..., là những quan niệm đã lỗi thời, không phù hợp với sự hiểu biết của con người ngày nay và những thực tế ở ngoài đời. Tôi xin lấy một thí dụ trong Thánh Kinh Do Thái - Ki Tô.

   Thánh Kinh, Matthew 17: 14-21, viết:

   Khi Đức Chúa Giê su và môn đồ đã trở lại cùng đoàn dân, thì có một người đến gần, quỳ trước mặt Ngài, mà thưa rằng: "Lạy Chúa, xin Chúa thương đến đứa con trai tôi! Vì nó mắc bệnh phong điên (Kinh Thánh tiếng Việt dịch sai, Epilepsy là bệnh "động kinh" chứ không phải là phong điên), phải chịu đau đớn quá, thường bị té vào lửa, và té xuống nước.  Tôi đã đem nó đến cho môn đệ Chúa, nhưng  chữa không được."  Đức Chúa đáp rằng: "Hỡi dòng dõi không tin và gian tà kia, ta sẽ ở với các ngươi cho đến chừng nào? Ta sẽ nhịn nhục các ngươi cho đến khi nào?  Hãy đem con đến đây cho ta."  Rồi Đức Chúa  Giê su quở trách Qủy, Quỷ liền ra khỏi đứa trẻ, và từ giờ đó đứa trẻ được lành.

   Các môn đồ bèn đến gần Chúa và hỏi riêng rằng: "Vì cớ gì chúng tôi không đuổi Quỷ ấy được?"  Ngài đáp rằng: "Ấy là tại các ngươi ít đức tin.   Vì ta nói thật cùng các ngươi, nếu các ngươi có đức tin bằng một hạt cải, sẽ khiến núi nầy rằng: Hãy dời đây qua đó, thì nó liền dời qua, vì không có sự gì mà các ngươi chẳng làm được." Nếu không cầu nguyện và nhịn ăn, các ngươi không thể đuổi thứ quỷ này được.

   Đọc đoạn trên trong Thánh Kinh các tín đồ Ki Tô chắc hẳn sẽ rất lấy làm sợ và phục tài đuổi quỷ của Chúa Giê su.  Nhưng phân tích kỹ câu trên, và với kiến thức của con người ngày nay,  chúng ta biết được những gì? 

   Thứ nhất, điều rõ ràng là không có một môn đồ nào của Chúa tin ở Chúa, không những thế còn hoài nghi khả năng của Chúa, nên Chúa phải trổ tài chữa bệnh động kinh bằng cách đuổi quỷ ra khỏi đứa bé, đểhuyết phục đám đệ tử phải tin vào khả năng thần thánh làm phép lạ của Chúa.  Chỉ có điều, y học ngày nay đã xác định và chứng minh rằng bệnh động kinh tuyệt đối không phải là do quỷ ám, mà là do sự nhiễu loạn của hệ thống thần kinh làm cho con người mất đi một phần hoặc toàn bộ ý thức kiểm soát những cử động của thân thể vì trong óc thiếu chất acid glutamic, gây nên sự run rẩy hoặc co quắp thân thể, chân tay. Cho nên, chuyện Chúa chữa khỏi bệnh động kinh bằng cách đuổi quỷ ám ra khỏi thân thể con người là chuyện hoang đường, phản ánh trí tuệ của Matthew, người viết Phúc Âm Matthew trong Tân Ước, trong lãnh vực y học ở một thời đại cách đây 2000 năm, cho rằng bệnh động kinh là do quỷ ám.  Và do lòng sùng bái cá nhân, Matthew muốn thần thánh hóa Giê-su nên đã đặt ra chuyện Giê-su có khả năng thực hiện phép lạ, đuổi quỷ ám ra khỏi thân người.  Tất cả những "phép lạ" mà những người viết Tân Ước kể là Chúa Giê-su thực hiện đều thuộc loại bịa đặt này như hàng trăm học giả trong và ngoài giáo hội  đã vạch rõ trong những tác phẩm.nghiên cứu của họ.  Chúng ta không thể trách Matthew được, vì nguyên nhân của bệnh động kinh, con người mới biết rõ gần đây, trong thế kỷ 20, và ngày nay các bác sĩ thường chữa bệnh động kinh bằng thuốc hoặc châm cứu để cho hệ thống thần kinh được ổn dịnh và tìm cách gia tăng lượng acid glutamic trong óc..

   Thứ nhì, trong 2000 năm nay, người tin Giê-su thì rất nhiều, người cầu nguyện cũng không thiếu, nhưng không có một ai có đức tin dù chỉ nhỏ bằng hạt cải để có thể đuổi "quỷ ám" ra khỏi người bị bệnh động kinh, và cũng chưa có ai có khả năng bảo trái núi này dời đi chỗ khác là nó tự động bò đi chỗ khác.   Chừng nào mà các tín đồ Ca-Tô, từ Giáo Hoàng trở xuống, không bảo được núi dời đi chỗ khác hay "đuổi quỷ ám" ra khỏi thân người mắc bệnh động kinh, thì họ đừng có hòng lên Thiên đường ở cùng Chúa, vì theo lời Chúa trong Thánh Kinh thì họ chỉ thuộc dòng dõi không tin và gian tàì, đức tin của họ còn nhỏ hơn hạt cải, chưa đủ mức đòi hỏi của Chúa nên Chúa đã phải than "Hỡi dòng dõi không tin và gian tà kia, ta sẽ ở với các ngươi cho đến chừng nào?"   Cũng vì vậy mà trong 2000 năm nay Chúa đã không ngó ngàng gì đến các tín đồ theo Chúa, vì sự thực là chưa ai có đủ đức tin để thấy được dung nhan Chúa ngồi bên tay phải của Chúa Cha ở trên Trời, theo như lời dạy của giáo hội.  Cho nên, điều mà các tín đồ tin rằng sẽ được hiệp thông cùng Chúa thật ra chỉ là điều mơ tưởng ước mong dựa trên những rao giảng sai sự thực.  Mà dù tín đồ có đủ đức tin cũng không thấy Chúa được, vì sự thực là chẳng làm gì có Chúa nào ngồi trên Thiên đường.  Thiếu tá Gagarin, phi hành gia đầu tiên bay trên thượng tầng không khí xung quanh trái đất, đã nói về trung tâm khoa học không gian của Nga sô: "Tôi chẳng thấy vị Thần nào ở trên này" (I don't see any God up here).   

   Một thí dụ khác trong Thánh Kinh,  Matthew 8: 28 - 34, cho chúng ta thấy rõ tính tình của Chúa Con trong một câu chuyện khác, cũng nói về Chúa đuổi quỷ ra khỏi thân người, được tóm tắt như sau:

   Có hai người bị quỷ ám gặp Chúa Giê-su và quỷ trong hai người đó van nài Chúa Giê-su đuổi chúng ra và cho nhập vào một bày heo.  Chúa phán "đi ra", chúng liền nhập vào bầy heo và cả bầy heo (độ 2000 con, theo Mark 5: 13) rông tuốt xuống sông chết đuối hết.  Trẻ con chăn heo chạy về làng kể chuyện lại cho dân làng nghe, cả làng kéo ra khỏi làng gặp Chúa Giê-su và...van nài (có nghĩa là đuổi) Ngài hãy đi ra khỏi vùng đất của họ.

   Giê-su là con Chúa Trời, phép tắc vô cùng, vậy thì chuyện đuổi quỷ ra khỏi thân người, nếu thực sự là có quỷ, là chuyện dễ dàng.   Chúng ta cũng nên nhớ, trong chuyện "đuổi quỷ" ra khỏi người bị bệnh động kinh, Chúa chỉ đuổi nó ra thân người rồi để cho nó tự do muốn đi đâu thì đi.   Nhưng lần này, thử hỏi, 2000 con heo có tội tình gì mà Giê-su để cho quỷ nhập vào chúng, rồi bắt chúng nhào xuống sông chết đuối hết?  Như vậy có phải là Giê-su là người không có lòng nhân, đang tâm tàn nhẫn giết cả một đàn heo vô tội.  Mà đàn heo cũng lại là những sản phẩm của chính Chúa Cha “sáng tạo” ra, vì theo niềm tin Gia Tô thì mọi thứ trên đời này đều là do Chúa tạo ra cả.   Bởi vậy dân làng mới coi Giê-su như là một tên phù thủy, một kẻ đáng chê trách, đã vô cớ hủy đi một nguồn lợi của dân làng, làm cho họ tự nhiên mất đi cả một đàn heo tới 2000 con, cho nên họ kéo ra ngoài làng, chặn đuổi Giê-su đi nơi khác, không dám để cho Giê-su vào làng. 

   Thánh Kinh có đầy những chuyện chứng tỏ nhân cách và đạo đức thấp kém của Giê-su như trên, nhưng tín đồ vẫn được dạy đó là những "phép lạ" mà Giê-su đã làm, và Thánh Kinh là những lời "mạc khải" của Chúa, không thể nào sai lầm, Giê-su là "Con một của Chúa Cha" được phái xuống trần để chịu tội thay cho mọi người, do đó, vẫn tin Giê-su là đấng "Cứu Thế", "phép tắc vô cùng", có khả năng "cứu rỗi" những ai tin vào Giê-su.  Thật là tội nghiệp cho những người trong thời buổi này mà vẫn còn tin vào những chuyện thuộc loại huyền thoại phản khoa học, đầy mâu thuẫn và phi lý liên hệ đến nhân vật Giê-su như trên.

   Chúng ta chỉ có thể tội nghiệp họ chứ không thể trách họ, vì chính Giáo Hoàng John Paul II cũng vẫn còn tin là quỷ và thiên thần có thực, theo như tài liệu của học giả Gia Tô Joseph L Daleiden sau đây trong cuốn Sự Mê Tín Sau Cùng:

   Giáo Hoàng John Paul II tin vào nhiều điều mê tín mà đối với các tín đồ Gia Tô hiện đại họ cảm thấy ngượng ngùng.  Ngay gần đây trong ba bài dạy giáo dân ông vẫn tin rằng mỗi người đều có ít nhất là ba thiên thần bảo hộ và thảo luận về những nhiệm vụ khác nhau của các thiên thần trên Thiên đường.  Giáo hoàng hét vào mặt cử tọa: "Hãy coi chừng bọn quỷ".  Ông tin rằng quỷ Satan hiện thân dưới dạng con một con sư tử, một con rắn, một con rồng, hoặc một con dê có sừng. 9

     Nhưng trên đây chỉ là những lời mà Giáo hoàng đưa ra với một mục đích, mang thiên thần ở trên Thiên đường ra để khuyến dụ, và mang quỷ ở địa ngục ra để dọa đám giáo dân thấp kém, vì gần đây, tháng 7, 1999, ông đã tuyên bố rằng chẳng có nơi nào là Thiên đường hay Địa ngục, tất cả chỉ đều do tâm con người tạo ra mà thôi.  Ông biết rõ, các linh mục không bao giờ giảng những điều có ảnh hưởng đến đức tin của tín đồ, dù rằng những điều đó do chính những bậc lãnh đạo tôn giáo của họ phát biểu.  Sách lược từ ngàn xưa của Giáo hội là nuôi dưỡng đức tin của giáo dân bằng cách giữ họ "càng biết ít bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu".  Lịch sử đã chứng minh như vậy.

    "...Dựng Nên Trời Đất"

   Tín đồ Ca-Tô được dạy để tin rằng Thần Ki Tô, alias Chúa Cha, là bậc toàn năng đã tạo dựng nên trời đất và muôn loài.  Niềm tin mù quáng không cần biết đến lý lẽ, không cần hiểu này có tác dụng đánh đổ mọi lý luận Thần học và mọi bằng chứng khoa học về vũ trụ của chúng ta ngày nay.  Tôi xin lấy một thí dụ:

   Trong cuốn "Đối Thoại Với Giáo Hoàng...", một tác giả, học giả Trần Văn Kha, đã đặt vấn đề "linh hồn" đại khái như sau, trg. 82-83:

   Nếu bảo rằng linh hồn là một thực thể riêng biệt, không do thân xác sinh ra ra, nên không chết cùng với thân xác, thì linh hồn ấy ở đâu mà ra?  Nếu bảo rằng linh hồn do Chúa sinh ra, chứ không phải thân xác, thì vị trí của cái linh hồn ấy đối với thân xác là như thế nào?  Sự thông minh, hay ngu dốt, hay tính độc ác của một người là ở trong đầu óc, nghĩa là ở thân xác, hay ở linh hồn?  Nếu bảo là ở thân xác, thì tại sao Chúa lại đem một linh hồn trong sạch bỏ vào một thân xác ngu đần, độc ác, rồi lại bắt linh hồn phải chịu trách nhiệm?  Nếu bảo là ở linh hồn, thì lại càng vô lý.  Tại sao Chúa lại sinh ra linh hồn tội ác?  Chúa có chịu trách nhiệm về linh hồn do Chúa sáng tạo ra không?  Những linh hồn do Chúa sinh ra đều bình đẳng như nhau, hay có cái tốt , cái xấu, như xe hơi Nhật, xe hơi Mỹ?  Linh hồn có tội gì đâu mà sinh ra ở Phi Châu đói khổ, rồi bị người da trắng cai trị, bóc lột, đem buôn bán làm nô lệ?

   Những linh hồn do Chúa sinh ra, ở đâu trước khi nhập vào một đứa trẻ sơ sinh?  Ở một chỗ nào đó trên Thiên Đàng có một kho chứa linh hồn?  Kho ấy lớn hay nhỏ, hay cần tới đâu thì nới rộng tới đó?... Nhập vào khi nào?  Khi vừa bắt đầu thụ thai, hay khi đứa trẻ lọt lòng mẹ? v...v...

   Đó là những câu hỏi rất trí thức, xoáy thẳng vào nền Thần học Ki Tô Giáo, nhưng Linh Mục Thiện Cẩm, nhà nghiên cứu tôn giáo Ca-Tô ở Việt Nam, đã viết trên báo Chính Nghĩa, số 381, để trả lời như sau:

   Chỉ cần một bà lão công giáo nhà quê cũng có dư khả năng để trả lời những thắc mắc của nhà học giả Trần Văn Kha.  Thật vậy, theo niềm tin Ki Tô Giáo, thì Thiên Chúa là Đấng toàn năng, chính người đã tạo dựng nên thế giới muôn loài (nghĩa là cả những bão lụt, sấm sét, thiên tai, động đất, khổng long (đã biến mất sau một thời gian), rắn rết, hùm beo, vi trùng đủ thứ bệnh v...v.. TCN), vậy thì việc dựng nên linh hồn cho mỗi con người, đâu có khó khăn gì? (các em nhỏ sơ sinh bị khuyết tật, bị bệnh chứng Down, bị trì trệ trí óc (mentally retarded), hay mới sinh ra đã tắt thở v...v... nên cám ơn vị Chúa toàn năng đầy lòng nhân từ này. TCN).

     Rồi, với "lý luận" như trên, Linh mục Thiện Cẩm hạ một câu: "Như vậy làm sao có thể đối thoại nghiêm chỉnh với một người như Đức Giáo Hoàng Gioan PhaoLồ II?"

   Chắc hẳn Linh Mục Thiện Cẩm cho rằng đầu óc của Giáo Hoàng cũng như đầu óc của những bà lão công giáo nhà quê, và đối thoại nghiêm chỉnh là phải chấp nhận niềm tin về "một Thiên Chúa duy nhất, đấng sáng tạo ra vũ trụ muôn loài" của những bà lão công giáo nhà quê.  Tôi không hi vọng một bà lão công giáo nhà quê nào đọc cuốn sách này, nhưng nếu Linh mục Thiện Cẩm có đủ can đảm đọc cuốn sách này thì ông sẽ nhận thức được thực chất của đấng sáng tạo trên, và do đó thoát ra khỏi được cái ngục tù tư tưởng hay cái lưới vô hình xiềng xích trí tuệ, điều mà hàng triệu tín đồ Ca-Tô đã làm và còn đang tiếp tục làm trong những quốc gia văn minh tiến bộ ở Âu, Mỹ.   

     Rất may cho thế giới loài người là không phải tất cả thiên hạ đều là những "bà lão công giáo nhà quê", do đó trí tuệ con người hiện nay, tuyệt đại đa số không ở mức trí tuệ của Linh mục Thiện Cẩm, hay của những “bà lão công giáo nhà quê” cũng vậy.  Niềm tin tôn giáo của Linh mục Thiện Cẩm đã tạo nên một điểm mù trước những tiến bộ về trí tuệ của con người.  Linh mục Thiện Cẩm không biết rằng khoa học ngày nay đã bác bỏ hoàn toàn quan niệm về một linh hồn trong Ki Tô Giáo, do đó những kẻ còn có ý định đi kiếm linh hồn cho Chúa là những kẻ sống trong tâm cảnh tối tăm của thời Trung Cổ.  Giám mục Spong cũng đặt vấn đề linh hồn trong Ki Tô Giáo như sau:

   Nếu chỉ có con người có linh hồn, như Giáo hội đã dạy, thì chúng ta phải biết rõ khi nào nhân loại thành hình và được Thần ban cho một linh hồn vĩnh cửu.  Không có một sự sáng tạo tức thời, sự ban cho một linh hồn này trở thành một vấn đề lớn. Những sinh vật đi thẳng đứng có phải là con người không?  Hay định nghĩa của con người chỉ dành riêng cho tình trạng tiến hóa của sinh vật đi thẳng đứng thành con người?  Nếu vậy, ở giai đoạn nào của sự phát triển thành con người?  Ngôn ngữ chỉ xuất hiện trong khoảng từ 35 tới 50 ngàn năm.  Nếu các nhà sinh học không thể xác định tại thời điểm nào sinh vật đi thẳng đứng trở thành con người, ngoại trừ chỉ có thể nói rằng, tiến trình này trải dài trong khoảng 1 triệu rưỡi năm, vậy các nhà Thần học có dám xác định rõ hơn không? 10

   Chúng ta thấy rõ kiến thức của Giám Mục John Spong khác xa với kiến thức của Linh Mục Thiện Cẩm, hay kiến thức của những “bà lão Công Giáo nhà quê”, những đầu óc tin rằng việc Chúa "toàn năng", tuy không hiểu thế nào là toàn năng,  tạo cho mỗi người một linh hồn đâu có khó khăn gì.

    Nhưng, theo như nhận định của Giám mục Spong thì, nếu thuyết Sáng Tạo là một sự thật, và con người được Thần Ki Tô tạo ra tại một thời điểm nào đó, vấn đề mỗi người có một linh hồn có thể tạm cho là có lý tuy không thể nào chấp nhận được, vì không có tính cách hoàn toàn thuyết phục. Nhưng điều rõ ràng là con người hiện nay đã tiến hóa dần dần, trải qua nhiều triệu năm một cách liên tục, từ những sinh thể ban khai, rồi tới những sinh vật đi thẳng đứng (homo erectus), sau cùng mới tới con người như chúng ta (homo sapiens),  vậy linh hồn của con người được Thần Ki Tô tạo cho vào thời điểm nào, và tạo như thế nào, biết rằng mỗi giây, mỗi phút, trên thế giới có biết bao đứa trẻ đủ mọi chủng tộc, sắc dân, sinh ra đời?

   Kiến thức con người hiện đại đã bác bỏ dứt khoát quan niệm về một vị Thần toàn năng, sáng tạo ra muôn loài vì quan niệm này cực kỳ phi lý trước những bằng chứng không ai có thể phủ bác của khoa vũ trụ học, sinh học, sinh hóa học v..v....  Giáo hội Ca-Tô cũng biết rõ như vậy, nhưng một mặt thì Giáo hoàng Gion Pôn Hai chính thức công nhận thuyết Big Bang, thuyết Tiến Hóa và bác bỏ ngay cả sự hiện hữu của Thiên đường và Địa Ngục như Giáo hội vẫn thường dạy con chiên, một mặt vẫn hạn chế tối đa những thông tin thuộc loại này, duy trì sự tối tăm trí thức của đám tín đồ thấp kém.  Để làm gì, nếu không phải để duy trì những quyền lợi thế tục bằng sự lừa dối quần chúng?  Chứng minh?

   Cái vũ trụ muôn loài của Ki Tô Giáo là một vũ trụ trong đó trái đất thì phẳng và dẹt, đứng yên một chỗ và mặt trời thì quanh xung quanh trái đất như được viết trong Thánh Kinh, những điều mà các tín đồ Ki Tô thấp kém đều tin rằng không thể sai lầm, vì họ được nhồi vào đầu từ khi còn nhỏ đó là những lời "mạc khải" của Thần sáng tạo.  Dựa theo những dữ kiện không thể sai lầm trong Thánh Kinh, Tổng Giám Mục James Ussher ở Ái Nhĩ Lan (Ireland) đã tính rất kỹ và xác quyết rằng Thần Ki Tô đã sáng tạo ra vũ trụ muôn loài này vào tối ngày thứ Bảy, 22 tháng 10, năm 4004 Trước Thường  Lịch (TTL) (Archbishop James Ussher...concluded that God had made heaven and earth on the evening of Saturday, October 22, 4004 B.C.), nghĩa là cách đây khoảng hơn 6000 năm.  Chỉ có điều, từ nhiều thế kỷ, con người đã biết quả đất tròn, và không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất mà chính là trái đất quay xung quanh mặt trời.  Ngoài ra, khoa học ngày nay đã xác định tuổi của trái đất là vào khoảng từ 4 tỷ rưỡi đến 5 tỷ năm, và loài người đã có mặt trên địa cầu cả vài triệu năm, hình thành theo định luật tiến hóa.  Do đó, cái vũ trụ muôn loài của Ki Tô Giáo là cái vũ trụ phản ánh trình độ hiểu biết của những người viết Cựu Ước cách đây khoảng 3000 năm.  Trình độ này như thế nào so với kiến thức của con người hiện nay?  Cả thế giới đều đã rõ, trừ những tín đồ thuộc loại "bà lão công giáo nhà quê" như  Linh mục Thiện Cẩm.

   Quyền chọn lựa là quyền tự do của con người.  Chúng ta có thể chấp nhận những sự kiện khoa học về tuổi của trái đất, hoặc chúng ta có thể tin Thiên Chúa đã tạo ra trái đất,  dù rằng ngày nay chúng ta có 100% bằng chứng là trái đất đã hình thành cách đây hơn 4 tỷ năm, và 0% bằng chứng về một trái đất có tuổi từ   6 tới 10000 năm.  Một cuộc thăm dò ý kiến của viện Gallup năm 1993 cho biết, 45% dân Mỹ tin ở thuyết Sáng Tạo, nghĩa là Thiên Chúa sáng tạo ra thế giới này cách đây mới có từ 6 tới 10000 năm.   Chẳng cần phải nói chúng ta cũng biết số dân này thuộc những thành phần nào trong xã hội.  Điều này không có nghĩa là chúng ta đối diện với 45% thuyết Sáng Tạo đúng, và 55% khoa học đúng.  Không, như trên đã nói, chúng ta đối diện với 100% đúng cho khoa học và 0% cho Sáng Tạo, nếu chúng ta xét đến tổng hợp những kết quả nghiên cứu, đo lường trong vũ trụ học, địa chất học, hóa học, vật lý học, cổ sinh vật học, sinh học đưa đến việc xác định tuổi của trái đất. 100% là kết quả của lý trí, và 0% là sản phẩm của đức tin.  Thật là thú vị khi chúng ta so sánh hai con số trên: nếu chúng ta biểu diễn tuổi thực của trái đất, thí dụ 4 tỷ rưỡi năm, bằng một đoạn giây dài 150 thước (m), thì tuổi của trái đất trong Thánh Kinh, 10000 năm, chỉ mỏng bằng một tờ giấy.  Trong đức tin, phạm vi hiểu biết chỉ bằng bề dày của một tờ giấy; ngoài đức tin, kiến thức con người trải dài 150 m.

   Đối với giới trí thức, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai đã chính thức công nhận thuyết Big Bang, nguồn gốc của vũ trụ, và thuyết tiến hóa, nguồn gốc của loài người, nghĩa là chôn vùi thuyết sáng tạo trong đáy hầm Thần học của Vatican.  Nhưng đối với quần chúng tín đồ thấp kém, giáo hội vẫn duy trì thuyết sáng tạo.  Tại sao? Vì toàn bộ tín ngưỡng Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo nói riêng được xây dựng trên huyền thoại sáng tạo, huyền thoại sa ngã của Adam và Eve tạo thành tội tổ tông, và vai trò chuộc tội và cứu rỗi của Giê su.  Nếu tuyên bố thuyết sáng tạo vô nghĩa thì cả một hệ thống tín ngưỡng Ki Tô phải sụp đổ.  Không có giáo hội Ki Tô nào muốn như vậy cho nên vẫn cố gắng duy trì sự tối tăm trí thức của quần chúng tín đồ thấp kém được chừng nào hay chừng đó.

   Thật vậy, trong cuốn Những chuyện Hư Cấu Trong Thánh Kinh, G. W. Foote đã đưa ra một nhận xét:

   Trong mọi quốc gia theo Ki Tô Giáo, quần chúng được dạy từ khi còn là trẻ thơ, rằng Thần Ki Tô đã tạo dựng nên vũ trụ trong 6 ngày rồi nghỉ ngày thứ bảy.  Tuy vậy, mọi sinh viên đều rõ là điều này hiển nhiên sai lầm, mọi  khoa học gia đều coi điều này là vô nghĩa, và giới giáo sĩ có học cũng bắt đầu diễn giảng điều này khác đi.  Nhưng họ phải duy trì chuyện sáng tạo trong một nghĩa này hay nghĩa khác, vì hai lý do rất quan trọng.  Thứ nhất, thuyết sáng tạo đứng ngay ở ngưỡng cửa của Thánh Kinh, và nếu thuyết này chỉ là một chuyện giả tưởng thì nó sẽ không tránh được sự bác bỏ mọi điều sau đó trong Thánh Kinh.   Thứ nhì, chuyện  sáng tạo dính liền với chuyện con người sa ngã trong Thánh Kinh.  Cả hai chuyện cùng sống hay cùng chết với nhau.  Nếu chuyện con người sa ngã được coi như là một huyền thoại (như ông Đỗ Mạnh Tri đã khẳng định trong cuốn Ngón Tay và Mặt Trăng. TCN), thì Ki Tô Giáo sẽ trở thành cái gì?  Kế hoạch cứu rỗi của Ki Tô Giáo không thể hiểu được nếu không dựa trên tiền đề là con người sa ngã.  Không có sự sa ngã, và sự hiện thân của Chúa,   chuyện Chúa bị đóng đinh trên thập giá, và chuyện Chúa sống lại là những quan niệm sai lầm vĩ đại.

   Như chúng tôi sẽ trình bày sau đây, chuyện sáng tạo thật là không rõ ràng, tự mâu thuẫn và vô nghĩa.11

 

   Trong một đoạn trước, tôi đã viết về quan niệm "trời" của những tín đồ Ca-Tô, một quan niệm của những người không hiểu gì hết về sự sinh ra và cấu trúc của vũ trụ mà chúng ta biết ngày nay.   Ngay cả Thánh Augustine, một bộ óc được coi là sáng giá nhất của Ca-Tô giáo, cũng không quan niệm nổi một trái đất có dạng của một quả cầu.  Chúng ta cũng nên nhớ rằng bản Kinh Tin Kính này được viết ra từ khoảng năm 150, khi đó trí tuệ của những người viết bản Kinh Tin Kính này còn thuộc loại man khai.  Cũng vì vậy mà bàn về câu "..dựng nên trời đất" trong Kinh Tín Kính, Giám mục John Shelby Spong đã đặt vấn đề như sau:

   Trời là cái gì?  Đâu là trời?  Điều rõ ràng là trong cái thế giới cổ xưa này, trời mà Thần Ki Tô dựng nên được nghĩ là nơi ăn chốn ở của Thần, và nó ở trên quá vòm trời.  Nhưng chúng ta trong thế hệ này biết rõ rằng vòm trời không phải là mái của thế giới mà cũng chẳng phải sàn nhà của cõi trời.  Vậy chúng ta muốn nói gì khi chúng ta khẳng định là Thần Ki Tô toàn năng toàn trí đã dựng nên trời? Phải chăng chúng ta muốn nói đến một vũ trụ vô biên mà trong thời Thánh Kinh được viết ra, không một người nào hiểu gì về cái vũ trụ đó như thế nào? 12

 

   Với trình độ hiểu biết của con người hiện đại, câu "..dựng nên trời đất" trong Kinh Tin Kính đã trở thành cái hí trường (Colosseum) khi xưa của thành Rô-Ma, chỉ còn lại vài cột chống siêu vẹo và những đống gạch ngổn ngang, để cho du khách thấy rõ sự tàn lụi của đế quốc Rô-Ma, cũng như sự suy sụp của nền Thần học Ki Tô Giáo trong thời đại của lý trí và khoa học.

   Chúng ta hãy đọc tiếp Kinh Tin Kính:

   "Tôi Tin Kính Đức Chúa Giêsu Là Con Một Đức Chúa Cha Cũng Là Chúa Chúng Tôi, Bởi Phép Đức Chúa Thánh Thần Mà Người Xuống Thai, Sinh Bởi Bà Maria Đồng trinh" 

    Phần đầu của câu trên: "Tôi tin kính Đức Chúa Giê-su Ki-Tô" ít ra cũng gần với thực tế hơn là tin vào một vị Thần toàn năng, sáng tạo ra vũ trụ muôn loài.  Vì chúng ta có thể chấp nhận sự hiện hữu của Giê-su như là một nhân vật lịch sử, đã sống tại một địa phương và trong một giai đoạn lịch sử mà chúng ta có thể kiểm chứng.  Tuy có nhiều thuyết đặt vấn đề về sự hiện hữu thực sự của Giê-su, nhưng ngày nay, hầu hết các học giả nghiên cứu về Ki Tô Giáo đều chấp nhận sự kiện Giê-su là một nhân vật lịch sử có thật.  Tuy nhiên, hầu như không có mấy người chấp nhận những huyền thoại về Giê-su được viết trong các Phúc Âm.  Tôi sẽ lần lượt phân tích những huyền thoại này qua Kinh Tin Kính.  Nhưng trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu chút ít về nhân vật Giê-su trong Ki Tô Giáo.

   Các tín đồ Ca-Tô nói riêng, Ki Tô nói chung, đều tin và chấp nhận rằng Giê-su là Chúa của họ và là hiện thân của Thần Ki Tô.  Điều này thể hiện trong câu "..là con một Đức Chúa Cha và cũng là Chúa chúng tôi" trong Kinh Tin Kính.  Niềm tin này được cấy vào đầu óc tín đồ ngay từ khi còn nhỏ, khi thân xác và trí tuệ chưa phát triển, cho nên khi lớn lên họ khó có thể thay đổi được niềm tin này.  Vì lối giáo dục đặc biệt của Ca-Tô giáo, trong gia đình cũng như trong nhà thờ, đặt nặng vấn đề tin và tuân phục, nên các tín đồ thường ít có khả năng suy nghĩ và thường chỉ biết những gì họ được nghe các Linh mục giảng trong nhà thờ.   Họ được nhồi vào đầu ý tưởng là bất cứ cái gì trái với những điều "giáo hội dạy rằng" đều là do những người ganh ghét chống cái đạo thiên khải cao quý của họ.  Ở ngoài đời, họ có thể theo kịp kiến thức của bất cứ bộ môn nào trừ những kiến thức thực sự về tôn giáo của họ.  Cho nên, Linh mục Ernie Bringas đã cho rằng, về phương diện tôn giáo, đầu óc của họ có một khuyết tật "lỗi thời" (an astrolabe mind).  Astrolabe nguyên là một dụng cụ định hướng cho tàu bè cho tới thế kỷ 17.  Từ thế kỷ 18, với sự phát triển của kỹ thuật mới, dụng cụ này đã được xếp vào bảo tàng viện vì thiếu chính xác và đã trở thành lỗi thời.  Linh mục Bringas dùng từ này để mô tả đầu óc của những tín đồ Ki Tô vẫn giữ những niềm tin sai trái và lỗi thời trong Ki Tô Giáo, bất kể đến sự tiến bộ trí thức của nhân loại trong những thế kỷ gần đây.  Tôi dịch thoát là khuyết tật vì nó đúng là một cái tật mà đa số tín đồ Gia Tô mang trong đầu từ khi còn nằm trong nôi, cái tật không chấp nhận bất cứ điều nào không hợp với đức tin của họ, bất kể là những khám phá mới về tôn giáo của họ trong ánh sáng của phương pháp phân tích hiện đại, của lý trí và khoa học, đã chứng tỏ rằng đức tin của họ không đặt trên những căn bản có tính cách thuyết phục dựa trên sự thực.  Sự hiểu biết của họ về Giê-su thật là nghèo nàn, không thay đổi suốt 2000 năm nay, dù nhân loại đã tiến bộ rất nhiều, nhất là về những kiến thức về chính nhân vật Giê-su.

     Thật vậy, trong cuốn Ai Là Giê-su?, học giả Ki Tô Colin Cross viết như sau trong phần dẫn nhập:

   Nhìn từ xa và xét về toàn thể, Giê-su ở Nazareth   có vẻ như là một nhân vật lịch sử hiển nhiên.  Nhưng khảo xát kỹ về bất cứ chi tiết nào cũng làm cho hình ảnh này mờ nhòa.  Lý do về sự bất minh này thật là hết sức đơn giản.  Đó là chúng ta không có bất cứ một tài liệu nào, thuộc bất cứ lãnh vực nào, về phần lớn cuộc đời của ông.  Ông ta không viết một cuốn sách nào.  Ngay cả hình dáng của ông ra sao cũng không ai biết.  Không có ngay cả một bằng chứng nào tự nó có giá trị để chứng tỏ là ông đã hiện hữu.  Những tài liệu hiện hữu, những phúc âm, chỉ viết về một phần nhỏ nhoi của đời ông và được viết theo quan điểm sùng bái cá nhân và nghi thức tôn giáo chứ không phải theo quan điểm sử học thông thường.  Trong những chuyện kể trong phúc âm có những điều bất phù hợp nghiêm trọng cũng như những điều rõ ràng là không thể xảy ra. 13

   Và Linh Mục Ernie Bringas cũng viết như sau, trong cuốn Thi Hành Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Do Quyền Lực Thánh Kinh Gây Nên:

   Điểm đồng thuận ngày nay là nhân vật lịch sử Giê-su - những lời Giê su nói và những hành động Giê-su làm, và những biến cố xảy ra trong cuộc đời của ông - không thể xác định được chính xác.   Trong khi chúng ta biết tác giả của một phúc âm nhìn nhân vật Giêsu như thế nào như họ đã viết lại (và viết lại như thế nào), thường là chúng ta không thể đi quá những điều viết trong phúc âm để biết về chính con người thực của Giê-su.  Chúng ta không thể đoan quyết là những lời nào viết trong phúc âm về cuộc đời của Giê-su là đúng như sự thực.14

   Trên đây chỉ là những nhận định tổng quát về lý lịch mập mờ của Giêsu.  Đi vào chi tiết và dựa trên Thánh Kinh, chúng ta còn thấy rõ ràng là không có một căn bản nào có tính cách thuyết phục để cho những người có đầu óc có thể tin vào nhân vật Giê su vì trong Thánh Kinh có quá nhiều điều mâu thuẫn về con người lịch sử Giê su.  Những chi tiết về một phần nhỏ, khoảng 1/10 cuộc đời của Giê-su được mô tả trong bốn Phúc Âm Matthew, Mark, Luke, và John. Nhưng chính những chi tiết này: khi sinh ra đời, gia phả, thời gian gần 3 năm đi giảng đạo, khi chết, đều hoàn toàn mâu thuẫn nhau.  Cho nên, chúng ta không thể dựa vào đâu để tin chi tiết nào thật, chi tiết nào giả.  Chúng ta hãy đọc một phần nhỏ sự phân tích sau đây của Thomas Paine trong cuốn Thời Đại Lý Trí (The Age of Reason), một cuốn sách đã giữ một địa vị cao trong nền văn học Tây phương từ thế kỷ 19 đến nay, về nhân vật Giê-su:

   Lịch sử Giêsu KiTô được viết trong 4 cuốn mà người ta cho là Matthew, Mark, Luke, và John viết. Chương đầu trong Matthew bắt đầu bằng gia hệ của Giêsu KiTô, và trong chương 3 của Luke cũng có gia hệ của Giêsu KiTô.  Nếu 2 gia hệ này phù hợp nhau, chúng cũng không chứng minh được là đúng vì đó có thể là một gia hệ đã được đặt ra; nhưng vì chúng mâu thuẫn nhau về từng chi tiết một, điều này chứng tỏ một cách tuyệt đối là chúng đều là giả.

   Nếu Matthew đúng thì Luke phải sai; nếu Luke đúng thì Matthew phải sai; và vì không thể dựa vào đâu để tin ai đúng hơn ai, cho nên không dựa vào đâu để mà tin ai; và nếu chúng ta không thể tin được điều đầu tiên mà họ đưa ra, làm sao chúng ta có thể tin được những điều họ nói về sau?  Nếu chúng ta không thể tin họ về gia hệ của Giêsu mà họ đưa ra, làm sao chúng ta có thể tin được khi họ nói với chúng ta những điều kỳ lạ như Giê su là con của Thần sinh ra bởi một hồn ma, và một thiên thần đã bí mật loan báo sự này cho mẹ của Giêsu? 15

   Lý lịch không rõ ràng của Giê-su, do đó, là một lợi điểm để cho Giáo hội khai thác và mê hoặc những tín đồ đầu óc thấp kém, vì Giáo hội muốn giải thích thế nào cũng được, đặt ra chuyện nào cũng xong, và với phương pháp nhồi sọ tín đồ ngay từ trong sữa mẹ, uốn nắn đầu óc để cho tín đồ tuân phục hệ thống quyền lực trong Giáo hội, tín đồ trở thành những người bị điều kiện hóa, không còn khả năng suy luận, chỉ còn biết tin theo một cách mù quáng đi đến độ cuồng tín, không hề thắc mắc.  Họ đáng thương hơn là đáng trách.

   Những tín đồ này bị nhồi vào đầu những huyền thoại về tội tổ tông, về tư cách thần thánh của Giê-su, về khả năng "cứu rỗi" của Giê-su, do đó tin rằng con người sinh ra là có tội, cần sự "chuộc tội" và "cứu rỗi" của Giê-su, và tin vào những lời hứa hẹn về một đời sau tốt đẹp hơn ở trên thiên đường, dù rằng từ xưa tới nay chưa có ai từ thế giới bên kia trở về để cho thế gian biết thực chất của sự cứu rỗi đó như thế nào, vì sự cứu rỗi này chỉ xảy ra, nếu có, sau khi chết.   Giê-su là một người Do Thái đãỵ chết như mọi người, nhưng được vài tín đồ sùng bái, đơn phương khẳng định ông là con một của Thần Ki Tô, đã chết đi như mọi người nhưng rồi sống lại và bay lên trời, sẽ trở lại trần gian để phán xét mọi người, sống cũng như chết, và những ai tin vào ông sẽ được ông "cứu rỗi", cho lên Thiên đường ở cùng ông v..v.., một huyền thoại được kể lại với nhiều chi tiết mâu thuẫn khác nhau bởi những người viết Tân Ước, và lẽ dĩ nhiên chưa ai có thể kiểm chứng được sự "cứu rỗi" này  suốt trong 2000 năm lịch sử của Ki Tô Giáo.  Trái lại, ngày nay các chuyên gia nghiên cứu tôn giáo và cổ sử trong và ngoài giáo hội đã bác bỏ hoàn toàn những huyền thoại về Giê-su kể trên, như sẽ được trình bày trong những phần phân tích sau đây.

       Điều đáng nói nhất là các tín đồ Ca-Tô được nhồi sọ từ nhỏ để tin vào Giê-su, người mà họ coi là Chúa "phép tắc vô cùng", là "tình yêu", là "ơn cứu rỗi" v..v.. trong khi họ không hề biết gì về Chúa.  Họ không hề đọc Thánh Kinh nên không biết rằng, tất cả những điều họ biết về Giêsu chỉ là những điều họ được cha mẹ, trước đã bị nhồi sọ nay lại nhồi sọ lại cho con cái, hoặc do các Linh mục giảng trong nhà thờ, phần lớn là những điều chọn lọc một chiều trong Thánh Kinh mà bỏ qua những điều phản ánh tư cách và hành động thấp kém, ác độc của Giê-su.  

   Thật vậy, Giám mục Spong, trong cuốn Hãy Cứu Cuốn Thánh Kinh Ra Khỏi Phái Bảo Thủ, viết rằng:

   Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.16

   Phải chăng Giám mục Spong viết sai sự thực?  Không đâu.  Đọc Tân Ước, chúng ta thấy những lời nói và hành động của Giê-su còn tệ hơn là của một người thường. Chứng minh?

   Trong "Bài Giảng Trên Núi" (Sermont on the Mount), bài giảng mà các tín đồ Ca-Tô thường coi là tuyệt vời, Giê-su dạy môn đồ "phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho người khủng bố hành hạ các con" (Matthew 5: 44), nhưng chính Giê-su thì lại hành động ngược lại:

  Giê-su phán, Matthew 12: 30:

        Kẻ nào không theo ta, ở với ta, là chống đối ta.

   coi những người không tuân phục Giê-su là kẻ thù và dạy môn đồ, Luke 19:27 :

   Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây, những người không muốn Ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt Ta.

    Giê-su dạy: "Người nào nguyền rủa anh em sẽ bị lửa địa ngục hình phạt" (Matthew 5:22) nhưng chính Giê-su lại đi nguyền rủa những người không chịu theo Giê-su:

   Luke 8: 24: Nếu ngươi không tin ta là con Thượng Đế, ngươi sẽ chết trong tội lỗi của ngươi.

   Matthew 12: 34: Ôi thế hệ của những loài rắn độc, ác như các ngươi làm sao có thể nói những lời tốt lành?

   Matthew 23: 33: Ngươi là loài rắn, ngươi là thế hệ của những rắn độc, làm sao các ngươi thoát khỏi hỏa ngục?

      Tuyệt đối tin vào Thánh Kinh, Giáo hội Ca-Tô đã gây nên 9 cuộc Thánh Chiến, kéo dài những Tòa Hình Án (Inquisition) trong 400 năm, bách hại dân Do Thái trong suốt 2000 năm, làm tiền phong, đồng hành, hay theo gót thực dân v...v... nhằm tiêu diệt những người không tin Giê-su, không muốn theo đạo Chúa, với kết quả là cả trăm triệu sinh mạng vô tội đã được Giáo hội, nhân danh tình yêu của Chúa, nhân danh chương trình "cứu rỗi" của Chúa, tra tấn, tù đầy và giết chóc.

   Nhưng không phải chỉ có vậy.  Chúng ta còn thấy trong Thánh Kinh những lời nói, hành động của Chúa Con chứng tỏ một tâm địa hẹp hòi, độc ác, chứa đầy hận thù đối với ngay cả chính gia đình mình.  Chứng minh?  Chúng ta hãy trích dẫn vài đoạn khác trong Thánh Kinh.  Trước hết, Giê-su đối với cha mẹ ra sao?

   Chúng ta thấy trong John 2: 4, Jesus trả lời mẹ khi bà nói với Jesus là rượu đã hết trong một tiệc cưới: 

         Người đàn bà kia, sự quan tâm của bà có liên quan gì tới Ta?  Chưa đến lúc Ta trổ tài. 

      Tài gì?  Tài biến nước thành rượu.  Đây có phải là lời lẽ của một người con hiếu kính cha mẹ?  Và khi một đệ tử của Jesus nói, Matthew 8: 21-22:

    Xin để con đi chôn cất cha con xong con sẽ đi theo Ngài" Jesus trả lời: "Hãy đi theo ta ngay, hãy để cho người chết (người không đi theo Giêsu. TCN) lo mai táng người chết của họ.

      Phải chăng đây là sự khuyến khích lòng hiếu kính đối với cha mẹ?

   Mục đích của Giê-su sinh ra trên thế gian là gì, Matthew 10: 34-36 đã viết rõ:

   Đừng tưởng rằng Ta xuống trần để mang lại hòa bình trên trái đất.  Ta không xuống đây để mang lại hòa bình mà là gươm giáo.  Vì Ta xuống đây để làm cho con chống lại cha, con gái chống lại mẹ, con dâu chống lại mẹ chồng, và kẻ thù của con người ở ngay trong nhà hắn.

    Sau đây là điều kiện Jesus đặt ra cho những người nào muốn làm môn đồ của ông, Luke 14: 26:

   Nếu kẻ nào đến với ta mà không "căm ghét" cha mẹ, vợ con, anh chị em, và ngay cả đời sống của hắn, thì hắn không thể là môn đồ của ta.

      Theo Gene Kasmar trong cuốn All The Obscenities in the Bible, p. 359, thì chữ "căm ghét" là dịch từ tiếng Hi Lạp (Thánh Kinh gốc viết bằng tiếng Hi Lạp)  "miseo", có nghĩa là ghét tởm và khinh khi.

     Trên đây tôi vừa trích dẫn vài lời nói của Giê-su, những lời nói phản ánh một bộ mặt khác của Giê-su mà các tín đồ thường không bao giờ biết đến.  Sau đây là vài hành động của Giê-su cũng phản ánh "tình yêu" thực sự của Giê-su đối với đồng loại, súc vật và cây cỏ.

   Chúng ta biết rằng, trong Matthew 15:26 và Mark 7: 25-29, khi một người đàn bà không phải là người Do Thái đến xin Giê-su chữa bệnh cho con gái thì Giê-su đã từ chối, nói rằng ông ta xuống trần chỉ để cứu người Do Thái mà thôi, và còn gọi người đàn bà kia là chó.   Sau người đàn bà chấp nhận thân phận mình là chó để chứng tỏ lòng tin vào Giê-su nên Giê-su mới chữa cho con gái bà khỏi bệnh.  Đó là tình yêu của Chúa đối với đồng loại.

   Từ chuyện này tôi nghĩ, người nào không phải là dân Do Thái muốn tìm sự cứu rỗi trong Chúa Giê-su xin cứ tùy tiện, tôi tuyệt đối tôn trọng niềm tin của họ, nhưng trước hết họ phải từ bỏ thân phận làm người của mình rồi hãy tính chuyện cứu rỗi.

   Chúng ta cũng đã biết, trong Matthew: 8: 32, Mark 5: 13, Giê-su đã đuổi quỷ từ trong hai người bị quỷ ám, cho chúng nhập vào 2000 con heo rồi bắt đàn heo rông xuống biển chết đuối hết.  Đó là tình yêu của Chúa đối với đàn súc vật vô tội.

   Và chúng ta cũng biết,  trong Matthew: 21: 18,19, hôm đó Giê-su đang đói, nhìn đàng xa thấy một cây sung, nhưng tới gần chẳng thấy có quả nào, Giê-su bèn nổi sùng rủa một tiếng, thế là cây sung chết héo queo, không bao giờ có thể ra trái nữa.  Đó là tình yêu của Chúa đối với cây cỏ.  Điểm đáng nói trong chuyện này là:  Giê-su có tài biến nước thành rượu, biến một ổ bánh mì thành trăm ổ bánh mì, vậy làm sao ông ta có thể đói được.   Hơn nữa, ông ta “phép tắc vô cùng” nhưng lại không thể làm cho cây sung ra trái lúc trái mùa để cho mình ăn lúc đói, rồi phải trổ tài làm "phép lạ" nguyền rủa cho cây sung chết héo không bao giờ ra quả được nữa.

   Lẽ dĩ nhiên, những mâu thuẫn trong lời nói và hành động của Giê-su như vừa nêu ở trên không bao giờ được giảng dạy trong nhà thờ.

   Quyền tự do tín ngưỡng là quyền của mọi người.  Ai muốn tin vào một Giê-su nhân từ, có khả năng cứu rỗi những người tin ở sự cứu rỗi, thì cứ việc tin.  Tôi tuyệt đối không ngăn cản.  Nhưng đối với tôi, từ những điều tôi đọc được trong Tân Ước về tư cách và đạo đức của Giê-su, thì Giê-su không đáng để tôi kính trọng, đừng nói là thờ phụng.   Đừng có cho là tôi phỉ báng Chúa.  Chính Tân Ước đã phỉ báng Chúa.  Và, không phải vì tôi là người không theo đạo Chúa mới có ý kiến như trên.  Chính Giám mục Spong cũng đã có những ý kiến tương tự (Ibid., trg. 21,24):

   Chúng ta có thấy hấp dẫn đối với một Chúa phải giết cả một bày heo để đuổi một con quỷ ra khỏi thân người hay không?  Chúng ta có nên khâm phục và kính trọng người mà chúng ta gọi là Chúa đã nguyền rủa một cây sung khi nó không ra trái lúc trái mùa không?...

    Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị.  Nó đưa đến cho tôi một vị Thần mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng.17

      Các tín đồ ngày ngày đọc Kinh Tin Kính, tin rằng Giê-su Ki Tô là con một Đức Chúa Cha.  Như vậy thì họ là gì của Đức Chúa Cha, là những đồ chơi của Đức Chúa Cha?  Và tại sao họ thường cầu nguyện một câu hoàn toàn vô nghĩa: "Lạy Cha chúng tôi ở trên Trời", vô nghĩa vì Chúa Cha chỉ có một con là Giêsu.  Vậy họ lấy tư cách gì để mà gọi Chúa Cha là Cha?  Rồi giáo hội dạy họ phải gọi các Linh Mục là Cha, coi Cha cũng như Chúa, nhưng thực ra Chúa chẳng phải là Cha của họ, chỉ là Cha của Giê-su mà thôi, cho nên khi họ gọi các Linh Mục là Cha thì đó là gọi bừa, vì Cha đâu phải là Cha, chẳng qua chỉ là người học vài năm làm nghề Linh Mục để chăn dắt đám tín đồ thấp kém, nhắc lại cho họ những điều "giáo hội dạy rằng", và cả Cha lẫn con đều không thấy sự mâu thuẫn trong câu "là con một Đức Chúa Cha" trong Kinh Tin Kính.

   ...Bởi Phép Đức Chúa Thánh Thần Mà Người Xuống Thai, Sinh Bởi Bà Maria Đồng trinh...

    Câu trên tóm tắt huyền thoại về sự sinh ra đời của Giê-su, chủ ý muốn chứng minh tư cách thần thánh của Giê-su.  Nhưng Thánh Kinh lại viết rõ rằng, Giê-su có nhiều anh chị em.  Điều này có nghĩa là bà Mary, thân mẫu của Giê-su, đã sinh nở nhiều lần.

   Không đếm xỉa gì tới Thánh Kinh, Giáo hội Gia Tô quyết định rằng: bà Mary vẫn còn đồng trinh.  Theo như lời dạy của Giáo hội cho đám tín đồ thấp kém,  Giáo hội Gia Tô được Thánh Linh hướng dẫn trong mọi sự việc nên không thể sai lầm.  Do đó, các tín đồ, nhất là đa số tín đồ Việt Nam, vì không bao giờ đọc Thánh Kinh và thường bị nhốt trong những ốc đảo ngu dốt (từ của LM Trần Tam Tĩnh), nên tuyệt đối tin rằng bà Mary vẫn còn đồng trinh.  Lý trí có thể dùng được gì trong đức tin này?  Vì nếu con người sử dụng đến lý trí thì câu hỏi đầu tiên được đặt ra là: làm sao mà một người đàn bà, sau khi đã sinh đẻ nhiều lần, vẫn còn đồng trinh?  Từ “Mẹ đồng trinh” (Virgin Mother) là một từ đầy mâu thuẫn đối với thế giới hiện đại.

   Vậy tín lý "đồng trinh" đưa ra chỉ để thần thánh hóa một người đàn bà ngẫu nhiên làm mẹ của Chúa Giê-su và nhốt tín đồ vào vòng mê tín. Chưa kể là cái huyền thoại "đồng trinh" này đã được cóp nhặt từ nhiều huyền thoại "đồng trinh" khác trong dân gian như các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh đã chứng minh.  Thật vậy, muốn chứng tỏ sự hoang đường của thuyết Giê-su là con Thiên Chúa, sinh ra từ Mary đồng trinh, chúng ta cần phải biết chút ít về lịch sử  nhân loại và Tân Ước. 

   Trong lịch sử nhân loại đã có nhiều nhân vật được coi là sinh ra từ một trinh nữ, Giê-su không phải là nhân vật đầu tiên.  Chúng ta có thể kể: Horus, một vị Thần Ai Cập, sinh ra từ trinh nữ Isis vào khoảng 1550 TTL; Attis sinh ra từ trinh nữ Nama ở miền Phrygia, vào khoảng 200 TTL; Quirrnus, một đấng cứu thế của dân La Mã, sinh ra từ một trinh nữ khoảng thế kỷ 6 TTL; Adonis, một vị Thần của dân Babylone, sinh ra từ trinh nữ Ishtar; Mithra, một vị Thần của dân Ba Tư, sinh ra từ một trinh nữ khoảng 600 TTL; Krishna, một vị Thần Ấn độ, sinh ra từ trinh nữ Devaki, vào khoảng 1200 TTL v...v... Như vậy, huyền thoại Giê-su sinh ra từ Mary đồng trinh cũng chẳng có gì đặc biệt,  độc đáo, và đáng tin cậy hơn các huyền thoại "đồng trinh" khác.

   Trong Tân Ước, những thư của Thánh Paul (Phaolồ) được coi như là viết sớm nhất, vào khoảng từ 15 đến 20 năm sau khi Giê-su chết trên thập giá, coi Giê-su như là con đẻ của một Joseph và Mary (born of a woman).   Trong 4 Phúc Âm thì Phúc Âm Mark được coi là viết trước tiên và viết vào khoảng 20 năm sau Paul, nghĩa là 40 năm sau khi Giê-su chết, không hề viết gì về chuyện Giê-su sinh ra từ Mary đồng trinh.  Phúc Âm sau cùng, John, viết vào đầu thế kỷ 2,  cũng không viết gì về hiện tượng này.  Chỉ có hai Phúc Âm Matthew và Luke, viết sau Phúc Âm Mark cả vài chục năm, và 90% là cóp nhặt của Mark, là thêm thắt vào chuyện Giêsu sinh ra từ Maria đồng trinh.  Nhưng chuyện "giáng sinh" của Giêsu  trong hai Phúc Âm Matthew và Luke lại hoàn toàn khác nhau và chứa nhiều mâu thuẫn, sự kiện lịch sử sai lầm v..v.. nên người đọc chẳng biết tin ai vì không có căn bản nào để mà tin ai là đúng.

   Ngoài ra, giáo hội còn dạy đám tín đồ có đầu óc khuyết tật rằng: Giê-su là đấng cứu thế, thuộc dòng dõi vua David, theo như lời tiên tri trong Cựu Ước.  Và các tín đồ cứ nhắm mắt tin theo, không hề để tâm suy nghĩ để biết rằng, "sinh ra từ Mary đồng trinh" và "đấng cứu thế" là hai vai trò không thể cùng lúc diễn xuất trên sân khấu.

    Để chứng minh đầu óc của đa số tín đồ Ca-Tô thuộc loại khuyết tật, không có khả năng suy nghĩ, tôi xin trích dẫn đoạn sau đây của Đức Ông Trần Văn Khả trong cuốn "Trần Lục", nhiều tác giả, xuất bản tại Canada, năm 1996.  Đức Ông Trần Văn Khả viết về Giê-su như sau, trang 269:

   Trong Kinh cầu Thánh Giuse, chúng ta đọc như sau: "Ông Thánh Giuse là Cha Nuôi Con Đức Chúa Trời";

   Ngay sau đó Đức Ông viết: “Chúa Giêsu là dòng dõi Vua Đa-vít, mà Thánh Giuse là một thành phần (Matthew 1:16). “

   Đó là những lời "giáo hội dạy rằng", và Đức Ông nhắc lại mà không hề suy nghĩ.  Thật vậy, nếu Giuse chỉ là cha nuôi của Giê-su thì dù cho Giuse thuộc dòng dõi vua David, Giê-su cũng không thể nào thuộc dòng dõi vua David.  Vì sao?  Vì Giê-su là hoa trái của sự "xâm phạm tiết hạnh" của Thánh Ma vào Mary, một người đàn bà Do Thái đã có chồng là Joseph (Giu-se), nếu chúng ta tin được chuyện Thánh Linh có thể làm cho Mary mang thai.   Vì vậy, Giê-su mới được gọi là Con Thiên Chúa và Giu-se mới được coi như là cha nuôi của Giê-su.  Đã là Con Thiên Chúa thì không thể thuộc dòng dõi vua David, dù cha nuôi của Giê-su là Giu-se thuộc dòng dõi vua David.  Tôi có cảm tưởng rằng Đức Ông Trần Văn Khả cũng như các tín đồ Ca-Tô, được Giáo hội dạy sao thì cứ nhắc lại đúng như vậy mà không hề bận tâm suy nghĩ xem điều mình nói có hợp lý hay không.  Nhưng tại sao Giáo hội lại dạy Giê-su thuộc dòng dõi vua David?  Vì, như đã trình bày trong chương trên, theo niềm tin của dân Do Thái thời bấy giờ, thì một đấng Cứu Thế sẽ xuất hiện để giải phóng dân Do Thái ra khỏi ách thống trị của La Mã, và đấng Cứu Thế này bắt buộc phải thuộc dòng dõi Vua David, vì David là một ông Vua có công chiến thắng dân Canaan, mở mang nước Do Thái.  Do đó, vài người Do Thái theo Giêsu, viết Phúc Âm, vừa muốn chứng minh rằng Giêsu đích thực là đấng Cứu Thế nên phải thuộc dòng dõi vua David, vừa muốn "chứng minh" rằng Giêsu là Con Thiên Chúa nên mới đặt ra câu chuyện hoang đường là do Thánh Ma phủ nên Mary sinh ra Giê-su.  Nhưng trí tuệ của những người viết Phúc Âm vào thời đó chưa đủ trình độ để nhận ra tính loại trừ hỗ tương (mutual exclusive),  nghĩa là có cái này thì không thể có cái kia, về hai vai trò "Con Thiên Chúa" và "Thuộc dòng dõi vua David".  Khoan nói đến chuyện Matthew và Luke viết về gia phả Giê-su, từ vua David trở xuống, hoàn toàn khác nhau, với một đàng thì 28 thế hệ, đàng khác thì 42 thế hệ với tên khác nhau.  Vì thế, ngày nay thế giới mới cho rằng tiểu sử của Giê-su là một tiểu sử bất minh nhất trong những tiểu sử bất minh.

    Chuyện Giê-su sinh ra từ Mary đồng trinh đã là đề tài nghiên cứu của nhiều người, gồm đủ thành phần trí thức trong xã hội: linh mục, giám mục, nhà thần học, học giả, giáo sư đại học v...v...   Tuy nhiên, chẳng cần phải là những bậc trí thức chuyên gia như trên, chỉ cần đầu óc có đôi chút suy luận chúng ta cũng có thể thấy sự mâu thuẫn trong thuyết “Mary đồng trinh” nằm ngay trong Thánh Kinh.

   Trước hết, chúng ta hãy xem Thánh Kinh kể chuyện Giêsu sinh ra từ “Mary đồng trinh” ra sao.  Như trên đã nói, trong Tân Ước chỉ có hai Phúc Âm Matthew và Luke là nói về chuyện này, hai Phúc Âm này viết sau khi Giê-su chết từ 50 tới 70 năm.

   Phúc Âm Matthew (Mã-Thi) kể như sau, Matthew 1: 18-24, xin đặc biệt chú ý những đoạn chữ đậm:

   Sự sinh ra của Giê-su Ki Tô như sau: Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với Thánh Linh.

   Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn.

   Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh.  Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của no頫hỏi tội lỗi.

   Việc xảy ra đúng như lời Thần Ki Tô tiên đoán qua nhà tiên tri:

   “Này, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và họ (they? Ai?)   sẽ đặt tên cho hắn là Immanuel”, có nghĩa là “Thần ở cùng ta”.

   Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Giê su.

     Chúng ta hãy phân tích đoạn trên trong Thánh Kinh.  Phân tích Thánh Kinh với đầu óc tỉnh táo, không mê mẩn, là một nghệ thuật, vì chúng ta có thể khám phá ra nhiều điều kỳ thú để mà thưởng thức. Đoạn trên thường được các linh mục viện dẫn và giảng trong nhà thờ là sự kiện Giê-su sinh ra đời phù hợp với lời tiên tri trong Cựu Ước, Isaiah 7: 14: “Cho nên, chính Thần sẽ cho ngươi một dấu hiệu: Này, một trinh nữ sẽ mang thai và sinh ra con trai, và đặt tên nó là Immanuel.” (Therefore the Lord Himself will give you a sign: Behold, the virgin shall conceive and bear a son, and shall call his name Immanuel.)  Nhưng đọc kỹ đoạn kinh trên, chúng ta thấy rõ ràng Mã-Thi (Matthew) đã xen lẫn thật với giả và để lộ nhiều sơ hở. 

   Thật vậy, thứ nhất, chuyện Joseph tốt bụng, không muốn làm lớn trước công chúng chuyện bụng Mary càng ngày càng to, và định kín đáo từ hôn không thể thực hiện được trong thời đó, theo luật của Do Thái.  Randel Helms viết trong cuốn Những Chuyện Giả tưởng Trong Phúc Âm (Gospel Fictions), trang 48:  “Có lẽ Matthew không biết là theo luật Do Thái, điều này (kín đáo từ hôn) không thể nào thực hiện được; việc từ hôn phải hợp pháp và công khai” (Matthew was perhaps unaware that this (the marriage contract set aside quietly) was not possible under Jewish law; the process had to be legal and public.)

   Thứ nhì, chuyện thiên sứ hiện ra trong giấc mộng của Joseph thì chỉ có mình Joseph biết, và Thánh Kinh không hề có chỗ nào viết là Joseph kể chuyện này cho ai.  Matthew viết phúc âm Matthew khoảng 60 năm sau khi Giê-su chết, có nghĩa là khoảng 90 năm sau khi Giê-su sinh ra đời.  Matthew không thể là một nhân chứng trong giấc mộng của Joseph.  Mặt khác, Matthew không phải là một tông đồ của Giê-su.  Kết luận?  Đây chỉ là một chuyện Matthew “bày đặt” ra với mục đích thần thánh hóa người mình sùng tín: Giê-su, theo niềm tin riêng của mình.  Nhưng chính cái chuyện bày đặt này lại chứng tỏ Matthew không được thông minh cho lắm, vì ông ta chỉ lấy ra cái đầu còn dấu đi cái đuôi.  Ông ta lấy một câu trong Cựu Ước, Isaiah 7: 14, để chứng minh rằng Giê-su sinh ra đúng như lời tiên tri trong Cựu Ước.  Ông ta biết rằng dân thường thời đó chẳng bao giờ đọc Cựu Ước, cũng như ngày nay, các linh mục lấy những đoạn trong Thánh Kinh, ngoài toàn bộ vấn đề (out of context), để giảng cho tín đồ vì biết tín đồ không bao giờ đọc Thánh Kinh.  Thật vậy, câu trong Isaiah 7:14, “Cho nên, chính Thần sẽ cho ngươi một dấu hiệu: Này, một trinh nữ sẽ mang thai và sinh ra con trai, và đặt tên nó là Immanuel.”  chẳng phải là lời tiên tri chuyện Giê-su ra đời mà là Isaiah nói ra trong một trường hợp khác hẳn.  Đây là trường hợp vua Ahaz của xứ Judah (Nam Do Thái) đang bị hai kẻ thù, Syria và Israel (Bắc Do Thái) tấn công.   Nhà “tiên tri” Isaiah của xứ Judah thời đó trấn an nhà vua bằng một lời “tiên tri”, rằng hai kẻ thù kia sẽ bị đánh bại.  Khi nào?  Lời “tiên tri” của Isaiah đã nói lên rõ ràng, Isaiah 7: 14-16:

  Cho nên, chính Thần sẽ cho ngươi một dấu hiệu: Này, một một người đàn bà trẻ sẽ mang thai và sinh ra con trai, và đặt tên nó là Immanuel.

   Đứa trẻ đó sẽ ăn bơ và mật cho đến khi biết bỏ điều ác chọn điều thiện.

   Nhưng trước khi đứa trẻ ấy biết bỏ điều ác, chọn điều thiện, thì đất nước của hai vua mà ngài đang sợ hãi sẽ bị hoang vu.

      Chúng ta thấy ngay  sự xảo quyệt của Matthew trong việc trích dẫn Cựu Ước trên với mục đích truyền bá niềm tin riêng của mình.  Truyền thống này kéo dài trong giáo hội Gia Tô cho tới ngày nay với những câu thêm thắt, ngụy tạo trong Tân Ước, cùng những lời diễn giảng cắt xén chọn lọc ngoài toàn bộ vấn đề.  Mặt khác, Isaiah thường được coi như là một nhà đại tiên tri trong Cựu Ước.  Nhưng thực ra, Isaiah chỉ “tiên tri” láo, vì lời “tiên tri” trong Isaiah 7: 14-16 ở trên hoàn toàn sai với sự thực nếu chúng ta đọc II Sử Ký 28 (2 Chronicles 28) kể chuyện Ahaz xứ Judah bị hai nước đánh bại thê thảm như sau:

   Ahaz được 20 tuổi khi lên ngôi, trị vì 16 năm tại Jerusalem..  Thần Ki Tô phó mặc Ahaz trong tay của vua Syria.  Quân đội Syria đánh bại Ahaz, bắt vô số tù binh giải về Damascus.   Thần Ki Tô cũng phó mặc Ahaz trong tay của vua Israel.  Quân đội Israel đánh bại Ahaz qua một cuộc tàn sát lớn.   Vì Pekah, con của Remaliah, đã giết  một trăm hai mươi ngàn (120000) người Judah trong một ngày, tuy họ đều là dũng sĩ.. Và quân đội Israel cũng bắt đi hai trăm ngàn (200000) tù binh gồm đàn bà, con trai, con gái, và cướp đi hầu hết của cải và mang về Samaria.

   Thứ ba, trong văn bản gốc Thánh Kinh bằng tiếng Do Thái, Isaiah nói trong Isaiah 7: 14 là “Này, một người đàn bà trẻ đang mang thai..” (a young woman is with child) chứ không phải là một trinh nữ sẽ mang thai.   Isaiah dùng chữ “almah”, có nghĩa là “người đàn bà trẻ” (young woman), có chồng hoặc chưa có chồng.  Còn trinh nữ, tiếng Do Thái là “betulah”.  Nếu Asaiah muốn nói đến một trinh nữ thì phải dùng chữ “betulah”.  Trong thời điểm mà người Do Thái càng ngày càng đông ở Hi Lạp, các dịch giả đã dịch chữ “almah” thành “parthenos” trong tiếng Hi Lạp.  Parthenos có nhiều nghĩa, và một trong những nghĩa này là trinh nữ.  Giáo hội đã dựa vào văn bản tiếng Hi Lạp, nhặt câu trên từ Cựu Ước ra và diễn giảng lệch lạc rằng đó là lời tiên tri về sự sinh ra của Giê-su tuy sự thực câu trên chẳng liên quan gì đến sự sinh ra của Giê-su, như tôi vừa chứng minh ở trên.

   Thứ tư, nếu chúng ta không dùng đến đầu óc, cứ giáo hội dạy sao thì tin vậy, và tin rằng thực sự nhà tiên tri Isaiah đã tiên đoán sự sinh ra của Giê-su từ một trinh nữ, thì tên của đứa trẻ phải là Immanuel chứ không phải là Jesus.

   Thứ năm, câu cuối nói lên một sự kiện rõ ràng nhất: “Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Giê su.”  Câu này hàm ý Giê-su chỉ là đứa con đầu lòng của Mary, Mary còn nhiều đứa con khác nữa.  Joseph chỉ không giao hợp với Mary cho đến khi Mary sinh ra Giê-su.  Sau đó thì Joseph tha hồ làm bổn phận người chồng.  Do đó, một đoạn khác trong Thánh Kinh mới kể rằng Giê-su có 4 người em trai và ít nhất là 2 em gái (Mark 6: 3: “Đây có phải là anh thợ mộc (Giê-su), con bà Mary, anh của James, Joses, Judas, và Simon?  Các em gái của hắn chẳng phải đang có mặt tại đây sao?” (Is this not the carpenter, the son of Mary, and brother of James, Joses, Judas, and Simon?  And are not his sisters here with us?).  Vậy mà Mary vẫn còn đồng trinh cho tới bây giờ, đầu thế kỷ 21.  Học thuật Gia Tô (Catholic scholarship) quả thật là tuyệt vời trong việc uốn nắn đầu óc tín đồ.  Nhưng đối với các học giả nghiên cứu Thánh Kinh và cổ sử thì câu “Đây có phải là anh thợ mộc, con bà Mary” lại nói lên một chuyện khác.  Theo truyền thống Do Thái thời bấy giờ thì dân chúng thường gọi một người còn trẻ là con ông này, con ông nọ, chứ không bao giờ gọi là con của bà này, bà nọ.  Gia hệ của Giê-su trong Matthew và Luke đều kể tên đàn ông qua nhiều đời.  Trường hợp gọi một người là con của bà này, bà nọ là để ám chỉ đứa con đó là đứa con hoang (bastard). 

   Thật vậy, trong tuần báo Time, tờ báo có uy tín và phát hành vào bậc nhất trên thế giới, số ngày 6 tháng 12, 1999, có bài viết của Reynolds Price, một học giả chuyên gia về Thánh Kinh (biblical scholar), về Giê-su ở Nazareth: Xưa và Nay (Jesus of Nazareth: Then and Now).  Tác giả viện dẫn Phúc Âm James và viết như sau:

   Chuyện người ta cho rằng Giê-su là đứa con hoang có lẽ uẩn hàm trong câu hỏi của dân làng trong Mark 6, “Đây có phải là con bà Mary không?”  Bị gọi là con của người mẹ, thay vì con của người cha, thường hàm ý đó là đứa con hoang, hay ít nhất là một dấu chỉ không biết cha là ai, bất kể người cha này là thần thánh hay là người thường.  Nhiều người chống đối thuyết đồng trinh thời đó cũng cho rằng Mary có mang Giê-su với một người lính La Mã tên là Panthera.  Chuyện sinh ra đời của Giê-su thật là mù mờ bởi những nghi vấn về người cha là ai.18

      Nhiều học giả cho rằng, rất có thể những chuyện Giêsu sinh ra từ một trinh nữ trong Matthew và Luke được tạo ra để che đậy những phê bình phân tích về Ki Tô Giáo trong thế kỷ đầu: Giê-su là một đứa con hoang của Mary.  Rải rác trong các Phúc Âm có những chi tiết chứng tỏ như vậy, nếu chúng ta biết đọc những bản văn này. Cũng vì vậy mà Giám Mục Spong, trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Giê-su Sinh Ra Đời, đã đưa ra nhận xét:

   Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này.  Chẳng có ai biết cha ông ta là ai.  Rất có thể ông ta là một đứa con hoang.  Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những trái mìn chưa kiếm ra và chưa nổ . 19

   Chúng ta nên để ý, trong cuốn Thánh Kinh, bản Mới Duyệt Lại dùng làm chuẩn (New Revised Standard Version of the Bible), từ “trinh nữ” (virgin) đã được bỏ đi và thay bằng từ “người đàn bà trẻ” (young woman) trong câu Isaiah 7: 14, để cho đúng với văn bản gốc bằng tiếng Do Thái.

   Luke 1: 26- 33 cũng thuật lại chuyện sinh ra của Giê-su như sau: 

   Qua tháng sáu, Thần Ki Tô sai thiên sứ Gabriel vào thành Nazareth, xứ Galilee, đến một trinh nữ đã hứa hôn với một người tên là Joseph, thuộc dòng dõi vua David. Tên người trinh nữ là Mary.

   Thiên sứ nói: “Hãy hoan hỉ lên, hỡi người được đặc ân, Chúa ở cùng nàng, phúc cho người đàn bà như nàng.”

   Nhưng khi Mary thấy thiên sứ, không hiểu thiên sứ nói gì, và những lời chúc tụng kia có nghĩa gì.

   Rồi thiên sứ nói với nàng, “Đừng sợ, Mary, vì Thần đã ban đặc ân cho nàng.  Và này, cô sẽ mang thai, và sinh ra một con trai và đặt tên nó là Giê-su.   Đứa trẻ đó sẽ thành vĩ nhân, và sẽ được gọi là con của đấng tối cao; và Thần sẽ cho hắn ngôi vị của David.  Hắn sẽ cai trị dân Do Thái (hậu duệ của Jacob) mãi mãi, và nước hắn cai trị sẽ bất diệt.

       Sau đó Luke viết một chuyện hoang đường nhất trong những chuyện hoang đường như sau:

   Mấy ngày sau (sau khi thiên sứ đến thăm), Mary vội vã lên đường, đến một thành phố miền đồi núi xứ Judah, vào nhà Zacharias thăm bà dì Elizabeth (khi đó Elizabeth đang có mang được 6 tháng. TCN).  Vừa nghe Mary chào, thai trong bụng Elizabeth liền nhảy mừng; và trong Elizabeth có đầy dẫy thánh linh.  Rồi bà ta nói lớn: “Phúc cho cô trong giới phụ nữ, và phúc cho cái thai trong lòng cô .  Nhưng tại sao tôi được ban cái vinh dự là có mẹ Chúa tôi đến thăm?  Thật vậy, vừa nghe tiếng cô chào hỏi là cái thai trong bụng tôi đã nhảy mừng.

        Để cho cuốn sách khỏi quá dài, tôi sẽ không phân tích những đoạn trên trong phúc âm Luke, xin để cho quý độc giả tùy nghi nhận định.  Chẳng biết là Thánh Linh đã làm cho bà Mary mang thai, hay là cái người giả làm thiên sứ Gabriel làm cho bà Mary mang thai.  Ngày nay, cũng có nhiều thiếu nữ nhẹ dạ, tin rằng ngủ với linh mục cũng như ngủ với Chúa, vì Chúa cũng như cha.  Những đứa con lai trong các vùng đi đạo ở Việt Nam (theo sự nhận xét của Phạm Duy), nơi đây chỉ có các linh mục, giám mục mũi lõ mắt xanh chứ không có lính Pháp, dưới thời Pháp thuộc, đã nói lên sự kiện này.  TV Mỹ cũng đưa ra nhiều trường hợp các con chiên kiện các linh mục về tội dụ dỗ theo luận điệu này.  Mặt khác, thiên sứ mới báo tin có vài ngày mà Elizabeth đã biết là Mary mang Chúa trong người, và cả cái thai mới được 6 tháng trong Elizabeth cũng biết, nên vội nhảy mừng.   Chúng ta nên nhớ, thời đó chưa có điện thoại mà cũng chưa có điện thư (E-mail) nên Mary không thể kể cho Elizabeth nghe chuyện thiên sứ đến thăm trước khi đi bộ đến thăm Elizabeth.  Và, từ lúc Mary được thiên sứ đến báo tin sẽ được Thánh Linh làm cho mang thai đến lúc gặp Elizabeth mới chỉ có mấy ngày thôi.  Thánh Kinh toàn những chuyện như vậy, chẳng trách trước đây giáo hội cấm tín đồ không được đọc thánh kinh, vi phạm là bị tuyệt thông.

   Chúng ta cũng nên để ý rằng, ngày nay các chuyên gia khảo cứu Thánh Kinh đã chứng minh rằng Matthew và Luke không phải là môn đồ của Giêsu.  Hai Phúc Âm Matthew và Luke được viết ra ít nhất là 5, 70 năm sau khi Giêsu chết.   Matthew kể rằng Joseph (Giuse), cha của Giêsu, được thiên thần báo mộng cho biết về chuyện Mary được Thánh Ma (Holy Ghost) làm cho mang thai sau khi Mary mang thai được 6 tháng, lẽ dĩ nhiên chuyện nằm mơ này chỉ có mình Joseph biết.  Luke thì kể Mary được thiên thần có tên hẳn hoi là Gabriel đến báo cho biết sẽ được Thánh Ma làm cho mang thai, và chuyện này cũng chỉ có mình Mary biết.  Cả Matthew và Luke đều không phải là môn đồ của Giêsu và cũng chẳng ai biết họ là ai, làm sao họ biết được chuyện mà chỉ có mình Joseph hoặc mình Mary biết.  Không lẽ Joseph và Mary kể lại cho họ nghe?  Điều này phi lý vì đọc Thánh Kinh chúng ta thấy rằng thiên thần Gabriel báo cho Mary biết về ân sủng của Thần cả 6 tháng trước khi một thiên thần khác báo mộng cho Joseph về chuyện này và khuyên Joseph chấp nhận "chuyện đã rồi", đừng có làm to chuyện (Thánh Kinh kể Joseph định bỏ Mary về chuyện "không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chửa thế gian sự thường" này, và Mary cũng không hề nói cho Joseph biết chuyện được "thiên thần" Gabriel thăm viếng.)   Như vậy làm sao chúng ta có thể tin được những điều Matthew và Luke viết?  Phân tích chi tiết nội dung hai Phúc Âm Matthew và Luke, các học giả ngày nay, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, đều cho rằng, mục đích Matthew dựng lên chuyện đồng trinh là để chiêu dụ dân Do Thái tin theo Giê-su, còn Luke dựng lên chuyện đồng trinh khác với Matthew để chiêu dụ dân Gentile.

   Nhưng đọc kỹ Thánh Kinh chúng ta mới thấy trí tuệ của tác giả các phúc âm thật là kém cỏi, để lộ nhiều sơ hở và mâu thuẫn.  Thật vậy, trong Luke 2 có một chuyện khác.  Nhân ngày lễ vượt qua, vợ chồng Joseph, Mary và Giê-su, khi đó mới 12 tuổi, cùng đến Jerusalem.  Sau ngày lễ thì hai vợ chồng Joseph thấy biến mất ông con.  Tưởng rằng ông con đã đi cùng bạn bè đi về nhà nên ông bà cũng trở về nhà.  Nhưng đi suốt cả ngày cũng không thấy Giê-su đâu, lúc bấy giờ mới hỏi thăm và đi tìm Giê-su.  Hai ông bà quay trở lại Jerusalem và ba ngày sau thì thấy Giê-su đang ngồi đối đáp với mấy thầy thông thái trong một đền thờ.  Sau đây là những lời đối đáp giữa bà Mary và ông con Giê-su, trích nguyên văn từ cuốn Kinh Thánh: Cựu Ước và Tân Ước bằng tiếng Việt của  American Bible Society, New York, 1998, trang 58, Lu-Ca (Luke) 2 : 48 -50:

   Khi cha mẹ thấy Ngài, thì lấy làm lạ, và mẹ hỏi rằng: Hỡi con, sao con làm cho hai ta thế này? Này, cha và mẹ đã khó nhọc lắm mà tìm con.  Ngài thưa rằng: Cha mẹ kiếm tôi làm chi?  Há chẳng biết tôi phải lo việc Cha tôi hay sao?  Nhưng hai người không hiểu lời ngài nói chi hết.

   Quý vị có thấy một đứa bé 12 tuổi nào hỗn hào với cha mẹ như vậy chưa, trừ phi nó là con nhà mất dạy.  Trước hết nó ở lại Jerusalem một mình mà không hề xin phép cha mẹ.  Sau đó khi cha mẹ tìm được nó, trách nó, thì nó lại sẵng giọng cùng cha mẹ và hỏi họ kiếm nó làm chi?  Nhưng câu chót “Nhưng hai người không hiểu lời ngài nói chi hết”  đã chứng minh rằng chuyện thiên sứ Gabriel viếng thăm Mary là chuyện phịa, và chuyện thiên sứ báo mộng cho Joseph cũng lại là chuyện phịa nốt, vì nếu thực sự có hai chuyện này thì Joseph và Mary đã biết Giê-su là ân sủng đặc biệt của Thần Ki Tô, là con của Thánh Linh, mà lại không hiểu Giê-su nói gì khi Giê-su nói là đang lo việc của Cha, nghĩa là việc của Thần Ki Tô.

   Đọc đoạn kinh trên, Uta Ranke-Heinemann, nữ giáo sư thần học rất có uy tín của nước Đức, người phụ nữ đầu tiên trên thế giới chiếm được một ghế (ngôi vị cao được Tòa Thánh công nhận) trong môn Thần Học Ca-Tô (The first woman in the world who hold a chair of Catholic Theology) có nhận xét như sau trong cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con:

   Trong truyền thuyết về Giê-su ở trong đền thờ  khi mới 12 tuổi, cha mẹ hắn rõ ràng là không hiểu hắn.  Khi hắn nói về Cha hắn ở trên trời, họ không hiểu hắn nói cái gì (Luke 2:50).  Điều này mâu thuẫn với chuyện loan báo (của thiên sứ Gabriel. TCN), và cũng chứng tỏ rằng Luke đã đan những chiều hướng phát triển truyền thống khác nhau vào với nhau.  Trong những chiều hướng phát triển này, chuyện kể trong đoạn  trên  không hề biết gì về chuyện Giê-su sinh ra từ một trinh nữ. 20

    Nhận xét trên thật là chính xác, vì Matthew không phải là môn đồ của Giê-su, chỉ viết lại theo ý mình những điều nghe người khác truyền tụng.  Cho nên chuyện này mâu thuẫn và phủ bác chuyện kia là chuyện rất thường trong một tác phẩm như vậy.

  Chuyện cha mẹ lo lắng cho con là chuyện tự nhiên, nhưng chuyện “Chúa tôi” đối đáp với cha mẹ như vậy thì quả thật là đặc biệt, ít ra là không hợp với nền luân lý của Việt Nam.  Còn nền luân lý của Do Thái ra sao thì tôi không biết.   Phân tích những lời hỗn hào của Giê-su đối với mẹ và gia đình trong nhiều trường hợp được viết trong Thánh Kinh, một số học giả đã cho rằng, đúng là Giê-su có cái mặc cảm của một đứa con hoang, bị thiên hạ khinh khi đàm tiếu cho nên hận gia đình, hận mẹ, hận thân phận nghèo khó của mình v..v.. kết thành những thái độ và lời nói với mẹ và gia đình như vậy.  Ngoài ra, các học giả còn cho rằng những lời Giê-su giảng trong bài Phúc Thật 8 Mối mà các tín đồ Gia Tô Việt Nam khen là “tuyệt vời” thực ra chỉ nói lên những điều hoang tưởng của Giê-su phát xuất từ những mặc cảm về thân phận của chính mình, chứ chẳng phải là tôn vinh người nghèo, vì trước Thần Ki Tô, con người tuyệt đối bình đẳng vì cùng là tạo vật của Thần.

   Sau đây chúng ta hãy duyệt qua kết quả nghiên cứu về đề tài “Giê-su sinh ra từ một trinh nữ” (virgin birth) của một số người có tên tuổi trong nền văn học Âu Mỹ. 

   Trước hết là Thomas Paine trong cuốn Thời Đại Lý Trí:

      Khi người ta bảo tôi rằng, một người đàn bà tên là Mary đồng trinh mà lại mang thai tuy chưa hề ăn nằm với người đàn ông nào, và rằng chồng của bà, Joseph, nói rằng có một thiên thần nói với ông ta như vậy, thì tôi có quyền tin hay là không, trường hợp như vậy cần có bằng chứng vững chắc hơn là những lời họ nói, nhưng chúng ta cũng lại không có ngay cả những lời họ nói, vì cả Joseph lẫn Mary đều không viết lại điều gì, tất cả chỉ là những điều mà những người khác nói là họ nói như vậy - đó chỉ là những lời đồn đãi trên những lời đồn đãi, và tôi không thể đặt niềm tin của tôi trên loại bằng chứng như vậy.

   Tuy nhiên, chuyện Giêsu là Con Thiên Chúa cũng chẳng có gì là khó hiểu.   Ông ta sinh ra ở một thời mà huyền thoại dân gian đã làm cho đầu óc con người tin vào một chuyện như vậy.  Hầu hết những nhân vật đặc biệt sinh ra trong huyền thoại dân gian đều được coi như là con của một vị Thần nào đó. Vào  thời đó, tin rằng một người là con của Thần không phải là điều mới lạ, và rằng Thần ăn nằm với phái nữ là một quan niệm quen thuộc.

   Câu chuyện về thiên thần loan báo cái mà Giáo hội gọi là Thụ Thai Vô Nhiễm không được nhắc tới trong Phúc Âm Mark và John; và được Matthew và Luke tả lại khác nhau, nhưng Joseph và Maria lại là những bằng chứng không thể tin cậy vì chính họ chẳng nói gì mà là những người khác nói thay cho họ.

   Nếu ngày nay có một cô gái mang thai và nói rằng, ngay cả thề thốt rằng, có một hồn ma làm cô mang thai, và một thiên thần nói với cô ta như vậy, thì chúng ta có tin cô ta không?  Chắc chắn là không rồi.  Vậy tại sao chúng ta lại tin vào cùng một chuyện như vậy về một cô gái mà chúng ta không hề thấy, chỉ được kể lại bởi những người mà không ai biết là ai, ở đâu và bao giờ. 21

      Bình luận câu   ...Bởi Phép Đức Chúa Thánh Thần Mà Người Xuống Thai, Sinh Bởi Bà Maria Đồng trinh... Giám mục Spong viết trong  cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Chết:

   Điều rõ ràng là nếu chúng ta hiểu câu trên theo nghĩa đen thì nó vi phạm tất cả những gì chúng ta hiểu về sinh học.   Chúng ta đã chẳng biết là mọi chuyện sinh ra từ một trinh nữ - và trong lịch sử nhân loại có nhiều chuyện như vậy - là những truyền thuyết hay sao?  Đó là con người toan tính đề xuất rằng nhân loại không có khả năng tạo thành một nhân vật như được mô tả.   Mọi chuyện sinh ra từ trinh nữ, kể cả câu chuyện về Giêsu, như là một sự thực sinh học, đã trở thành hoàn toàn vô giá trị bởi sự khám phá ra sự hiện hữu của tế bào trứng.  Sự khám phá này có nghĩa là người đàn bà không còn được coi như là vật thụ nhận hạt giống của đàn ông như là câu chuyện sinh ra từ trinh nữ uẩn hàm.  Chúng ta không còn có thể nói rằng Thần thánh là một ân huệ trong đứa con của người đàn bà mà không dính dáng gì tới tư cách con người của bà ta.  Ngay từ lúc đó, người đàn bà phải được coi như là đồng sáng tạo, một dự phần viên bình đẳng trong sự truyền giống. 22

   Về chuyện Giê-su sinh ra từ một trinh nữ, giáo sư Thần Học Ca-Tô Uta Ranke-Heinemann viết như sau:

   Sự sinh ra của Giêsu không nói đến một khái niệm nào về sự truyền giống của con người.  Không có sự dự phần nào của người đàn ông, hoàn toàn không có.  Sự tạo nên Giêsu là tác phẩm sáng tạo đặc biệt của Thần Ki Tô, có thể so sánh với sự sáng tạo ra Adam từ một nắm đất sét.  Tuy nhiên, người đàn bà không phải là một nắm đất sét.  Tất cả câu chuyện về phép lạ sinh ra từ một trinh nữ được dựng lên ở một thời mà không ai biết gì về cái tế bào trứng của phái nữ.   Câu chuyện về sự sinh ra từ một trinh nữ chỉ có thể nói lên ở một thời mà người đàn bà bị coi như là giữ một vai trò hoàn toàn thụ động.  Cho đến  khi tế bào trứng được khám phá ra năm 1827, các nhà Thần học, kể cả Luke và Matthew, nghĩ rằng đàn bà không hơn gì một chậu đất để trồng hoa mà người đàn ông đặt hạt giống của mình vào và từ đó sinh ra đứa trẻ.  Lối suy nghĩ như vậy bắt nguồn từ quan niệm về sinh học của Aristotle, coi người đàn bà như là cái bình chứa trống rỗng để gây giống cho người đàn ông.  Người đàn ông làm tất cả trong sự truyền giống....

   Do đó, theo cái mẫu cổ xưa này, Matthew và Luke nghĩ rằng nếu loại bỏ một người cha trên trái đất sinh ra Giêsu thì chỉ có mình Thần Ki Tô là chủ lực tạo ra Giêsu.  Họ không thể nghĩ rằng, để sinh ra một người, cần phải có hai cộng sự viên đồng đẳng, và dù cho con người được thay thế bằng Thần, thì Thần cũng không phải là nguyên lý duy nhất tạo ra con người.

   Kể từ khi khám phá ra tế bào trứng của người đàn bà - và do đó người đàn bà phải dự phần trong việc truyền giống - ý tưởng truyền thống về chuyện Giê-su sinh ra từ một trinh nữ do hành động sáng tạo đơn độc của Thần đã trở thành không có cách nào có thể biện minh cho được.

   Do đó, sự vô minh, thiếu hiểu biết, đã được dùng làm nền tảng cho ý tưởng là Giê-su được sinh ra từ một trinh nữ do quyền phép của Thánh Linh mà không cần đến giao hợp.

   Ngoài ra, chúng ta cần phải xét đến điều này: Trong trường hợp một trinh nữ thụ thai thì tế bào đầu tiên của cơ thể  Giê-su phải là một tế bào của phái nữ.  Và nếu bằng một phép lạ nào đó mà cái tế bào này phân chia ra mà không cần đến sự tham dự của người đàn ông, và tiếp tục phân chia để hình thành một con người, thì cái sự thụ thai đồng trinh này, khi sinh đứa bé ra, bắt buộc phải là một đứa bé gái. 23

     Giáo sư Uta Ranke-Heinemann không giải thích tại sao sự thụ thai dồng trinh chỉ có thể sinh ra một đứa con gái trong cuốn sách của bà.   Có lẽ bà cho rằng độc giả đều cập nhật hóa những kiến thức ngày nay về sinh học, cho nên không cần giải thích.  Tôi không nghĩ vậy, nhất là đối với những tín đồ Ca-Tô, cho nên tôi xin có vài lời giải thích để vấn đề thêm rõ ràng.

   Khoa học ngày nay đã chứng minh rằng: bộ đầy đủ “gien” (complete set of genes) của con người, danh từ khoa học gọi là “genome”, gồm có 23 sắc tố (chromosome) thuộc cha và 23 sắc tố thuộc mẹ, cặp với nhau thành 23 cặp riêng rẽ sắc tố.  Các khoa học gia đã xếp các cặp sắc tố này từ cỡ lớn nhất (số 1) cho tới cỡ nhỏ nhất (số 22), còn cặp sắc tố sau cùng chính là cặp “sắc tố định giống” (sex chromosome) gồm có: 2 sắc tố X trong cơ thể của đàn bà, và 1 sắc tố X và 1 sắc tố Y nhỏ hơn trong cơ thể của người đàn ông.  Về kích thước thì sắc tố X vào khoảng giữa hai cặp sắc tố 7 và 8, còn sắc tố Y thì nhỏ nhất.  Chính cặp sắc tố sau cùng này sẽ quyết định đứa bé sinh ra là con trai hay con gái, tóc vàng hay tóc đen, mắt nâu hay mắt xanh v..v.. 

   Cơ thể con người có vào khoảng 100 ngàn tỷ (Trillion) tế bào (cell).  Trong mỗi tế bào có một nhân (nucleus).  Trong nhân tế bào có 2 bộ đầy đủ genome: một bộ genome của người cha và một bộ genome của người mẹ.  Mỗi bộ genome có vào khoảng từ 60000 đến 80000 “gien” (Genes).

   Như trên đã nói, cặp sắc tố quyết định giống của đàn bà là 2 sắc tố X (X,X), và của đàn ông là 1 X và 1 Y (X,Y).  Trong quá trình truyền giống, nếu sắc tố X của đàn ông kết hợp với sắc tố X của người đàn bà thì đứa trẻ sinh ra sẽ là con gái.  Còn nếu sắc tố Y của người đàn ông kết hợp với sắc tố X của người đàn bà thì đứa trẻ sinh ra sẽ là con trai.  Do đó, một mình Mary, nếu thực sự thụ thai mà không do giao hợp với đàn ông và không có tinh khí của đàn ông thì không thể nào sinh ra con trai được.

   Đến đây tưởng chúng ta cũng nên biết một chuyện: năm 1995, tại một làng bên Ý, hàng ngàn người kéo đến xem bức tượng Mary khóc ra máu.  Hiện tượng này được giới “chăn chiên” giải thích là Đức Mẹ quá thương xót thế gian tội lỗi (phần lớn thuộc 7 núi tội lỗi của giáo hội Ca-Tô. TCN) nên khóc đến chảy máu mắt.  Các tín đồ cũng đều tin vậy, và càng sùng tín thêm lòng thương yêu bao la của Đức Mẹ, không buồn để ý đến chuyện Mẹ là mẹ của Chúa “quyền phép vô cùng” mà cũng bất lực trước những sự đau khổ của con người, chỉ biết khóc thôi.  Nhưng chuyện đáng nói nhất ở đây là người ta đã lấy máu mắt này mang đi thử DNA và khám phá ra rằng máu đó là của đàn ông, không thể là của đàn bà, vì chứa những sắc tố X và Y (của đàn ông) chứ không phải là X và X (của đàn bà).  (Gospel Truth, p. 35: ..as recently as 1995, a statue of the Virgin “weeping tears of blood” drew thousands to a village in Italy, despite DNA analysis that proved the blood to be from a man).  Người ta đã làm đủ trò để nhốt tín đồ vào trong vòng mê tín, thật là đáng buồn, nhưng khoa học đã làm bớt đi phần nào mê tín..

   Học giả Gia Tô Michael Martin, Giáo sư Triết đại học Boston, viết trong cuốn Bản Án Chống Ki Tô Giáo như sau:

   Có bằng chứng lịch sử nào về chuyện Giê-su sinh ra từ một nữ trinh?  Trong bốn phúc âm thì chỉ có hai là kể chuyện này với hai nội dung tường thuật khác nhau.  Như tôi đã ghi ở trên, trong Matthew, tin về sự sinh ra của Giê-su được báo cho Joseph trong một giấc mộng; trong Luke, thiên sứ Gabriel nói thẳng cho Mary biết.  Hơn nữa, Matthew cho rằng khi Giê-su sinh ra thì cha mẹ ông ta sống ở Bethlehem và họ rời Bethlehem khi vua Herod tìm giết Giê-su.. Tuy nhiên, trong Luke, cha mẹ Giê-su lại đi từ nhà ở Nazareth tới Bethlehem vì một cuộc kiểm tra dân số của chính quyền La Mã..

   Đúng vậy, nếu có hai chuyện loan báo khác nhau về Giê-su sinh ra đời thì ít ra là một trong hai phúc âm trên phải kể cả hai chuyện này.  Ngoài ra, vì cách loan báo cho Joseph và Mary khác hẳn nhau - bởi một thiên sứ và trong một giấc mộng - những sự loan báo trên không có gì để chứng thực bởi bất cứ ai khác ngoài Mary và Joseph.  Trong trường hợp thiên sứ Gabriel đến loan báo cùng Mary, không có một nhân chứng nào ngoài Mary.  Trong trường hợp Joseph nằm mơ thì không thể có một nhân chứng nào khác ngoài người nằm mơ.  Như vậy, chúng ta không có một nhân chứng nào để xác định những chuyện loan báo siêu nhiên kia là thực..

   Ngoài tất cả những mâu thuẫn,  những điều không đúng với lịch sử, và những điều không thật rất hiển nhiên trong 2 phúc âm Matthew và Luke, cả Mark và John đều không viết gì về sự sinh ra của Giê-su.  Điều này thật là lạ lùng nếu ta cho rằng giáo điều “Mary đồng trinh” đã được những tín đồ Ki Tô thuở sơ khai biết đến một cách rộng rãi.  Nhất là, tại sao Mark, người viết phúc âm đầu tiên, không nói gì về giáo lý đồng trinh này nếu giáo lý đó được biết đến một cách rộng rãi vào cuối thế kỷ đầu tiên?  Còn nữa, tại sao John, người viết phúc âm sau cùng cũng không nói gì về hiện tượng Giê-su sinh ra từ một trinh nữ nếu điều này mọi người đều biết?  Lời giải thích hợp lý nhất là Mark và John đều không cho rằng chuyện đó là thật về đời Giê-su.  Điều này chắc chắn là làm cho giá trị tính chất xác thực của thuyết đồng trinh giảm đi nhiều. 24

   Qua những tài liệu trên, tất cả đều là kết quả nghiên cứu của một số lãnh đạo tinh thần trong Ki Tô Giáo, hoặc của các giáo sư đại học, học giả Ki Tô, chúng ta thấy rằng, huyền thoại Giê-su sinh ra từ một trinh nữ, nay đã bị xóa bỏ bởi sự tiến bộ trí thức của nhân loại, bởi những sự kiện khoa học.  Nhưng thực tế là, ở ngoài đời, vẫn có hàng triệu người tin rằng bà Mary vẫn còn đồng trinh dù đã sinh nở nhiều lần, và dù tất cả bằng chứng khoa học đã chứng minh chuyện Thánh Linh làm cho bà Mary mang thai và sinh ra một người con trai không thể nào xảy ra được.  Nhưng chúng ta cũng nên hiểu rằng, đây là thuộc về đức tin, và như giáo sư thần học John Dominic Crossan nhận định, “Không ai có thể làm cho niềm tin như vậy thành một sự kiện” (Nobody can make it (an act of faith) as a fact).  Và Frederich Nietzche cũng đã đưa ra một nhận xét: “Những gì mà quần chúng được dạy để mà tin không cần đến lý lẽ, vậy thì ai có thể dùng lý lẽ để có thể phủ bác niềm tin này?” (What the populace learned to believe without reasons, who could refute it then by means of reasons?)

   Sau đây, chúng ta hãy đọc tiếp Kinh Tin Kính của Ca-Tô Giáo Rô-Ma:

 ...Chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết và táng xác...

   Trước hết, cái giá bằng gỗ hình chữ thập mà Giê-su bị đóng đinh trên đó không phải là “thánh giá” như bản văn tiếng Việt cố tình dịch sai để vinh danh Giê-su.  Bởi vì, hình phạt đóng đinh trên giá gỗ hình chữ thập là một cực hình của đế quốc La Mã dành cho những kẻ nô lệ phạm tội, trộm cắp, giết người, phản loạn v..v..  Thánh Kinh viết rõ, (Luke 23: 32,33; Matthew 27: 38)) Giê-su bị xử đóng đinh trên giá gỗ hình chữ thập cùng lượt với hai tên tội phạm, trộm cướp (criminals, robbers) khác.  Không có lý do gì để chúng ta tin rằng cái giá gỗ mà Giê-su bị đóng đinh trên đó khác với những giá gỗ cùng loại trong thời đó.  Bản văn bằng tiếng Anh viết là Giê-su “was crucified” chứ không phải là “was nailed on the holy cross”.  Mà “crucify” trong tự điển có nghĩa là: 1. Xử tử hình bằng cách đóng đinh hoặc trói trên một giá hình chữ thập (To put to death by nailing or binding to a cross); 2. Đối xử một cách độc ác, hành hạ (To treat cruelly; torment).  Cho nên, chẳng có gì có thể gọi là “thánh” ở đây cả.  Gia Tô Giáo đã thánh hóa một vật thuộc một cực hình tàn nhẫn và dã man nhất của nhân loại.  Người ta đã tôn sùng một biểu tượng của sự tàn ác, cố tình quên đi sự khủng khiếp kết hợp với cây thập giá.  Thật vậy, chúng ta hãy đọc một đoạn nói về cực hình này của Russell Shorto trong cuốn Sự Thực Trong Phúc Âm:

   Được đưa vào nghệ thuật Ki Tô qua nhiều thế kỷ, cực hình đóng đinh trên thập giá đã trở thành một kiểu trình bày ước lệ cao - đến độ như là một vật đẹp đẽ, làm cho ta khó mà có thể tưởng tượng được sự khủng khiếp thực sự của nó.  Nhưng thực tế là một cái gì khác hẳn.  Trước hết, chúng ta hãy xét đến ý nghĩa khủng khiếp của nó trong một xã hội mà nhân phẩm - ngay cả nhân phẩm của một nông dân - là đức tính cao nhất.  Mang ra nơi công cộng - kết tội, phơi trần truồng (trên thập giá. TCN. Nghệ thuật Ki Tô thường đóng thêm cái khố vào cho Giê-su trên thập giá) và chết dần trong hấp hối - là hình phạt dã man hơn sự hành quyết nhiều.

   Rồi có cả sự tra tấn.  Thường là nạn nhân bị trói vào cột rồi bị quất, hoặc bằng một cây roi ngắn gồm có nhiều sợi dây da trên có đính những hạt bằng chì hay những mẩu xương, hoặc bằng gậy.  Nạn nhân thường bị đóng lên giá hình chữ thập ở ngay dưới đất rồi giá được dựng thẳng đứng lên.  Đinh thường được đóng qua bàn tay hay cổ tay và bàn chân.. 25

   Cây thập giá, tượng trưng cho một loại hình phạt man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại, nay đã biến thành vật hàng triệu người tôn thờ.  Tôi không biết người khác nghĩ sao chứ mỗi khi tôi nhìn thấy cây thập giá bất cứ ở đâu, trên nóc nhà thờ, trên bộ áo khoác, hay đeo trên cổ  của bất cứ ai, là tôi lại nhớ đến cái cực hình đóng đinh trên thập giá của dân La Mã cổ xưa, đã từng gây ra sự đau đớn cùng cực của hàng trăm ngàn con người, và tôi nghĩ rằng không có cách nào có thể làm cho tôi tôn thờ một vật có một lịch sử dã man đẫm máu như vậy, dù đó là cái thập giá mà Giê-su hoặc bất cứ ai bị đóng đinh trên đó.  Tín đồ Ki Tô thật là kỳ lạ, họ tôn vinh một vật mà Chúa của họ chịu cực hình trên đó.  Họ hân hoan tin rằng sự đau khổ của Chúa chính là phương tiện giúp họ lên thiên đường.  Họ chỉ nghĩ đến thiên đường và ghi ơn sự chịu cực hình của Chúa họ.  Tôi nghĩ không có tôn giáo nào có thể nhồi vào đầu óc con người những ý tưởng vô cùng  ích kỷ như là Ki Tô Giáo.

    Thứ đến, câu “Chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô” chứng tỏ rằng không phải là Giê-su tình nguyện leo lên thập giá để cho người ta đóng đinh để rửa sạch tội lỗi của con người theo như lời thuyết giảng hoang đường của giáo hội.

   Thật vậy, chúng ta có thể thấy rõ tính chất hoang đường của thuyết “chuộc tội” qua hai đoạn văn cực kỳ mâu thuẫn sau đây trong cuốn Trần Lục, viết bởi Đức Ông Trần Văn Khả, trang 273:

Núi này (núi Sọ) ghi lại việc Chúa Ki Tô chịu đóng đinh và chết trên cây thập tự.

  Rồi tới trang 279, Đức Ông Khả viết:

   Ở đây chúng ta nhận thấy có lòng sùng mộ đặc biệt đối với Phép Thánh Thể, với cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Ki Tô.

   Vậy thì Chúa Giêsu tự nguyện chịu đóng đinh hay là bị tử nạn?  Chịu đóng đinh là tự nguyện leo lên thập giá để cho người ta đóng đinh lên mình.  Còn tử nạn là vì tai nạn mà chết, ngoài ý muốn của mình. Điều mâu thuẫn trên thuộc loại  "giáo hội dạy rằng", và tín đồ, kể cả Đức Ông,   nhắc lại mà không suy nghĩ.  Chúng ta thấy rằng, đầu óc của một Đức Ông mà còn như vậy, huống chi là đầu óc của những tín đồ trong tầng lớp thấp kém của xã hội.

   Giáo hội dạy rằng Chúa Cha cho Chúa Con giáng trần, chịu chết trên thập giá, lấy máu mình rửa sạch tội lỗi của nhân loại.  Chỉ có điều, từ ngày Chúa chết trên thập giá, tội lỗi con người càng ngày càng gia tăng, con người càng ngày càng chê Chúa, xa Chúa cho nên Chúa mới tạo ra những thiên tai, bệnh tật, chiến tranh khốc liệt chết hàng triệu người để tiếp tục trừng phạt con người.  Một mặt khác,  giáo hội   cũng dạy rằng Chúa  tử  nạn vì bị người Do Thái giết, dựa theo những lời bịa đặt của Thánh Phao Lồ (Paul), hoặc vài lời trong Phúc Âm Giăng (John) mà các học giả ngày nay đã cho là giáo hội ngụy tạo, thêm thắt vào Thánh Kinh về sau để có cớ bách hại người Do Thái, vì hầu hết dân Do Thái không tin Giêsu là đấng Cứu Thế của dân tộc họ. Chúng ta nên nhớ rằng dân Do Thái là dân được Chúa Cha chọn làm dân cưng của Ngài (chosen people).  Nhưng dân tộc này lại phủ nhận vai trò cứu thế của Giê-su.  Điều này chứng tỏ Giê-su mắc bệnh hoang tưởng, tự phong mình là Con Thần Ki Tô, là Chúa Cứu Thế, như một số nhà phân tâm học đã chứng minh.  Chúng ta đã hiểu tại sao Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-Ma nói riêng, lại thù dân Do Thái suốt 2000 năm nay.  Bởi vì sự phủ nhận Giê-su là Chúa Cứu Thế của dân Do Thái đã chứng minh rằng Giê-su chỉ là một Ngụy Chúa.  Còn bằng chứng nào cụ thể hơn là một dân tộc được Chúa Cha chọn làm dân cưng của Ngài lại không công nhận Chúa Con được Ngài phái xuống?

   Cũng vì vậy mà ngày nay, nhiều học giả, trong cũng như ngoài giáo hội,   đồng thuận ở điểm: “Trong Kinh Tin Kính của Ca-Tô, chỉ có câu trên là có tính chất xác thực lịch sử, nghĩa là, “đích thực Giê-su bị đóng đinh trên thập giá, chết, và táng xác.  Chấm hết” (Historically verifiable that Jesus was crucified, died, and was buried. Period). Còn những huyền thoại về Giê-su trước khi bị xử tử, xung quanh  cuộc hành quyết, và sau khi chết, thì không thể nào tin được đó là những sự kiện lịch sử (historical facts), và tuyệt đối không có một giá trị thuyết phục nào trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại.

   Chúng ta đã biết những chuyện hoang đường về đời của Giê-su trước khi bị hành hình, ví dụ như, sinh ra từ một nữ trinh, cứu người chết sống lại, đi trên sóng, làm yên một cơn bão tố, đuổi “quỷ ám” ra khỏi một người bị bệnh động kinh, nguyền rủa cho cây sung chết héo, biến nước lã thành rượu v..v.. Nhưng chính xung quanh cuộc hành quyết cũng còn nhiều chuyện hoang đường không kém.  Chúng ta hãy đọc ngay Thánh Kinh, Matthew 27: 45 - 53:

   Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9 (nghĩa là từ trưa đến 3 giờ chiều), khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt.  Ước chừng giờ thứ 9, Giê-su kêu lớn lên rằng: Ê-li, Ê-li, lam-ma-sa-bách-ta-ni? Nghĩa là: Chúa tôi ơi! Chúa tôi ơi! Sao ngài lìa bỏ tôi?.. Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn nữa rồi trút linh hồn..

  Và này, cái màn trong đền thờ bị xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất thì rúng động, đá lớn bể ra, mồ mả mở ra, và nhiều thây các thánh đã qua đời được sống lại.  Sau khi Giê-su sống lại, các thánh đó ra khỏi mồ mả, đi vào thành thánh (holy city: Jerusalem. TCN), và hiện ra cho nhiều người thấy.

   Chúng ta thấy ngay những điều mô tả trong đoạn Kinh Thánh trên toàn là những điều hoang đường tưởng tượng trừ câu than của Giê-su trước khi chết: Chúa tôi ơi! Chúa tôi ơi! Sao ngài lìa bỏ tôi?.. chứng tỏ tâm trạng thực của Giê-su nói lên một nỗi thất vọng lớn lao, hoàn toàn mâu thuẫn với điều “giáo hội dạy rằng”: Giê-su giáng thế, tình nguyện chịu chết để chuộc tội cho nhân loại.  Ngoài ra, chuyện “khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt” (Matthew 27: 45: ..there was darkness over all the land) chỉ có thể xảy ra nếu vùng đó, trong ngày đó, có nhật thực toàn phần.  Các khoa học gia đã tính ngược trở lại và xác định rằng không thể có nhật thực toàn phần ở vùng đất đó và trong khoảng thời gian gần đó.  Tại sao?  Bởi vì, với những hiểu biết ngày nay về sự di chuyển của trái đất xung quanh mặt trời, và sự di chuyển của mặt trăng xung quanh trái đất, chúng ta có thể dùng máy điện toán (computer) tính ra và biết đúng, trong quá khứ cũng như trong tương lai, khi nào có nhật thực toàn phần, khi nào không, và ở đâu trên trái đất.  Mặt khác, không có cuộc nhật thực toàn phần nào có thể kéo dài 3 tiếng đồng hồ, từ trưa tới 3 giờ chiều, trừ khi, đang ngắc ngoải trên thập giá, Giê-su ra lệnh cho cả trái đất lẫn mặt trăng đều đứng yên, giữ nguyên vị trí nhật thực toàn phần, sau ba giờ, khi Giê-su tắt hơi, mới chuyển động trở lại.  Trong Cựu Ước  có chuyện Joshua, được sự giúp đỡ của Chúa Cha, chưa giết địch quân đã tay nên ra lệnh cho mặt trời, mặt trăng ngưng lại đúng 1 ngày, kéo dài thời gian có ánh sáng, để cho Joshua giết cho đã, rồi mới được chuyển động trở lại (Joshua 10: 12, 13).  Nếu các tín đồ Ca-Tô có thể tin được chuyện này, thì họ cũng có thể tin chuyện trời đất tối tăm mù mịt trong 3 tiếng đồng hồ, khi Giê-su bị hành hình.  Nhưng đọc kỹ thánh kinh thì chúng ta lại thấy Luke còn phóng đại chuyện tối tăm mù mịt ra toàn thể trái đất (Luke 23: 44: .. there was darkness over all the earth).  Điều này chứng tỏ chuyện trời đất tối tăm mù mịt khi Giê-su chết là chuyện bịa của những đầu óc tối tăm mù mịt, không hiểu gì về sự chuyển động tương đối của trái đất và mặt trăng đối với mặt trời, về hình dạng cũng như độ lớn của trái đất.

   Tôi thật không hiểu nổi, không những giáo hội dạy tín đồ tôn vinh cây thập giá dùng để đóng đinh Giê-su, nô lệ, những kẻ phản loạn và trộm cướp trên đó mà còn dạy tín đồ phải hoan hỉ ăn mừng ngày chết của Giê-su, gọi đó là Ngày Thứ Sáu Tốt Đẹp (Good Friday).  Nhất định đó không phải là Ngày Thứ sáu Tốt Đẹp mà là Ngày Thứ Sáu đen tối, thê thảm nhất đối với Giê-su.  Tín đồ Gia Tô bị giáo hội lừa dối, dạy rằng đó là ngày Giê-su chịu chết để chuộc cái tội tổ tông hoang đường của nhân loại.  Nhờ cái chết đó mà tín đồ được Chúa Cha tha thứ và được lên thiên đường.  Giáo hội biết tín đồ không bao giờ đọc Thánh Kinh, và giới chăn chiên cũng không bao giờ giảng về tâm trạng của Giê-su trước khi chết dù Thánh Kinh đã viết rõ.  Tâm trạng này trái ngược hẳn với những lời tuyên truyền sai sự thực của giới chăn chiên.  Thật vậy, chúng ta hãy đọc vài đoạn trong thánh kinh, Thánh kinh Hội Quốc Tế xuất bản, Văn phẩm Nguồn Sống phát hành, 1994, Mác (Mark) 14; 33-36:

   .. Ngài cảm thấy hoang mang, sầu não vô cùng.  Ngài bảo (các môn đồ. TCN): “Linh hồn ta buồn rầu cho đến khi chết”  Chúa đi một quãng, rồi quỳ sấp dưới đất, cầu xin cho giờ phút khủng khiếp đừng đến với Ngài nếu có thể được.  Ngài cầu nguyện: “Thưa Cha, Cha quyền phép vô cùng, xin cho con khỏi uống chén (đau khổ) này, nhưng xin theo ý Cha, chứ không theo ý con.”

   Luke (Lưu Ca) 22:24 còn mô tả cảnh Giê-su cầu nguyện như sau:

   Trong lúc đau đớn thống khổ, Chúa cầu nguyện càng tha thiết, mồ hôi toát ra như những giọt máu nhỏ xuống đất.

   Đó là tâm trạng của Giê-su trước khi biết mình sắp bị bắt.  Như vậy có phải là ông ta tình nguyện leo lên thập giá, chịu cho người ta đóng đinh, để chuộc tội cho nhân loại như lời diễn giảng sai sự thực của giáo hội hay không?  Và chúng ta cũng đừng quên, trước khi thở hắt ra, Giê-su còn nói lên một câu đầy thất vọng: Chúa tôi ơi! Chúa tôi ơi! Sao ngài lìa bỏ tôi?.. như được viết rõ trong phúc âm Matthew 27 và Mark 15.  Cũng vì vậy mà G. W. Foote đã bình luận trong cuốn Những Chuyện Hư Cấu Trong Thánh Kinh về ngày chết của Giê-su như sau:

   Cũng như ngày 25 tháng 12, được coi như là ngày sinh của Giê-su, là một chuyện giả tưởng hoàn mỹ mà giáo hội vay mượn từ dân gian cổ xưa, ngày Giê-su bị đóng đinh trên thập giá cũng có tính cách thuần túy tùy tiện.  Nếu thực sự Giê-su chết thì ông ta cũng chỉ chết vào một ngày nào đó, và ngày này cố định trên lịch.. Ngày chết của ông ta bao giờ cũng rơi vào ngày thứ Sáu.  Nhưng ngày thứ Sáu này khi thì trong tháng này, khi thì trong tháng khác, và không bao giờ giống nhau trong hai năm liên tiếp; điều này chứng tỏ chắc chắn là cái chết của “đấng cứu thế” là một chuyện xảy ra trong huyền thoại.  Tại sao cái ngày chết của ông ta lại được quyết định bởi một sự tính toán thuộc môn thiên văn học?  Tại sao nó phải là ngày thứ Sáu đầu tiên sau ngày trăng rằm và sau ngày xuân phân?

   Mặt khác, chúng ta cần phải ghi nhận: “Ngày thứ Sáu tốt đẹp” là tên của ngày đã được xác định theo thiên văn.  Đó thực ra là ngày mà tấn thảm kịch xảy ra trên Núi Calvary sau cơn khắc khoải và mồ hôi đổ ra như máu (của Giê-su) trong vườn Gethsemane.  Cái con người than khóc: “Cha ơi, nếu có thể, xin đừng bắt con uống chén này” rồi khi cảm thấy cánh tay tử thần lạnh lẽo phủ lên người mình, còn than khóc cay đắng hơn nữa: “Chúa tôi ơi, Chúa tôi ơi, sao ngài lại lìa bỏ tôi?”, cái ngày đó mà gọi là “Ngày thứ Sáu tốt đẹp”.  Đối với hắn ta (Giê-su), ngày đó là một ngày xấu hoặc một ngày đen tối.  Vậy mà những tín đồ của hắn coi đó là ngày vui vẻ nhất trong lịch sử thế giới.  Hắn chịu đau khổ để cho họ có thể vui mừng; hắn xuống địa ngục để cho họ có thể lên thiên đường; và họ đón chờ ngày tai họa đó với niềm vui và hân hoan. Con người thật là quá hão huyền và ích kỷ, và tôn giáo cũng thường vậy, tôn phong sự ích kỷ.   Và trong những tôn giáo ích kỷ trên thế giới thì Ki Tô Giáo là tôn giáo ích kỷ nhất. 26

   Chúng ta hãy bình luận tiếp chuyện Chúa chết.  

   Khi Giê-su tắt hơi thì Đất thì rúng động, đá lớn bể ra, mồ mả mở ra, và nhiều thây các thánh đã qua đời được sống lại.  Sau khi Giê-su sống lại, các thánh đó ra khỏi mồ mả, đi vào thành thánh, và hiện ra cho nhiều người thấy.

   Đất rúng động, đá lớn bể ra.. Đây có thể là một cuộc động đất.   Tuy nhiên, không có một sử gia nào, kể cả sử gia danh tiếng đương thời là Flavius Josephus, ghi lại sự kiện này.  Rồi mồ mả mở ra để cho xác các thánh sống lại, nằm yên dưới mồ từ chiều thứ Sáu đến sáng Chủ Nhật, chờ cho Giê-su sống lại rồi mới nhỏm giậy như quỷ nhập tràng, đi qua đi lại trong thành Jerusalem, trình diễn cho bàn dân thiên hạ thấy.  Thời buổi này, ai có thể tin được những chuyện hoang đường như vậy?  Hơn nữa, Matthew không nói rõ các thánh đó là thánh nào, ai phong cho họ làm thánh, và chết đi đã được bao lâu, xác còn nguyên hay đã rữa nát hết thịt chỉ còn trơ lại bộ xương cứu Chúa.  Sau khi đi diễn hành ở Jerusalem thì các “thánh” đó đi đâu?  Trở về các nhà mồ hay vẫn còn lang thang ở Jerusalem cho tới bây giờ? Chuyện trong Thánh Kinh đều như vậy cả.  Nay chúng ta đã hiểu những người tin Thánh Kinh là những người đầu óc như thế nào.

   Chúng ta hãy đọc tiếp Kinh Tin Kính:

..xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, lên trời ngự bên hữu đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết..

   Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Giáo hội Ca-Tô không còn có thể lừa dối con người bằng củ cà rốt Thiên Đường và cây gậy địa ngục được nữa.  Cho nên, tháng 7, 1999, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai đã phải thú nhận rằng không làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây, mà cũng không làm gì có hỏa ngục ở dưới đất, tất cả đều do tâm con người tạo ra mà thôi.  Điều thú nhận này đã làm cho hàng triệu tín đồ thất vọng, vì điều mà họ mơ ước được lên thiên đường hưởng nhan thánh Chúa rút cục đã thực sự trở thành cái bánh vẽ trên trời (A Pie-in-the-sky), đúng như nhận định của Linh mục Ernie Bringas trước đây.  Mặt khác, “tội tổ tông” chỉ là một huyền thoại cho nên không làm gì có cái gọi là “ngục tổ tông” để mà Giê-su “xuống” sau khi chết.  Cho nên, trong mấy trăm năm nay, các tín đồ Ca-Tô được dạy để đọc Kinh Tin Kính hàng ngày mà không biết rằng đó chính là những lời lừa dối do chính giáo hội đặt ra để làm mê mẩn đám tín đồ không có mấy đầu óc.

    "Giáo hội dạy rằng": Giê-su sống lại 3 ngày sau khi chết, và 40 ngày sau thì "thăng thiên", nghĩa là cả hồn lẫn xác tự nhiên bốc lên trời, và hiện nay đang ngồi bên phải Chúa Cha ở trên Thiên Đường.  Người nào tin ở Chúa, chỉ cần tin thôi, thì sau khi chết sẽ được lên Thiên Đường ở cùng Chúa.  Nhưng vì Giáo Hoàng là "đại diện của Chúa", là người kế thừa Thánh Phê-rô giữ chìa khóa mở cửa Thiên Đường, nên các tín đồ Gia Tô phải tuyệt đối phục tùng và tuân lệnh Giáo Hoàng, nếu không, Giáo Hoàng hay Tòa Thánh Vatican ở Rô-Ma sẽ tuyệt thông, nghĩa là không cho phép tín đồ hưởng các "bí tích" để hiệp thông với Chúa trên Thiên Đường. Đây là những tín lý căn bản của Ca-Tô Giáo Rô-Ma mà các tín đồ bắt buộc phải tin, không tin thì không được chấp nhận là Ca-Tô hữu.  

   Nhưng đây chỉ là những lời giáo hội bày đặt ra để nắm giữ đầu óc đám tín đồ thấp kém, vì không làm gì có chuyện Giê-su “xuống ngục tổ tông” mà cũng không làm gì có chuyện xác Giê-su bay lên trời.  Thánh Phao Lồ (Paul) đã viết rõ trong I Cổ-Linh (Corinthians) 15: 50:

  Thưa anh em. Tôi xin nói rõ thân thể bằng xương bằng thịt và máu không thể hưởng được nước Thượng Đế, vì thân thể hư nát không thể hưởng sự sống bất diệt.

   Giê-su vẫn tự nhận một lúc 2 vai: Con của Thần và Con của người (Son of Man).  Con của Thần thì chỉ có phần hồn, còn Con của Người thì phải có xác phàm bằng xương bằng thịt.  Do đó Giê-su không thể nào bay lên trời ngự bên phải Thần theo như sự bày đặt của vài tín đồ sùng tín tưởng tượng ra để thần thánh hóa Giê-su.

   Tuy nhiên, dù Giáo Hoàng đã chính thức tuyên bố cùng thế giới là không làm gì có thiên đường hay địa ngục như giáo hội vẫn thường dạy con chiên, nhưng tôi tin chắc đa số tín đồ Ca-Tô trên thế giới, nhất là những tín đồ Ca-Tô ở các nước nghèo, kém phát triển, không hề biết đến chuyện này.  Những lời tuyên bố công nhận sự thực khoa học của Giáo hội chỉ để chỉnh trang bộ mặt của giáo hội trước dư luận trí thức thế giới chứ không phải để cho các tín đồ biết.  Đây là sách lược ngu dân dễ trị của giáo hội từ xưa tới nay.  Lẽ dĩ nhiên đám tín đồ thấp kém vẫn còn hi vọng lên thiên đường cùng Chúa sau khi chết.  Vậy thì thiên đường của Chúa mà giáo hội đã nhét vào đầu óc tín đồ trong mấy ngàn năm nay là như thế nào, và ở đâu?

   Thiên Đường của Chúa ở trên một "Vòm" (vault) gọi là "Trời" (Heaven) mà Thượng Đế tạo ra trong ngày thứ nhì của 6 ngày "Sáng Thế".   Muốn hiểu vòm Trời trên có hình dạng ra sao, chúng ta hãy đọc lời giải thích của Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ, một tín đồ Ca-Tô trong khoảng 30 năm hồi thiếu thời, viết trong bài "Ít Nhiều Nhận Định về Thiên Chúa Giáo", đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tập I, trang 16:

   "The New Jerusalem Bible của Công Giáo dịch là Vault (vòm), và chú rằng người dân Semites xưa coi cái vòm trời đó cứng chắc, có thể giữ nước ở phía trên, không cho rơi xuống trần gian.  Nó hình nửa vòng cầu, hoặc như cái chảo úp, như ta thường trông thấy.  Nó chắc chắn là phải hết sức cứng vì có thể chứa được một số nước khổng lồ bên trên.  Vòm trời đó, theo Job, đã được đúc bằng "đồng thau" (Job 37:18).  Vòm đó có những cửa.  Khi muốn có Hồng Thủy, những "cửa trời" đó sẽ được mở ra cho nước trên trời tuôn xuống (Gen 7:11)...Cung đình Chúa và tòa ngôi ngài đặt trên vòm trời đó (Psalm 11:4), vì Sáng Thế Ký đã định nghĩa cái vòm đó là "trời" (Gen 1:8).

   Chúa Giêsu cũng xác quyết Chúa Cha ở trên đó, khi Ngài dạy cầu xin: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời (Mat. 6:9).  Thánh Joan dạy rằng lúc thế mạt vòm trời đó sẽ bị cuộn lại, cuốn đi, như một trang sách (Rev 6:14).  Chúng ta cũng nên nhớ rằng vòm trời đó có nhiều cột chống đỡ (Job 27:11); và trái đất cũng có nhiều cột chống đỡ (Job 9:6).  Đất đã được Chúa đặt vững trên mặt nước (Psalm 136:6).  Đất muôn đời đứng yên một chỗ (terra in aeternum stabat, Vulgate, Eccl. 1:4)."

   Theo đức tin Ca-Tô Giáo thì Thánh Kinh là những lời "mặc khải" của Thượng Đế toàn năng sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài nên không thể sai lầm.  Chỉ có điều, trí tuệ của Thượng Đế khi đó không hơn gì trí tuệ của những người bán khai là bao nhiêu cho nên mới "mặc khải" cho các "Thánh Tiên Tri" những lời trong Thánh Kinh mà trí tuệ của con người ngày nay đã hoàn toàn bác bỏ vì những lời "mặc khải" đó quá sai lầm, không đúng với thực tại.

    Vào đầu thập niên 1920, các chuyên gia khảo cứu vũ trụ, qua những kính thiên văn tân kỳ, khám phá ra rằng giải Ngân Hà (Milky Way) mà Thái Dương Hệ (hệ thống mặt trời và các hành tinh xoay quanh mặt trời) của chúng ta nằm trong đó, có thể có tới cả trăm tỷ ngôi sao, mỗi ngôi tương tự như mặt trời trong Thái Dương Hệ, thật ra chỉ là một ốc đảo, một Thiên Hà (galaxy), trong vũ trụ.   Các khoa học gia đã ước tính rằng trong vũ trụ có khoảng 50 tỷ thiên hà tương tự như giải Ngân Hà.  Trong vũ trụ học, vì phải kể đến những khoảng cách vô cùng lớn nên người ta thường dùng đơn vị đo chiều dài là 1 năm ánh sáng, hoặc đơn vị parsec bằng hơn ba năm ánh sáng một chút (3.2616).  Chúng ta đều biết, ánh sáng truyền trong không gian với vận tốc khoảng 300000 cây số trong một giây đồng hồ.  Chúng ta cũng biết một phút có 60 giây, một giờ có 60 phút, một ngày có 24 giờ, và một năm có khoảng 365 ngày.   Do đó, chúng ta có thể tính ra khoảng cách của một năm ánh sáng.  Khoảng cách này vào khoảng 9460800000000  (9 ngàn 4 trăm 60 tỷ 8 trăm triệu) cây số, hoặc gần 6 ngàn tỷ miles.

   Giải Ngân Hà có đường kính khoảng 100000 năm ánh sáng, và Thái Dương Hệ nằm cách xa tâm của giải Ngân Hà khoảng 30000 (ba mươi ngàn) năm ánh sáng.  Chúa Giê-su mới "thăng thiên" cách đây khoảng 2000 năm, và dù cho chúng ta chấp nhận Chúa thăng thiên với vận tốc của ánh sáng, một vận tốc giới hạn của mọi vật chất, thì Thiên Đường của Chúa cũng chỉ quanh quẩn đâu đó cách đây nhiều nhất là 2000 năm ánh sáng.   Chỉ phiền có một điều, điểm đặc biệt trong những khám phá mới về vũ trụ là các kính thiên văn tối tân nhất hiện nay đã quét khắp vòm trời, đến tận những thiên hà cách xa trái đất cả hơn 10 tỷ năm ánh sáng, mà không thấy bóng dáng của Thiên Đường ở đâu.  Nếu cho rằng Thiên Đường ở xa hơn nữa, ngoài tầm khảo sát của các kính thiên văn, thì lại đưa đến một vấn đề: cũng phải ít nhất là 10 tỷ năm nữa Chúa Giê-su mới lên tới Thiên Đường.  Các tín đồ Ca-Tô tin tưởng rằng sẽ được lên Thiên Đường cùng Chúa sau khi chết nên chuẩn bị một thời gian ít ra là 10 tỷ năm trước khi có thể thấy dung nhan Chúa trên Thiên Đường.  Dù vậy cũng chưa chắc, vì vũ trụ đang ngày càng   nở rộng, và trong 10 tỷ năm nữa thì vũ trụ nở rộng đến cỡ nào, chưa ai có thể biết trước được.  Khi đó, có thể mặt trời và trái đất sẽỵ không còn nữa vì các khoa học gia ước tính trái đất và mặt trời chỉ có thể tồn tại nhiều nhất là 5 tỷ năm nữa.

   Đó là chuyện Chúa ở trên Thiên Đường.  Chuyện Chúa sống lại còn vui hơn nữa nếu chúng ta đọc Thánh Kinh với một đầu óc sáng sủa, phân tích, một loại đầu óc mà Giáo hội Ca-Tô ghét nhất.  Chẳng thế mà đã có một thời Giáo hội cấm tín đồ đọc Thánh Kinh vì e rằng tín đồ sẽ khám phá ra những lời diễn giảng Thánh Kinh sai lầm của Giáo hội.

   Các học giả nghiên cứu Thánh Kinh đều đồng ý là trong bốn Phúc Âm thì Phúc Âm của Mark là cổ nhất, viết vào khoảng 40 năm sau khi Giê-su chết.  Ba Phúc Âm kia, Matthew, Luke, John đều viết sau Phúc Âm của Mark nhiều năm, thí dụ Matthew viết vào khoảng cuối thế kỷ 1, sau Mark khoảng 20 năm.  Trước hết chúng ta hãy đọc chuyện Chúa sống lại trong Mark 15 và 16.

    Mark 15: 42-47; 16: 1 -8: 

   “Hôm đó, nhân ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua (nghĩa là thứ Sáu. TCN).  Đến chiều tối, Joseph, người Arimathea, một thành viên có uy tín trong Hội Đồng Quốc Gia, từng trông đợi Nước Trời, bạo dạn đến xin Philate cho lãnh xác Giê-su.  Philate không tin Giê-su đã chết nên gọi tên đội trưởng đến hỏi xem Giê-su đã chết thật chưa.  Khi viên đội trưởng xác nhận Giê-su đã chết, Philate cho phép Joseph lãnh xác Giê-su.

   Joseph mua một cây vải gai, gỡ xác Giê-su xuống khâm liệm, rồi đặt xác Giê-su trong một nấm mồ đục bên sườn núi đá, rồi lăn một tảng đá lớn chặn trước cửa mồ.

   Và Mary Magdalene và Mary, Mẹ của Joses nhận biết nơi đặt xác Giê-su..

..Ngày thứ Bảy qua, Mary Magdalene, Mary, mẹ của James và Salome đi mua hương liệu để ướp xác Giê-su.  Sáng sớm Chủ Nhật, lúc mặt trời mọc, họ cùng nhau đi tới mộ Giê-su, hỏi nhau không biết nhờ ai lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ.

   Nhưng khi tới nơi thì tảng đá lớn đã được lăn ra khỏi cửa mộ rồi.   Vào trong nhà mồ, họ thấy  một thanh niên mặc áo dài trắng ngồi ở phía bên phải làm cho họ hoảng sợ.

  Nhưng người thanh niên nói: "Đừng sợ! Các ngươi đến tìm Giê-su ở Nazareth, người đã bị đóng đinh trên thập giá.  Ông ta sống lại rồi.  Ông ta không có ở đây.  Vào mà coi chỗ người ta đặt xác ông.  Hãy đi báo cho các môn đệ của ông - và Peter (Phê-rô) -   rằng Giê-su đã đi đến xứ Galilee trước họ rồi, và họ sẽ thấy Giê-su ở đó, như ông đã dặn trước.

   Ba người bèn chạy nhanh ra khỏi mộ vì họ run sợ và thấy kỳ lạ.  Và họ không nói với ai lời nào vì sợ."

      Bây giờ chúng ta hãy đọc chuyện Chúa sống lại trong Matthew 27: 57-66 và Matthew 28: 1-8:

   Đến tối (thứ Sáu), Joseph, một người giàu có ở vùng Amarithea, cũng là một môn đệ của Giê-su, đến xin Philate cho lãnh xác Giê-su.  Philate ra lệnh trao xác Giê-su cho ông.  Khi Joseph hạ thi hài Giê-su xuống, ông gói xác trong một tấm vải gai sạch, rồi đặt xác Giê-su trong một hầm mộ ông đục trên sườn núi đá.   Joseph lăn một tảng đá lớn chặn trước của mộ rồi bỏ đi.  Mary Magdalene và bà Mary kia vẫn ngồi trước mộ.

   Hôm sau, kế ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua, các thầy trưởng tế và Pharisees đến gặp Philate và thưa rằng: "Thưa Ngài, chúng tôi nhớ rằng khi còn sống, tên lừa bịp này (Giê-su) đã nói: "Sau ba ngày ta sẽ sống lại".  Để phòng mưu gian, xin Tổng Trấn ra lệnh canh gác kỹ mộ nó suốt ba ngày, như thế các môn đệ của nó không thể đánh cắp xác của nó rồi phao tin rằng nó sống lại.

Sự lừa bịp này còn tai hại hơn là sự lừa bịp trước."  Philate nói: "Các ngươi có lính gác, cứ việc canh gác cho cẩn mật."   Họ liền niêm phong tảng đá và đặt lính canh gác trước cửa mộ..

   ..Sáng Chủ Nhật, trời mới rạng đông, Mary Magdalene và bà Mary kia tới thăm ngôi mộ.  Bỗng nhiên có một trận động đất lớn vì một Thiên sứ từ trên trời bay xuống, lăn tảng đá lớn ra khỏi cửa mộ rồi ngồi lên trên đó., mặt sáng như chớp nhoáng, áo trắng như tuyết.  Bọn lính gác khiếp sợ, đứng sững như xác chết.  Nhưng Thiên sứ nói với hai người đàn bà: "Đừng sợ!  Ta biết các ngươi đến tìm Giê-su, người đã bị đóng đinh trên thập giá.  Ông ta không có ở đây, vì ông ta đã sống lại.  Hãy vào mà coi chỗ người ta đặt xác Chúa.

   Hãy đi lẹ và loan báo cho các môn đệ của ông ta rằng ông ta đã sống lại, và thật vậy, ông ta đã đi tới Galilee trước và các ngươi sẽ thấy ông ta ở đó.  Hãy nhớ những lời ta nói.  Hai người đàn bà vừa sợ vừa mừng, chạy vội ra khỏi mộ và đi báo tin cho các môn đệ của Giê-su.

      Chuyện Chúa sống lại trong Phúc Âm Luke và Phúc Âm John tương tự như trong Phúc Âm Mark, tuy có một số chi tiết khác nhau.  Chúng ta thấy rằng chuyện Chúa sống lại trong Phúc Âm Mark và Phúc Âm Matthew hoàn toàn khác biệt nhau.  Vậy chúng ta nên tin chuyện nào và căn cứ vào đâu mà tin chuyện đó.  Nếu Mark đúng thì Matthew phải sai và ngược lại.  Vấn đề là chúng ta không thể biết ai đúng ai sai.  Nếu dùng lý trí để xét đoán một vấn đề thì khi chúng ta không thể căn cứ vào đâu để mà tin một trong hai chuyện Chúa sống lại kia thì chúng ta phải loại bỏ cả hai.  Các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh đã tìm ra nhiều điều thú vị trong chuyện Chúa sống lại trong Thánh Kinh này.

   Thứ nhất, Matthew 12: 40 kể lời Giê-su “tiên tri” về sự sống lại của ông ta như sau:

   “Chúa Giê-su đáp: “Như Giô-na (Jonah) đã nằm trong bụng cá 3 ngày 3 đêm, ta sẽ vào lòng đất 3 ngày 3 đêm..”

  Nhưng thực ra, không phải là Chúa sống lại sau 3 ngày 3 đêm mà sau chỉ có 1 ngày rưỡi và 2 đêm: từ 3 giờ chiều ngày thứ Sáu đến sáng sớm Chủ Nhật.  Như vậy là lời tiên tri của Chúa có một sai số là 50%.  Trong khoa học, một dữ kiện có sai số 50% kể như là vứt đi, không thể sài được.

   Thứ nhì, trong Matthew, khi hai bà Mary đến nơi mộ Chúa thì tảng đá chặn cửa mộ vẫn còn đó.  Rồi một Thiên sứ từ trên trời bay xuống và lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ.   Ngôi mộ trống không.  Vậy xác Chúa ra khỏi mộ bằng cách nào?  Cho rằng hồn có thể đi qua kẽ đá được, nhưng xác thì đi qua tảng đá bằng cách nào? 

   Thứ Ba, cùng một chuyện Chúa sống lại mà bốn Phúc Âm mô tả khác nhau, nhiều khi đối nghịch hẳn nhau với nhiều chi tiết rất mâu thuẫn, vậy nếu dùng lý trí để hỗ trợ đức tin thì chúng ta phải tin như thế nào đây.  Và nếu tin rồi, nghĩa là không cần biết đến những mâu thuẫn trong Thánh Kinh về chuyện Chúa sống lại, thì vai trò của lý trí  đứng chỗ nào trong đức tin đó.  Nếu chuyện Giê-su sống lại trong cả 4 phúc âm đều giống nhau thì chưa chắc điều này đã đúng như sự thực, vì rất có thể đó là niềm tin của một số người cùng nghe lại một truyền thuyết.  Nhưng chi tiết trong 4 phúc âm về chuyện Giê-su sống lại có quá nhiều mâu thuẫn đối ngược hẳn nhau, điều này chứng tỏ cả 4 phúc âm chẳng qua chỉ là tác phẩm của 4 người diễn giải sự việc theo lời đồn đại khác nhau trong dân gian và theo niềm tin riêng của mình.   Nhiều học giả nghiên cứu thánh kinh đã khám phá ra rằng mỗi tác giả của 4 phúc âm đều có mục đích riêng khi viết chuyện giả tưởng về sự sống lại của Giê-su. 

   Những cuốn phân tích kỹ lưỡng nhất về những vấn đề ai là tác giả 4 phúc âm, viết với ý định gì, tài liệu lấy từ đâu và lấy như thế nào v..v.., có thể nói là những cuốn Ai Viết Những Phúc Âm? (Who Wrote The Gospels?) của Randel McGraw Helms Giáo sư đại học Arizona State University,  Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con (Putting Away Childish Things) của Giáo sư Thần học Uta Ranke-Heinemann, Hãy Cứu cuốn Thánh Kinh Khỏi Phái Bảo Thủ (Rescuing The Bible From Fundamentalism) của Giám mục John Shelby Spong, và Năm Phúc Âm: Đích Thực Giê-su Nói Gì? (The Five Gospels: What Did Jesus Really Say?)  của The Jesus Seminar.  Học hội Giê-su kể luôn Phúc Âm Thomas nên mới là năm.  Nhưng đây không phải là nơi bàn luận chi tiết về thánh kinh, nên tôi không đi sâu vào những vấn đề này.

   Câu cuối cùng trong đoạn Kinh Tin Kính nêu trên là:

   ..ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết..

   Đây là niềm tin của những người sùng tín Giê-su về một chuyện trong tương lai, cho nên không có một căn bản khả tín nào.  Trong 2000 năm qua, giáo hội Gia Tô và nhiều hệ phái Ki-Tô khác đã nhiều lần tiên đoán ngày phán xét, nhưng ngày đó không hề xảy ra, và sẽ không bao giờ có thể xảy ra cho đến khi trái đất không còn tồn tại nữa.  Tại sao?  Bởi vì những huyền thoại do một số người sùng tín Giê-su bày đặt ra theo niềm tin riêng của mình thì không bao giờ có thể trở thành sự thực.   Chứng minh?

   Đọc Thánh kinh, chúng ta thấy rõ ràng là những người viết Tân Ước đều tin rằng Giê-su sẽ trở lại trần gian trong một tương lai rất gần (Matthew 16: 27-28: Ta sẽ trở lại với các thiên sứ trong vinh quang của Cha ta để thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm.  Ta cho các con biết: một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy ta vào trong nước ta; Mark 9: 1: Chúa bảo các môn đệ: “Ta cho các con biết, một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy nước trời thiết lập với uy quyền vĩ đại; Mark 13:30:  Ta quả quyết, thế hệ này chưa qua đi thì các biến cố đó (các biến cố xung quanh sự trở lại của Giê-su. TCN) đã xảy ra rồi;  Luke 21: 27, 30: Bấy giờ nhân loại sẽ thấy ta giáng xuống trong mây trời với vinh quang và uy quyền tuyệt đối.. Ta quả quyết: thế hệ này chưa qua đi, các biến cố ấy đã xảy ra rồi; John 14: 21: Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho các con.  Khi chuẩn bị xong, ta sẽ trở lại đón các con về với ta để các con ở cùng ta mãi mãi)

   Nhưng Giê-su, với những lời hứa hẹn hão huyền đầy tính chất tự tôn, tự cao, tự đại trên, đã cho các môn đệ ăn bánh vẽ vì ông ta đã ra đi và không hề trở lại.  2000 năm qua, những người tin là Giê-su có quyền phép “cứu rỗi” họ và cho họ lên thiên đường ở cùng ông đã dài cổ ra ngóng chờ “ngày trở về” của Giê-su, nhưng năm này qua năm khác, thế hệ này qua thế hệ khác, thiên niên kỷ này qua thiên niên kỷ khác, Giê-su vẫn biệt tăm.  Làm sao ông ta có thể trở về được khi ông ta đã bị đóng đinh trên thập giá, chết, và táng xác?  Lời hứa hẹn vô trách nhiệm đầy tính cách lừa dối những kẻ nhẹ dạ như trên có giá trị gì khi những điều ông hứa không hề mảy may thực hiện được đã 2000 năm nay.  Hiện giờ ông ta ở đâu?  Không ai biết.  Nhưng chắc chắn là không phải ở trên trời, vì Giáo hoàng John Paul II, đại diện của ông trên cõi trần, đã khẳng định không làm gì có thiên đường trên các tầng mây.  Và điều này cũng phù hợp với những khám phá của khoa học trong môn vũ trụ học.  Không ở trên trời thì chỉ có thể ở dưới đất, sâu ba thước.  Nhưng ở đâu?  Công cuộc khảo cứu của Richard Andrews và Paul Schellenberger trong hơn 25 năm, dựa trên những tấm họa đồ trên giấy da, gồm những bản văn có tính cách mật mã và những xếp đặt hình học, do linh mục Bérenger Saunière kiếm thấy khi tân trang một nhà thờ ở miền Nam nước Pháp vào cuối thế kỷ 19, đã đưa đến kết luận là hài cốt của Giê-su đã được chuyển tới miền Nam nước Pháp, tại Rennes-le-Château, vào khoảng thế kỷ 12.  Và ngày nay, vị trí mồ Giê-su đã biết rõ sau khi các chuyên gia khảo cứu giải được mật mã trong những bản văn và những họa đồ hình học trên những tấm giấy da.  Công cuộc khảo cứu này được tường trình đầy đủ trong một cuốn sách dày hơn 500 trang với nhiều chi tiết giải thích ý nghĩa các bản văn và họa đồ hình học. Tên cuốn sách là Cái Mồ của Thần: Thây của Giê-su và Giải Đáp Của Một Sự Bí Mật 2000 Năm (The Tomb of God: The Body of Jesus and the Solution to a 2000-year-old Mystery), xuất bản năm 1996.  Những khám phá mới này đã soi sáng một sự kiện: ngay từ thời gian đầu, có một hệ phái Ki Tô chủ trương dùng trí tuệ để đi tới giải thoát, đối nghịch với chủ trương của hệ phái Ca-Tô khai thác sự mê tín của quần chúng, xây dựng đức tin trên những huyền thoại, phép lạ, và những tín điều độc đoán.  Tác giả Paul Schellenberger viết trong Lời Nói Đầu:

   Kết luận của chúng tôi thật là ngạc nhiên, tự nó vốn nguy hiểm, và gây nhiều tranh cãi, nhưng đó là sự suy diễn hợp lý duy nhất trong ánh sáng của các bằng chứng.

   Chúng tôi vấp phải điều có thể là một bí mật nhất từ xưa tới nay, một bí mật đã làm sáng tỏ sự kinh hoàng của giáo hội Ca-Tô qua những phản ứng quá mức trước những lời phê bình và tín điều đối nghịch trải qua nhiều thế kỷ.  Sự kiện giáo hội phải dùng đến những biện pháp cực đoan để bảo đảm sự che đậy sự bí bật này, được coi như là tột bực dị giáo, không có gì làm cho chúng ta ngạc nhiên.  Vì đặt căn bản giáo lý trên một niềm tin đối ngược (nghĩa là Giê-su sống lại và bay lên trời thay vì sự thực là Giê-su không chết mà còn lập gia đình, sinh con đẻ cái), khó mà giáo hội có thể chấp nhận sự sai lầm của mình.  Điều ngạc nhiên đối với chúng tôi là sự khám phá ra một hệ phái bí mật Ki-Tô đã cùng hiện hữu với xu hướng Ki Tô Giáo của đám đông và, quan trọng hơn nữa, đã có một kiến thức, trọng điểm giáo lý của hệ phái đó, mà ngày nay chúng tôi phải đương đầu.

   Càng tìm hiểu những dấu vết về hệ phái Ki-Tô “không chính thức” đó, chúng tôi càng hình dung ra được khả năng của nó tạo thành một đức tin đương thời. 

   Đối với nhiều người ngày nay, xu hướng Ki-Tô giáo của đám đông,  tuy cổ súy một tác phong hành xử có giá trị, nhưng lại đòi hỏi con người phải không được dùng đến lý trí, phải có một đức tin mù quáng, đó là điều không thể chấp nhận được - điều này đã làm cho họ rời xa giáo hội và bác bỏ những lễ tiết thờ phụng của giáo hội. 27

   Và tác giả Richard Andrews viết trong Lời Kết:

   Chúng tôi đã đi đến kết luận là Núi Cardou (ở miền Nam nước Pháp. TCN) là nơi xác Giê-su Ki-Tô, Thần trên trái đất, an nghỉ cuối cùng; đó chính là Mồ của Thần.  Nhiều người khác, kể cả một số linh mục trong thế kỷ 19, cũng đã đi tới cùng một kết luận.  Sự kiện này và quan niệm về thông điệp của phái chủ trương đạt giải thoát bằng kiến thức (Gnoticism), bao gồm hai lực đối nghịch của ánh sáng và tối tăm, đã chịu đựng nổi những nỗ lực cực đoan của giáo hội Ca-tô với mục đích loại bỏ những tư tưởng này trong đầu óc của người Tây phương trong suốt hai thiên niên kỷ nay.

   Giáo hội Ki Tô đã tự giới hạn một cách trầm trọng những sự chọn lựa để có thể thay đổi trong tương lai vì đã  đẩy mạnh quan niệm về “xác chết sống lại” và đem nó vào trong lễ tiết của lễ Mi-xa (Mass) - sự biến chất của bánh và rượu thành thân thể và máu của Giê-su.  Giáo hội phải duy trì ảnh hưởng của mình qua cái bí tích phổ quát này.  Bí quyết thành công của giáo lý này nằm trong sự khai thác bản tính con người.   Giáo hội Ca-Tô đặt mặc cảm “có tội” vào trọng tâm của giáo lý, cùng lúc đưa ra phương cách cất bỏ mặc cảm tội lỗi này.  Xưng tội, đi kèm với ăn năn thống hối, qua trung gian của giới linh mục, xóa bỏ được tội lỗi.  Điều này có thể được bảo đảm bất cứ lúc nào, bất kể là tội lỗi lớn tới mức nào.  Chẳng cần phải là người thông thạo về thần học chúng ta cũng có thể hiểu được tại sao quan niệm như vậy trở thành phổ thông.

   Ngược lại, hệ phái Ki Tô chủ trương đạt giải thoát bằng kiến thức, đẩy mạnh con đường tự quyết, một con đường khác biệt với sự tuân phục sách vở và giới linh mục, đã đưa ra một sự thách đố khác hẳn đối với con người.   Sự khám phá ra những phúc âm tại Nag Hammadi (những cuộn kinh trong biển chết: The Dead Sea Scrolls. TCN) đã cho chúng ta bằng chứng xác nhận sự khác biệt giữa những người theo Ki-Tô đã xảy ra ngay từ thời gian đầu và còn lan tràn trong thế kỷ 3.  Những tín đồ theo Giáo hội Rô-Ma được quy định là phải chờ Giê-su trở lại trong ngày phán xét cuối cùng mới có thể chia xẻ kinh nghiệm Của Giê-su và lên thiên đường.  Nếu Giê-su không sống lại thì không làm gì có ngày trở lại.   Bất cứ dạng ám chỉ nào về sự vô nghĩa của sự sống lại, khoan kể đến sự hiện hữu của xác Giê-su trên trái đất, đã đánh thẳng vào tim của giáo hội theo lý thuyết của Phao Lồ (nghĩa là giáo hội Ca-Tô Rô-Ma. TCN). 28

       Tưởng chúng ta cũng nên biết, trước khi cuốn Mồ Của Thần Ki-Tô ra đời cũng đã có nhiều công cuộc khảo cứu khác về cùng vấn đề, nhất là sau khi người ta kiếm ra được những cuộn kinh nơi biển chết (The dead sea scrolls) từ giữa thập niên 1940.  Điển hình là trong thập niên 1980, ba tác giả Michael Baigent, Richard Leigh, và Henry Lincoln đã xuất bản những thiên khảo cứu Máu Thánh, Chén Thánh (Holy Blood, Holy Grail) và  Cái Gia Sản Cứu Thế (The Messianic Legacy) về những tài liệu chứng tỏ Giê-su không chết, đã lập gia đình, có con và dòng dõi Giê-su hiện đang sống ở miền Nam nước Pháp.   Tuy nhiên, tôi sẽ không đi sâu vào chủ đề này trong một cuốn sách luận về đức tin trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma.

   Sau đây, chúng ta hãy đọc tiếp Kinh Tin Kính:

..Tôi tin kính đức Chúa Thánh Thần.  Tôi tin có hội Thánh hằng có ở khắp thế này, các Thánh thông công.

   Thực ra, dịch Holy Spirit là Chúa Thánh Thần không được đúng, vì chẳng có gì có thể gọi là Thánh hay Thần.  Spirit là dịch từ tiếng Do Thái “ruah”, có nghĩa là “hơi thở, không khí, gió” (breath, air, wind). Ngày xưa, người ta coi nó như là một hồn ma, vì vậy mới gọi là Thánh Ma (Holy Ghost).   Cho tới bây giờ, vẫn còn rất nhiều người dùng danh từ Holy Ghost.  Tiếng thông dụng ngày nay là Thánh Linh.  Gọi vậy thôi chứ chẳng ai biết Thánh Linh là cái gì. Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma, cái gọi là “Chúa Thánh Thần” đóng rất nhiều vai trò.  Cái mà không ai nhìn thấy, không ai sờ mó được, vô hình vô dạng, được tin là một trong ba ngôi Chúa, biến hóa vô cùng.

     Chúa Thánh Thần có thể làm cho bà Mary mang thai mà không cần đến tinh khí của  đàn ông; tới ngự trong đứa con nít thay thế chỗ của Satan trong khi nó bị lôi đến nhà thờ làm lễ rửa tội; hướng dẫn các Hồng Y trong việc tuyển chọn Giáo hoàng kể cả các giáo hoàng can tội sát nhân, dâm loạn, bán phép giảm tội để lấy tiền v..v..; chủ sự hôn phối cho những cặp nam nữ ở các nước Âu Mỹ có tỷ lệ ly dị rất cao; là nguồn tâm linh hướng dẫn hành động của giáo hội Ca-Tô, kể cả những hành động gây ra 7 núi tội lỗi đối với nhân loại mà “tòa Thánh” mới thú tội và xin lỗi gần đây; có mặt trong tất cả những bí tích của Ca-Tô giáo v..v.. Chúa Thánh Thần có thể hiện ra dưới nhiều biểu tượng: nước, dầu, lửa, mây, ánh sáng, bàn tay, ngón tay, chim cu. (Xin đọc Catechism of the Catholic Church, pp. 183-185).  Nhưng thực ra, những thuộc tính mà giáo hội Ca-Tô gán cho Thánh Linh và bắt các tín đồ phải tin có đúng không, và có những bằng chứng gì để thuyết phục những người ngoại đạo?  Tôi sẽ bàn qua vai trò của Thánh Linh trong chương sau, khi tôi luận về các “bí tích” trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma.

   Cái mà các tín đồ Ca-Tô tin là “hội Thánh”, nguyên nghĩa là “giáo hội Ca-Tô thánh thiện” (the holy Catholic church), thật ra chẳng phải là hội Thánh.  Vì hội Thánh nào mà lại có thể gây ra 7 núi tội lỗi mà Giáo hoàng và “tòa Thánh” đã phải xưng tội và xin được tha thứ cùng thế giới ngày 12 tháng 3 năm 2000?  Hội Thánh nào mà lại gây ra 9 cuộc “thánh chiến”với kết quả là bao nhiêu triệu người vô tội bị tàn sát, đưa cả Âu Châu vào vòng tăm tối và man rợ trí thức trong suốt 1000 năm của thời đại đen tối (the dark ages), lập ra những tòa hình án để dùng cực hình tra khảo, thiêu sống, cướp tài sản của số nạn nhân lên tới 11 triệu người, làm tiên phong hoặc đồng hành với các thế lực thực dân Âu Mỹ đi xâm chiếm đất đai, cướp tài sản, cưỡng bách cải đạo để truyền bá cái đạo “cao quý”, vu cho người Do Thái cái tội “giết Chúa” để có cớ bách hại người Do Thái suốt 2000 năm nay v..v..  Một cái hội có những thành tích kinh hoàng như vậy có thể gọi là “hội thánh” được hay không?  Nhất định là không thể được, ít ra là đối với những người ngoại đạo.  Còn đối với các tín đồ thì họ muốn tin ra sao, đó là quyền của họ.  Nhưng họ không có quyền bắt hoặc hi vọng những người khác cũng phải tin như họ.  Và, những người ngoại đạo, khi biết đến lịch sử tàn bạo của giáo hội Ca-Tô, thì đương nhiên có quyền khinh khi cái gọi là “hội thánh” này.

   Nếu đã chẳng làm gì có cái gọi là “hội Thánh” thì cũng chẳng làm gì có cái gọi là “các thánh thông công.”  Các tín đồ Ca-Tô tin rằng sau khi chịu lễ rửa tội từ khi còn khóc oe oe, chưa biết gì, là mình đã chính thức gia nhập “hội thánh” và đương nhiên là thánh rồi.  Chẳng vậy mà ông Nguyễn Kim Khanh, một tín đồ Ca-Tô với bút hiệu là Phan Thiết, viết trong cuốn Đất Việt.., trang 358:

   ..những ai giữ nghĩa cùng Chúa cho đến hơi thở cuối cùng (bất kể là trong đời bê bối đến đâu, độc ác đến đâu, ăn gian nói dối đến đâu v..v.. TCN) đều có quyền chia động từ “là thánh”: tôi là thánh, anh là thánh, chúng ta là thánh..

   Thánh của ông Phan Thiết thật rẻ như bèo, đáng bao nhiêu đồng tiền?   Không có tôn giáo nào nhiều thánh như Ca-Tô giáo Rô-Ma.  Nhưng thực ra, đâu có phải cứ được “tòa thánh” phong thánh hay gọi là thánh mà là thánh.  Trong Thánh Kinh cũng đầy thánh, có nhiều thánh chẳng ai biết gốc tích ra sao, ví dụ như các thánh viết bốn phúc âm Matthew, Mark, Luke và John.  Ở ngoài đời thì cứ làm giáo hoàng là tự động thành “đức thánh cha”, chưa kể nhiều tội đồ của nhiều dân tộc khác cũng trở thành thánh Ca-Tô qua cái xưởng sản xuất thánh: Vatican (Hồng y Silvio Oddi: Vatican has become a saint factory).  Để độc giả có một ý niệm về thế nào là thánh trong Ca-Tô giáo, trước hết tôi xin kể sơ lược về vài thánh trong thánh kinh.

   Abraham, thánh tổ phụ của các đạo Chúa, lấy em ruột làm vợ rồi dâng vợ cho các vua Ai Cập Pharaoh và Abimelech để đổi lấy trâu bò đồng ruộng, rồi lại ra tay định giết đứa con ruột của mình là Issac (Sáng Thế 20, 21); thánh Lot, dâng hai đứa con gái còn trinh cho bọn cướp muốn làm gì thì làm (bọn cướp từ chối), sau lại ngủ với cả hai đứa con gái ruột của mình làm cho cả hai đều mang thai (Sáng Thế 19);  thánh Moses, sản phẩm của một cuộc loạn luân (Exodus 6: bố của Moses lấy cô ruột sinh ra Moses và Aaron), nghe lệnh Chúa Cha, giết người không gớm tay, cùng ra lệnh cho quân dưới trướng phải giết sạch đàn ông, đàn bà và con nít trong một thị trấn, chỉ để lại gái trinh và dâng cho Chúa một phần là 32 trinh nữ (Numbers 31); thánh David đã có nhiều vợ nhưng còn cướp vợ của Uriah là Bethsheba bằng cách gửi Uriah ra tiền tuyến kèm theo mật lệnh cho vị chỉ huy tiền tuyến là Joab phải làm sao để Uriah không được sống sót (2 Samuel 11: 24,26,27); và ngay cả Chúa Giê-su, chúa của các thánh,  cũng là người hỗn hào với cha mẹ, xấc láo gọi người đàn bà không phải dân Do Thái là chó, tàn nhẫn ác độc bắt 2000 con heo vô tội đâm đầu xuống sông chết đuối, nguyền rủa cây sung cho nó chết héo chỉ vì nó không ra quả khi trái mùa v..v.. như đã trình bày với nhiều chi tiết trong một phần trên. Đó là tên một số thánh quen thuộc, còn biết bao thánh khác trong thánh kinh lòng dạ độc ác, hành động phi cầm phi thú, đếm thật không xuể.

   Còn các thánh ở ngoài đời thì sao?  Tín đồ Ca-Tô Việt Nam gọi giáo hoàng của họ là “đức thánh cha”, tin rằng giáo hoàng đương nhiên phải là bậc thánh, vì giáo hội dạy rằng, giáo hoàng được chọn là do kết quả hướng dẫn của thánh linh cho các hồng y, những người có quyền chọn lựa, quyết định ai là giáo hoàng.  Không có một sự lừa dối nào trắng trợn hơn là luận điệu này.  Các tín đồ tin là vì họ không biết gì về lịch sử các giáo hoàng trong giáo hội của họ.  Để mở mang đầu óc của họ, sau đây tôi xin trích dẫn một đoạn trong cuốn Những Dối Trá và Huyền Thoại Của Thánh Kinh của Lloyd M. Graham:

   Chúng tôi thừa nhận rằng điều mà chúng tôi trình bày ở đây là chủ ý đưa ra hình ảnh một mặt, mặt đen tối và ô nhục.  Lý do để đưa ra mặt này là vì hàng triệu linh hồn bị lạc dẫn đang sơn phết mặt kia và đưa cao nó lên như là mặt duy nhất cho thế giới những kẻ nhẹ dạ, cả tin.  Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải biết cả hai mặt, không chỉ vì lợi ích của sự thật mà còn là cho những người đang sống trong sự nô lệ tâm linh cho một quyền lực lừa đảo.  Đối với những người này, một ngàn năm tội ác và đồi bại được làm nhẹ đi qua lời giải thích hời hợt là “chỉ có vài giáo hoàng xấu”.  Nếu những người giải thích như vậy mà lương thiện, họ phải thừa nhận rằng thật ra chỉ có vài giáo hoàng tốt.

   Chúng tôi đã nói về sự bất lương của học thuật Ca-Tô.  Không ở đâu rõ ràng bằng luận điệu bào chữa, che đậy cho các giáo hoàng đồi trụy. 

   Những tội ác của các giáo hoàng là do những người khác làm và “không thể tránh được”, sự thiêu sống những kẻ dị giáo là một “điều cần thiết của thời đại”,   những sự trụy lạc của giáo hoàng chỉ là “yêu thích sự vui vẻ lành mạnh”.  Những hồ sơ ghi chép sự việc đương thời đã hoàn toàn phủ bác những luận điệu trên, và những điều ghi chép này không phải là do những kẻ thù của giáo hội viết, mà phần lớn là do những sử gia của chính giáo hội gồm có những giáo hoàng và hồng y: giáo hoàng Victor II, Pius II, hồng y Baronius, giám mục Liutprand, linh mục Salvianus, và các sử gia như Milman, Gerbert, Burchard, Guicciardini, Vacandard, Draper, và nhiều người khác.  Đây chính là những người có đầy đủ thẩm quyền đưa ra cái mặt đen tối và ô nhục của giáo hội.  Những gì mà chúng tôi trình bày ở đây chỉ là lượm lặt trong thời gian 1500 năm, nhưng chúng tôi nghĩ rằng cũng đủ để bác bỏ mọi điều tự nhận của giáo hội, cho rằng giáo hội đã được thánh linh tuyển chọn và hướng dẫn..

   Trong thời đại đen tối (the dark ages) những giáo hoàng được thánh linh hướng dẫn này đã giết nhau với nhịp độ 10 giáo hoàng bị giết trong vòng 12 năm (891-903) và 40 trong vòng hơn 100 năm.  Sergius III là một kẻ giết nhiều người; theo hồng y Baronius và Vulgarius, ông ta đã giết hai vị giáo hoàng tiền nhiệm.  Năm 708, Toto, một nhà quý tộc đứng đầu một đám thuộc hạ ô hợp, đã vận động để cho anh hắn được bầu làm giáo hoàng.  Đó là giáo hoàng Constantine II, người sau đó bị Christopher, thủ tướng của ông ta, móc mắt ra.  Rồi Christopher cùng con của hắn âm mưu chống giáo hoàng Gregory và cũng cho người móc mắt Gregory.  Hai đứa cháu của giáo hoàng Leo III là Pascal và Campulus đều là linh mục.  Chúng toa rập với nhau mưu đồ thay thế Leo III, thuê một đám giết mướn để giết Leo III khi ông ta đi dạo phố.  Việc không thành, chúng đích thân ra tay, kéo Leo III vào một tu viện và giết ông ta tại đó.  Chắc độc giả cho rằng đó là chuyện thuần túy giả tưởng, chỉ để phỉ báng.  Nhưng không phải vậy, đó là dựa theo những hồ sơ ghi lại sự việc của nhà viết tiểu sử các giáo hoàng.

   Đó chỉ là chuyện thường của thời đại.  Giáo hoàng Leo V bị một người cũng tên là Christopher hạ bệ, rồi đến lượt tên này cũng bị hạ bệ và cái tên sát nhân giết mấy giáo hoàng tiền nhiệm đã nói ở trên, Sergius III, lên thay. Trong thời đại này, không phải là Thánh Ma tuyển chọn giáo hoàng mà là, theo Hồng y Baronius, những cô gái điếm (scortas).  Đó là “luật lệ của những cô gái điếm hạng sang” (rule of the courtesans), đôi khi còn được gọi là “chế độ điếm trị” (Pornocracy), hay là triều đại của các cô gái điếm (reign of the whores).  Trong số điếm này có một người mà Baronius gọi là “con điếm vô liêm sỉ”, Theodora, và đứa con gái vô liêm sỉ không kém là Marozia.  Cả hai mẹ con đều có con với giáo hoàng Sergius III, và cả hai đều đưa những đứa con hoang của mình lên ngai giáo hoàng - John XI và John XII.  John XI bị cầm tù và John XII đã “biến dinh Lateran (nơi giáo hoàng ở, trong Vatican. TCN) thành một ổ điếm”.   Không có một tội ác nào mà John XII không làm - giết người, khai gian, thông dâm, loạn luân với hai em, đâm chém và thiến kẻ thù v..v.. Hắn ta chết trong tay của một người chồng bị xúc phạm (vì bị bắt quả tang đang thông dâm với vợ người này.)

   Theo sử liệu, hồng y Francone cho người thắt cổ giáo hoàng Benedict VI, sau đó lên làm giáo hoàng Boniface VII, “một con quỷ khủng khiếp vượt mọi con người về tội ác”, theo sử gia Gerbert.  Hắn ta cũng chẳng tệ hơn gì giáo hoàng Boniface VIII.. Thật vậy!  Để chiếm được cái mũ tiara (mũ ba tầng của giáo hoàng. TCN) hắn đã thủ tiêu giáo hoàng dở hơi Celestine V.  Nhưng hắn cũng chẳng hưởng được sự chiến thắng lâu dài vì ngay sau đó hắn bị những người La Mã truất phế.   Trong triều đại của một giáo hoàng kế vị, Clement V, sau khi chết hắn còn bị mang ra xét xử  và được xem là phạm mọi tội ác, kể cả tội hành dâm với đồng nam (pederasty) và giết người.  Và khi Clement chết thì người kế vị hắn, John XXII, phanh phui ra rằng Clement đã quá nhân từ (Tác giả chơi chữ: “Clement had been so very clement” vì clement có nghĩa là nhân từ) nên đã cho người cháu một số tiền tương đương với 5 triệu dô-la, tiền của giáo hoàng.  Vào thời gian này, triều đình của giáo hoàng được chuyển đến Avignon, và thánh Phê-rô nay cùng lúc có hai người kế thừa, một người ở Avignon và một người ở Rô-Ma.  Nhưng vậy mà cũng chưa đủ vì có khi có tới ba giáo hoàng cùng một lúc - Gregory XII, Alexander V, và John XXIII.  Về sau John XXIII bị từ khước, tên thánh bị hủy bỏ, và gần đây tên này (John XXIII) được giáo hoàng kế vị Pius XII lấy lại.

   Sự đồi bại của John XXIII lên đến độ mà Sigmund ở Hung Gia Lợi phải triệu tập một hội đồng điều tra hắn ta.  Kết quả của cuộc điều ta là đưa ra năm mươi bốn (54) khoản mô tả John XXIII là “độc ác, không tôn trọng những điều thiêng liêng, không trong trắng, nói láo, không tuân theo luật lệ và đầy những thói xấu.”  Khi còn là hồng y, John XXIII đã là người “vô nhân đạo, bất công và tàn bạo.”  Khi lên làm giáo hoàng, ông ta là “kẻ đàn áp người nghèo, khủng bố công lý; là cột trụ của tội ác, hình tượng của những kẻ buôn bán chức tước và thánh tích; ham mê trò quỷ thuật, cặn bã của thói xấu, đắm mình trong nhục dục; là tấm gương của sự ô nhục, một kẻ phát minh ra những tội ác.”  Hắn giữ chắc ngôi vị giáo hoàng bằng “bạo lực và gian lận và bán phép giải tội, chức vụ, bí tích và những đồ ăn cướp được.”  Hắn “xúc phạm thánh thần, thông dâm, giết ngưòi, hiếp dâm và ăn cắp.”..  Một vài những giáo hoàng như vậy vô đạo đức, tục tĩu đến độ phải đi đày.  Ít nhất là có hai giáo hoàng bị móc mắt và cắt lưỡi, rồi buộc vào đuôi lừa kéo lê ngoài đường phố.  Một số khác bị khinh ghét đến độ người ta quật xác chúng lên và ném xuống sông Tiber.  Sau một ngàn bốn trăm năm dưới quyền lực của Ki Tô Giáo, đạo đức xuống thấp đến độ giáo hoàng Pius II than rằng “hiếm mà có một ông hoàng ở Ý không phải là đứa con hoang.”  Lời tuyên bố này cũng áp dụng cho những ông hoàng của giáo hội (nghĩa là những giáo hoàng, hồng y, giám mục v..v..) như là của chính quyền dân sự.

   Tệ hại như vậy nhưng sự tệ hại hơn còn chưa tới - với giòng họ Borgias, đặc biệt là Rodrigo.  Trong những giáo hoàng xấu xa độc ác thì hắn xứng đáng đứng đầu.  Bằng cách hối lộ 15 hồng y với số tiền tương đương với 3 triệu đô-la, hắn chiếm được sự tuyển lựa một con người tệ hại nhất trong lịch sử - chính hắn, lên làm giáo hoàng với tên Alexander VI.  Sử gia Guicciardini mô tả hắn như sau: “..có những thói quen cực kỳ tục tĩu, vô liêm sỉ và không có một ý thức nào về sự thật, nuốt lời, không có tình cảm tôn giáo, tham lam vô độ, nhiệt tình tham vọng, độc ác quá sự độc ác của những giống người man rợ, tham muốn đưa con lên địa vị cao bằng mọi thủ đoạn: hắn có nhiều con, và một trong những đứa này - cũng đáng ghê tởm như  cha của nó.”  Đó là con người nổi tiếng, Cesare Borgia, người đã giết người anh rể là John, và hai hồng y khác để chiếm được cái áo hồng y..

   Khi còn là hồng y, cái kẻ chơi bời phóng đãng và sát nhân này đã biến chỗ ở của mình trong Vatican thành một ổ điếm.  Theo sử gia đương thời là Burchard, hắn đắm mình trong những cuộc hoan lạc trong những phòng của hắn, ngay trên phòng của giáo hoàng, và những cô gái điếm hạng sang “nhảy múa trần chuồng trước những tôi tớ của Chúa và vị đại diện của Chúa (nghĩa là giáo hoàng. TCN).”..  Đó là sự hoan lạc được giải thích như là “lòng yêu thích sự vui vẻ lành mạnh.”

   Đó là những ông hoàng của giáo hội trong những ngày đó.  Trong thời Trung Cổ, tập thể các hồng y cũng đồi bại như là một tập thể mà người ta có thể kiếm được trong suốt giòng lịch sử.  Chiếm được một ngôi vị hồng y chỉ là vấn đề có tiền và ảnh hưởng quen thuộc.  Đức tính, sự hiểu biết, và khả năng không dự phần nào trong đó.  Thật vậy, những đứa trẻ mười bốn mười lăm tuổi đôi khi cũng được đưa lên ngôi vị hồng y.  Giáo hoàng Paul III cho hai đứa cháu (gọi Paul III bằng ông) làm hồng y.. Paul IV cũng cho một đứa cháu gọi Paul IV bằng bác lên làm hồng tuy chính ông ta nói “cánh tay của nó ngập máu đến tận khuỷu tay.”

   Vậy mà đó là những người, với sự trợ giúp của Thánh Ma, tuyển chọn giáo hoàng..

   Tại sao cái lịch sử ô nhục này không được tín đồ biết đến như là lịch sử các giáo hoàng mà họ cho là tốt?  Tại sao các tín đồ Ca-Tô không được dạy rằng chính những con người như trên đã đưa đến sự cải cách chứ không phải là do “con quỷ Luther đó.”?  Giáo phái Tin Lành nổi giậy không chỉ vì Luther mà vì sự phản đối tôi ác và sự đồi bại của giáo hội Ca-Tô trong nhiều thế kỷ.   Tên Sa-Tăng Phê-rô đã xúc phạm đến toàn thể Âu Châu.. 29

   Trên đây chỉ là sơ lược về những sự đồi bại cùng cực của một số không nhỏ “đức thánh cha”, những người được Thánh Linh hướng dẫn tập đoàn hồng y trong sự tuyển chọn, trong lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-Ma.  Tôi chưa hề nói đến những hoạt động lừa đảo, gian dối, thế tục, thực dân của “hội thánh” liên hệ đến những vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa v..v.. trên khắp thế giới. Những vấn đề này cần riêng một cuốn sách mới có thể tạm gọi là đầy đủ. Riêng về các chuyện “thâm cung bí sử” của Ca-Tô Giáo Rô-Ma, quý độc giả nào muốn biết thêm chi tiết có thể đọc cuốn Những Đại Diện Của Ki-Tô: Cái mặt Đen Tối Của Giáo Hoàng Triều (Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy) của Tổng Giám Mục Peter de Rosa, trong đó có một chương nói về Triều Đại Giáo Hoàng Do Điếm Trị (Papal Pornocracy) mà Hoàng Thiên đã dịch với đầu đề không được sát nghĩa cho lắm: Triều Đại Dâm Loạn Của Các Giáo Hoàng, và đăng trong Tuyển Tập I: Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, do ban nghiên cứu đạo giáo ở Texas xuất bản và phát hành năm 1994.  Độc giả cũng có thể đọc những cuốn sau đây: Những Giáo Hoàng Đồi Bại (The Bad Popes) của E. R. Chamberlin;  Vạch Trần Những Sự Thực về Các Giáo Hoàng: Một Nghiên Cứu Thẳng Thắn về Vấn Đề Nhục Dục và Đồi Bại trong cung đình Vatican (Unzipped: The Popes Bare All, A Frank Study of Sex and Corruption in the Vatican) của Arthur Frederick Ide; Những Chuyện Tình Ái của Vatican hay Những Tình Nhân Yêu Chuộng của Các Giáo Hoàng (The Love Affairs of the Vatican or The Favorites of the Popes) của Tiến sĩ Angelo S. Rappoport.

   Có thể có những tín đồ Ca-Tô, tin theo lời chống đỡ của giáo hội, cho rằng đây chỉ là những chuyện dính líu đến một số giáo hoàng, hồng y xấu xa trong quá khứ và đó là những chuyện đã qua.   Không hẳn vậy, những chuyện đồi bại, ác độc không chỉ giới hạn trong giới giáo hoàng hay hồng y mà còn lan tràn trong mọi giới lãnh đạo Ca-Tô gồm cả các Tổng Giám Mục, Giám Mục và Linh mục, và kéo dài cho đến tận ngày nay.  Độc giả có thể đọc những chuyện này trong nhiều tác phẩm đã xuất bản, đặc biệt là chương I trong cuốn The Love Affairs of the Vatican của Dr. Angelo S. Rappoport.

   Tôi không muốn đi sâu vào những vấn đề này.  Những tài liệu nêu trên chỉ có mục đích là chứng minh rằng: không có cách nào chúng ta có thể coi Ca-Tô giáo như là một “hội thánh” vì giáo hội Ca-Tô đã phạm quá nhiều tội ác đối với nhân loại, và vì nhiều bậc lãnh đạo trong Ca-Tô giáo, kể cả một số người được phong làm Thánh Ca-Tô, xưa cũng như nay, không đủ tiêu chuẩn đạo đức và trí tuệ để theo kịp những người dân bình thường lành thiện, khoan nói đến những bậc thánh nhân theo sự hiểu và định nghĩa của những người Á Đông về thánh nhân..

   Có lẽ vì vậy mà Giám mục Spong đã nhận định về những từ “hội thánh” và “các thánh thông công” trong Kinh Tin Kính như sau:

   Kinh Tin Kính kết bằng một đoạn hiến dâng cho Thánh Linh, cái mà người ta nói rằng đã tạo nên giáo hội trong ngày hạ trần của ông ta (được quy định vào ngày chủ nhật thứ bảy sau ngày chủ nhật Phục Sinh. TCN), và được cho là vẫn tiếp tục chứa đầy giáo hội với “sự hiện diện của Thần Ki-Tô”.  Thứ nhất, chúng ta cần ghi nhận rằng, tất cả những biểu tượng về ngày hạ trần của Thánh Linh đều bắt nguồn từ cùng một quan niệm về ba tầng trời (theo thánh kinh: thiên đường ở trên các tầng mây, mặt đất phẳng dẹt, đứng yên và là trung tâm của vũ trụ, và hỏa ngục ở dưới mặt đất. TCN) trong đó người ta nói rằng Giê-su đã bay lên trời (thiên đường).   Giả định đằng sau câu chuyện gửi Thánh Linh hạ trần là cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ và Thần Ki Tô sống ở trên trời có thể đổ xuống những ân sủng.  Thứ nhì, Kinh Kinh Tín khẳng định là cái thánh linh này sẽ được phân phát trong các thánh thông công, liên tục tiếp sinh khí cho “giáo hội Ca-Tô thánh thiện.”  Giáo hội, trong suốt giòng lịch sử, thật ra cũng có những thời trông giống như các thánh sống cùng nhau (tác giả muốn nói đến các thời trước thế kỷ thứ tư, trước khi Constantine nhận Ki-Tô giáo làm quốc giáo. TCN).  Nhiều đời sống cá nhân đã biến đổi, trở nên phong phú hơn khi kết hợp với cộng đồng và sự thờ phụng Ki-Tô.  Nhưng trong lịch sử giáo hội, giáo hội cũng có những giai đoạn khủng khiếp đánh dấu bởi những cái gọi là “thánh chiến”, “chiến tranh thiêng liêng của các thập tự quân”, những tòa hình án xử dị giáo, chính sách vô nhân đạo chống Do-Thái, và sự công khai giết những người khác giống, kỳ thị phái nữ và chống những người có khuynh hướng đồng giống tình dục.  Trong những giai đoạn này, bạo lực quá mức đã được những người tự gọi mình là tín đồ Ki-Tô dùng thả giàn trên cả những dân của Thần cũng như những tạo vật của Thần.   Những sự khủng khiếp như vậy đã giáng xuống đầu nhân loại nhân danh một vị Thần của tình yêu thương.  Trong những giai đoạn này thì các thánh thông công ở đâu?  Chúng ta tính sao với những sự kiện lịch sử này mỗi khi chúng ta đọc câu trên  trong Kinh Tin Kính? 30

   Chúng ta thấy rằng, những tín đồ Ca-Tô quả là đáng thương hại.  Đầu óc họ bị nhào nặn từ khi mới sinh ra đời nên họ hàng ngày cứ đọc lên những lời vô nghĩa, không biết rằng mình đã bị lừa dối bởi những lời nói láo vĩ đại.   Chẳng trách là họ không thể tin được những gì không phù hợp với đức tin của họ, bất kể là những điều này đúng với sự thật như thế nào.  Sau đây chúng ta hãy xét đến câu sau cùng trong bản Kinh Tin Kính:

..Tôi tin phép tha tội.  Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy.  Amen.

   Tôi sẽ luận bàn về phép tha tội trong chương sau, khi tôi xét đến các “bí tích” trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma.

   Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, giáo hoàng John Paul II phán, trang 76: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.”

   Vì vậy, các tín đồ Ca-Tô tin rằng khi Giê-su trở lại trong ngày phán xét cuối cùng để phán xét kẻ sống người chết thì, vì họ là những người tin theo Giê-su, nên Giê-su hóa phép cho xác chết họ sống lại và bay lên trời như Giê-su khi xưa, sống vĩnh viễn trên cái nhà ở trên trời (thiên đường).  Nhưng điều khẳng định thần học trên ngày nay đã không còn chỗ đứng trong một thế giới đã văn minh tiến bộ hơn thế giới cách đây 2000 năm nhiều.  Vì, như tôi đã trích vài đoạn trong Thánh Kinh và chứng minh rằng Giê-su đã hứa hão với các môn đồ là sẽ trở lại phán xét thế gian ngay trong thế hệ của Giê-su nhưng rồi đã biệt tăm suốt 2000 năm nay.   Mặt khác, theo tiêu chuẩn luân lý đạo đức ngày nay thì hành động giết con của Thiên Chúa không thể chấp nhận được.  Phải chăng vì vậy mà Giám mục Spong đã viết:

   Một người cha đóng đinh con mình lên cây thập giá với bất cứ mục đích nào cũng phải bị bắt giữ về tội hành hạ trẻ con.  Vậy mà người ta vẫn cứ tiếp tục nói Thần Ki Tô như vậy, làm như chuyện đó làm cho Thần thánh thiện hơn và xứng đáng để được thờ phụng hơn.

   Tôi chọn thái độ ghê tởm thay vì đi thờ phụng một vị thần đòi hỏi sự hy sinh của con mình. 31

  Có điều tôi thật tình không hiểu là khi các tín đồ Ca-Tô tin rằng xác chết sống lại thì họ muốn nói đến xác chết dưới hình dạng như thế nào.  Xác chết còn nguyên hay đã rũa nát hết thịt, chỉ còn trơ lại bộ xương? Đội mồ mà lên hay được các thánh trong Ca-Tô Giáo đào lên?  Còn những tín đồ ra trận bị bom đạn làm cho xương tan, thịt nát v..v.. thì sống lại như thế nào.  Lại còn những người sinh ra và chết đi trước khi Giê-su sinh ra đời.  Hiển nhiên, những người này không hề biết đến Giê-su để mà tin, vậy họ có bị luận phạt hay không?  Đối với dân tộc Việt Nam và nhiều dân tộc khác ở Á Châu, không ai biết đến Giê-su trước thế kỷ 16, trong số này có cả tổ tiên, cha mẹ những kẻ tân tòng Ca-Tô, vậy họ cũng bị luận phạt hay sao?  Tín đồ Ca-Tô có bao giờ nghĩ đến những vấn nạn này hay chỉ cần ăn cái bánh vẽ “xác chết sống lại” và “sống đời đời” , thỏa mãn lòng ích kỷ riêng của cá nhân mình?  Giả thử Giê-su trở lại ngày hôm nay để luận phạt kẻ sống người chết, ông ta sẽ luận phạt cặp trẻ sinh đôi dính liền vào nhau (Siamese twins: hình ảnh có trên TV) nhưng chỉ có một trái tim như thế nào, dựa trên căn bản nào.  Còn bao nhiêu đứa trẻ khác, vừa sinh ra đã bị đủ mọi khuyết tật, chúng sẽ bị luận phạt ra sao?  Ngoài ra, không kể những người đã chết, và những người sẽ tiếp tục chết cho tới khi Giê-su trở lại, rất có thể là 5, 7 tỷ năm nữa, khi đó trái đất không còn, hiện nay số người sống trên trái đất là trên 6 tỷ người.  Cho rằng Giê-su là một siêu nhân (superman), có thể luận sự thưởng phạt con người với một tốc độ kỷ lục, chỉ cần 1 phút là xét xong hồ sơ lý lịch thiện ác, tin hay không tin v..v.. của một người để đưa ra quyết định là cho họ lên thiên đường (mù) hay đày họ xuống hỏa ngục (tưởng tượng), thì ông ta cũng phải cần đến một thời gian là trên mười ngàn năm (10000) mới phán xét xong. Trong 10 ngàn năm này, dân số thế giới lại tăng lên không biết đến bao nhiêu. Theo Thánh Kinh thì bắt đầu bắng con số 2 (Adam và Eve) cách đây 6000 năm, khi Thần Ki Tô “sáng tạo” ra vũ trụ và thế giới loài người, nay con số đó đã tăng lên trên 6 tỷ.  Vậy bắt đầu bằng con số 6 tỷ, trong 10000 năm nữa, với cùng một nhịp độ gia tăng dù “tòa thánh” đã bỏ vốn làm thuốc ngừa thai và cùng lúc cấm tín đồ dùng thuốc ngừa thai, số người trên thế gian này có thể lên tới trên 20 tỷ tỷ (20 billion billion).  Tôi xin tình nguyện xếp hàng ở chót để cho Giê-su phán xét, tuy rằng tôi tin Giê-su chẳng có quyền phán xét ai, vì đó chỉ là những luận điệu thần học hoang đường của con người bày đặt ra.  Cứ mỗi khi có người mới sinh ra tôi lại hoan hỉ nhường chỗ cho họ xếp hàng trước để được Giê-su mau phán xét, vậy bao giờ mới tới lượt tôi?  Một bài toán không có đáp số, hay nói đúng hơn, đáp số là một con số ngoài sức tưởng tượng của con người.  Nhưng mà, vấn đề then chốt là, ai cho Giê-su cái quyền phán xét những người không tin theo Giê-su, không chịu phép rửa tội hoang đường (như sẽ được trình bày trong chương sau), những người coi chuyện “phán xét kẻ sống người chết” là chuyện hoang đường nhất trong những chuyện hoang đường.  Ai muốn tin sao là quyền của họ, nhưng họ cũng phải hiểu rằng, “không tin” là quyền của tôi, và quyền này là quyền bất khả xâm phạm.

   Kết luận?  Cái luận điệu thần học “ai tin vào Giê-su sẽ không bị luận phạt và được sống đời đời” chẳng qua chỉ là một cái bánh vẽ đưa ra để chiêu dụ đám tín đồ đầu óc thấp kém, không có khả năng suy nghĩ, không có một ý niệm gì về lô-gic, và không hiểu gì về nguồn gốc, lịch sử của Ca-Tô Giáo Rô-Ma. Luận điệu thần học này đã buộc chặt đầu óc tín đồ bằng một loại xiềng xích vô hình khiến cho tín đồ không còn có thể vùng vẫy thoát ra được trừ khi họ đã mở mang đầu óc, dùng lý trí để suy luận và nhận ra tính chất hoang đường, phi lý, phi lô-gic, phi thực tế, phi đạo đức và phản khoa học của một tín điều chỉ có thể hợp với đầu óc của dân Do Thái trong thời bán khai.

   Điều đáng nói là, không những giáo hội buộc chặt đầu óc tín đồ trong Kinh Tin Kính mà còn mê hoặc đầu óc họ trong những lễ tiết đượm nhiều mê tín mà giáo hội đặt ra và gọi đó là những “bí tích”, nghĩa là những thứ tín đồ trông thấy hiển nhiên nhưng lại tiềm ẩn những sự huyền nhiệm mà tín đồ chỉ cần tin, không cần hiểu, những huyền nhiệm chưa bao giờ, chưa có ai, chưa có cách nào có thể kiểm chứng được đó là những sự thực có thể xảy ra.  “Bí Tích” chính là chủ đề khảo luận của tôi trong chương tới. 


 


Cập nhật: 14-1-2001

Trở về mục "Đối thoại"

Đầu trang