Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Vài suy nghĩ về thiết chế
Phật giáo Việt Nam
Thích Hiển Chánh

Phát họa ra đường hướng phát triển Phật giáo VN là công việc vô cùng quan trọng, bức thiết, nhưng không dễ dàng, do các điều kiện khách quan của xã hội và nội bộ Phật giáo. Đó là một công trình đòi hỏi sự góp sức của toàn thể tăng ni và Phật tử trong và ngoài nước. Các đóng góp đó bao gồm nhân lực, vật lực, tài lực, chất xám, trí tuệ và quan trọng nhất là sự thực tu thực học của người con Phật. Nếu "chỉ khi nào đời sống đạo đức của người con Phật còn thì Phật giáo còn hưng thạnh" (Tỳ-ni tạng trụ Phật pháp diệc trụ) thì công việc phát triển Phật giáo trước nhất phải là công việc phát triển đời sống đạo đức và trí tuệ của những người con Phật. Do đó, khi đề cập đến một đường hướng phát triển Phật giáo trong thời đại mới, trong thế kỷ mới không có nghĩa cho rằng đạo Phật cần phải được canh tân, về giáo nghĩa hay phương pháp hành trì, mà đúng ra là và quan trọng hơn là chính những người con Phật, những người hành trì lời Phật cần phải canh tân tư duy, hành động và phương pháp tu tập của mình để thông điệp từ bi, trí tuệ và giải thoát của đức Phật trổ hoa trái an lạc và hạnh phúc cho nhân sinh. Một công trình như vậy tuy lớn lao, khó khăn nhưng không có nghĩa là không làm được.

Với tư cách là một tu sĩ Phật giáo, người viết xin trình bày một vài thiển ý về thiết chế Phật giáo VN. Hy vọng các ý kiến này sẽ góp phần như một viên gạch cho một phong trào phát triển Phật giáo trong thế kỷ mới. Để chuẩn bị và đáp ứng nhu cầu đa dạng của thời đại mới, điều quan trọng nhất, theo chúng tôi, là thiết chế Phật giáo Việt Nam cần phải được thay đổi. Thiết chế giáo hội có thể thay đổi theo các điểm căn bản sau đây:

1. Liên kết các giáo hội Phật giáo

Giáo hội nên có chính sách và từng bước xóa bỏ ý thức hệ giáo hội PG trước và sau 1975. Giáo hội nên chủ động "nới rộng vòng tay," mời đón các tầng lớp trí thức và thật tu của Phật giáo trong và ngoài nước, không phân biệt ý thức hệ GHPGVN và GHPGVNTN, tăng ni hay cư sĩ, để cùng nhau khôi phục, chấn chỉnh và phát huy tiềm năng đã và đang bị phân hóa của Phật giáo, trên bình diện ý thức hệ và địa dư. Sự phân hóa ý thức hệ giáo hội PG trong hai thập niên qua chỉ làm cho tổng thể PGVN nói chung yếu đi về nhiều phương diện, nhất là mặt hoằng pháp.

Có một sự thật mà chúng ta phải thừa nhận đó là, nơi nào có sự phân biệt ý thức hệ, nơi đó có sự phân hóa. Nơi nào có sự phân hóa, nơi đó có sự đổ vỡ các mối quan hệ con người. Nơi nào có sự đổ vỡ, nơi đó vắng mặt của hạnh phúc và an lạc. Nơi nào không có mặt của an lạc, nơi đó không phải là con đường hướng đến đạo từ bi, giác ngộ và giải thoát của đức Phật. Do đó, chúng con kính mong các vị lãnh đạo PGVN nên sớm ngồi lại với nhau, xóa đi các điểm dị biệt, phát triển các điểm tương đồng, cùng hợp sức truyền bá chánh pháp của đức Phật theo tinh thần 84.000 pháp môn, mỗi pháp môn đều có công năng hướng hành giả thẳng tiến trên con đường giác ngộ của đức Phật. Nếu sự phân hóa ý thức hệ giáo hội làm cho PGVN thành những mảnh vụn rời rạt thì sự liên kết và hợp tác rộng rãi các giáo hội PGVN trong và ngoài nước sẽ là một trục xoay làm cho PGVN vững mạnh thực sự, đáp ứng được nhu cầu tâm linh và tu tập của quần chúng Phật tử Việt Nam trên khắp thế giới.

Hơn thế nữa, nếu đức Phật đã từng dạy "máu của chúng sanh có cùng màu đỏ, nước biển chỉ có một vị mặn, đạo Phật duy nhất có một vị giải thoát" thì PGVN nên có chung một con đường, một chí hướng, đó là con đường và chí hướng đoàn kết, hòa hợp các tổ chức giáo hội PG trên tinh thần trăm hoa đua nở, để cùng nhau chia xẻ, hành trì và truyền bá hương vị giải thoát của lời Phật dạy, đem lại hạnh phúc cho nhiều người.

2. Xóa bỏ ý thức hệ vùng miền và địa phương

Song song với sự liên kết các giáo hội Phật giáo trong và ngoài nước, giáo hội nên đẩy mạnh cuộc thanh lọc, nhằm xóa bỏ ý thức hệ vùng miền, địa phương, hệ phái đang lan tràn dưới nhiều hình thức trong từng ban ngành của giáo hội. Chính ý thức hệ phân chia này đã làm cho giáo hội vốn đã ít nhân sự lại trở nên ít hơn; làm cho người có tâm huyết không có cơ hội phục vụ, và tệ hại hơn, óc bè phái chỉ có thể liên kết được các phần tử thiếu chuyên môn và do đó không đủ khả năng để làm việc phật sự, đưa giáo hội vào vực thẩm của cục bộ và lạc hậu.

Chính vì thế, PGVN nên noi theo mô hình tăng đoàn thời đức Phật, không phân chia giai cấp và vị trí xã hội của các thành viên. Giá trị đạo đức của các cá nhân tùy thuộc hầu hết vào đời sống đạo đức và trí tuệ của từng thành viên đó, bất luận họ thuộc tổ chức hay giáo hội Phật giáo nào. Chỉ khi nào ý thức phân chia vùng miền, hệ phái được nhổ sạch tận gốc rễ khỏi mảnh đất PGVN thì con đường Phật sự của PGVN mới thật sự nở hoa trí tuệ và trổ quả an vui cho con người và đất nước VN.

3. Ấn định số nhiệm kỳ lãnh đạo các ban ngành giáo hội

Cho đến ngày hôm nay, có nhiều vị tôn túc đã liên tục "tái nhiệm" vai trò lãnh đạo các ban ngành giáo hội, mặc dù các ngài đã quá "cao niên" không còn đủ sức khỏe để đảm trách các Phật sự đó một cách hiệu quả. Chính vì tình trạng này, các ban ngành của giáo hội trở nên thiếu sáng tạo và vắng mặt hẳn các đóng góp có ý nghĩa Phật sự cao. Hầu như các ban ngành chỉ lập đi lập lại các công việc của nhiều năm trước mà không hề có các hoạt động hay phương hướng Phật sự mới mẻ nào.

Do vậy, giáo hội nên qui định hẳn hòi số nhiệm kỳ tối đa và thể thức bầu chọn các vị tôn túc lãnh đạo Hội đồng trị sự toàn quốc và Ban trị sự các tỉnh thành, đặc biệt là Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam và các Học viện Phật giáo Việt Nam. Mỗi vị tôn túc lãnh đạo các ban ngành giáo hội tối đa là 3 nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ 4 năm. Nghĩa là các vị tôn túc chỉ được tái nhiệm tối đa là 2 lần, nếu các ngài có nhiều đóng góp to lớn cho lãnh vực phụ trách.

Đành rằng PGVN nghèo nhân sự nhưng không phải nghèo nhân sự đến nỗi không có ai có thể thay thế các chức vụ trên một cách có hiệu quả, để làm cho bộ máy giáo hội cũng như sự nghiệp nghiên cứu, giáo dục Phật giáo được mới mẻ hơn, tầm vóc hơn và hiệu quả hơn. Việc tổ chức bầu chọn một cách dân chủ các nhân sự lãnh đạo mới vào các ban ngành giáo hội, sau mỗi nhiệm kỳ ấn định, sẽ giúp cho giáo hội tránh được óc địa phương, bè phái và tình trạng dậm chân tại chỗ, do hệ quả của sự tập quyền về một nhóm.

4. Trẻ hóa thành phần lãnh đạo các ban ngành giáo hội

Giáo hội nên trẻ hóa thành phần lãnh đạo các ban ngành của giáo hội và Hội Động Trị Sự, bằng cách quân bình tỷ số lứa tuổi trong các thành phần. Thành phần 25 đến 40 tuổi chiếm tối thiểu 30% trong bộ máy hành chánh giáo hội; thành phần 41 đến 50 tuổi chiếm 30%; thành phần 51 đến 60 tuổi chiếm 25% và thành phần sau 61 tuổi chỉ chiếm 15%. Nghĩa là lớp trẻ từ 25 đến 50 tuổi nên chiếm ít nhất 60% trên tổng số các vị lãnh đạo hành chánh giáo hội, và chư tôn túc sau 61 tuổi chiếm tối đa là 40%. Giáo hội nên qui định tuổi hưu trí cho các vị tôn túc lãnh đạo các ban ngành của giáo hội, để mở đường cho lớp trẻ có tâm đạo, khả năng và nhiệt huyết, góp phần phục vụ và đưa giáo hội đi lên.

5. Đào tạo nghiệp vụ chuyên môn

Giáo hội nên bầu chọn và giao trọng trách cho những vị lãnh đạo các ban ngành giáo hội có trình độ nghiệp vụ chuyên môn. Nếu các vị được bầu chọn thiếu trình độ nghiệp vụ chuyên môn thì giáo hội phải tổ chức các khóa huấn luyện cấp tốc và dài hạn cho các vị lãnh đạo đó.

Sự bầu chọn người thiếu trình độ chuyên môn vào các ban ngành cũng như không có chương trình đạo tạo nghiệp vụ giáo hội, chắc chắn, sẽ làm giảm đi tính hiệu quả của các công việc phật sự, như chúng ta đã chứng kiến trong nhiều năm qua. Không thể chấp nhận tình trạng, chẳng hạn, các thành viên trong ban từ thiện xã hội lại không có kiến thức, không được đào tạo từ các trường lớp "Công tác xã hội" (Social work) hay bộ môn xã hội học, song song với tinh thần nhập thế của hạnh Bồ-tát. Tương tự, các thành viên trong ban giáo dục phải có trình độ chuyên môn về giáo dục học; ban tăng sự phải có trình độ về quản trị, v.v. . .

6. Xóa bỏ hệ thống "kiêm nhiệm"

Giáo hội nên hạn chế một cách tối đa tình trạng "kiêm nhiệm nhiều chức" như trong các nhiệm kỳ qua cũng như hiện nay. Sự kiêm nhiệm nhiều chức chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng thiếu sáng tạo, kém hiệu quả và ứ đọng trong công việc phật sự. Mỗi vị nên đảm trách tối đa hai chức vụ (được hiểu như một trọng trách phật sự) để nhường chỗ cho các vị khác có khả năng và tâm đạo có cơ hội phục vụ. Sự kiêm nhiệm một chức sắc thứ hai không nên áp dụng cho chư tôn túc sau 70 tuổi. Giáo hội nên hạn chế một cách tối đa, và tốt nhất, nên xóa bỏ tình trạngquot;chéo cẳng ngổng" một cách nghịch lý trong sự phân bổ các nhân sự lãnh đạo các ban ngành giáo hội. Không thể chấp nhận tình trạng vị Trưởng ban Giáo Dục Trung Ương lại kiêm chức Hiệu trưởng hay Hiệu phó Học Viện PGVN, hay Hiệu trưởng trường Cơ Bản PH. Sự nghịch lý này trở nên rõ nét hơn nếu ta so sánh với vị Bộ trưởng Bộ Giáo Dục của một quốc gia lại kiêm nhiệm chức Hiệu truởng, Hiêu phó của một trường đại học / cao đẳng sư phạm, hay trung học! Tương tự, không thể chấp nhận tình trạng các vị giới chức trong Học Viện Phật Giáo tại Hồ Chí Minh cũng lại là các vị giới chức trong Học Viện Phật Giáo tại Huế v.v. . . Sự trùng lấp một cách nghịch lý này hiển nhiên không phải là hệ quả của sự thiếu nhân sự, mà thật chất là hệ quả của sự phân bổ nhân sự không hợp lý.

7. Mở rộng mạng lưới hoằng pháp

Ngoài việc tăng cường các trung tâm giảng dạy Phật pháp và chuyên tu, giáo hội nên mở rộng sự nghiệp hoằng pháp qua các mạng internet, để làm cho thông điệp của đức Phật thật sự siêu việt thời gian và không gian. Hội đồng trị sự trung ương và các ban ngành của giáo hội nên có các trang nhà riêng biệt, bằng hai thứ tiếng Việt và Anh. Nghĩa là, chúng ta nên có một trang nhà riêng cho PGVN, nhằm giới thiệu:

(i) tổng quát về lịch sử Phật giáo và căn bản Phật pháp
(ii) lịch sử PGVN, các tông phái và pháp môn của PGVN xưa và hiện nay
(iii) các di tích văn hóa của Phật giáo trên thế giới
(iv) các danh lam sơn thắng của PGVN
(v) các hoạt động phật sự của PGVN
(vi) các trước tác Phật học dưới nhiều hình thức (sách, bài chuyên khảo, thơ, nhạc, kịch, họa, điêu khắc, kiến trúc v.v…)
(vii) phát thanh băng giảng giáo lý của chư tôn đức giáo phẩm PGVN
(viii) các trang nhà liên hệ (links) với các ban ngành của giáo hội cũng như các trang nhà khác của Phật giáo trong và ngoài nước.

Mỗi ban ngành của giáo hội cũng nên có trang nhà riêng, giới thiệu về tông chỉ, phương huớng, chương trình và các hoạt động của ban ngành mình. Cũng giống như trang nhà của PGVN, các trang nhà của các ban ngành cũng phải có địa chỉ của các trang nhà Phật giáo khác, trong và ngoài nước.

Điểm cần lưu ý là các mạng Phật pháp của các ban ngành giáo hội cũng như của các hội đoàn, cá nhân Phật giáo nên phổ biến các phương pháp tu tập và hành trì lời Phật dạy theo tinh thần tôn trọng các pháp môn khác; không nên chỉ trích cá nhân do bất đồng về tư tưởng và phương hướng hành trì trong nội bộ Phật giáo. Thay vào đó, các mạng Phật pháp nên là nơi liên kết các tổ chức, đoàn thể Phật giáo trên khắp thế giới; là nhịp cầu thông cảm và chia xẻ kinh nghiệm tu học của tăng ni Phật tử khắp nơi; là món ăn tinh thần không thể thiếu trên siêu xa lộ thông tin.

8. Tiếp nhận và phân bổ hợp lý

Chỉ trong vòng 5 năm tới, PGVN sẽ có trên 200 vị tăng ni trẻ có học vị tiến sĩ, thạc sĩ và phó tiến sĩ Phật học từ nhiều nước trở về. Giáo hội nên đón nhận và phân bổ họ vào các ban ngành thích hợp với sở trường của họ, từ cấp toàn quốc cho đến các tỉnh thành. Ngoài ra, một điều đáng mừng khác nữa là có trên 100 tăng ni đã đi chuyên tu tại các trung tâm tu tập của Phật giáo Tây Tạng, Miến Điện, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan và Ấn Độ v.v… Dòng chất xám của quý tăng ni có học vị sẽ là nguồn nhân lực to lớn của giáo hội trong sự nghiệp hoằng pháp và truyền bá văn hóa Phật giáo trong tương lai. Trong khi dòng chất xám của quý tăng ni chuyên tu sẽ trở thành nguồn tiềm năng "Thánh hóa" và trong sáng hóa các hoạt động Phật sự của PGVN. Hai nguồn tiềm năng này sẽ bổ sung cho nhau, trong sự nghiệp chấn hưng Phật giáo VN, đem lại nguồn sống đạo thực sự cho con người VN.

9. Việt hóa nghi thức tụng niệm

Việt hóa nghi thức tụng niệm không chỉ là niềm mơ ước của tăng ni Phật tử mà còn là nhu cầu không thể thiếu như cây cỏ cần ánh sáng và con người cần không khí để thở. Hiện nay, hệ phái Khất Sĩ có 2 nghi thức tụng niệm bằng tiếng Việt, một bản lưu hành bên Ni giới và bản lưu hành bên chư Tăng. PG Nam Tông VN cũng đã có nghi thức tụng niệm Pali-Việt. Nghi thức tụng niệm của phái Khất Sĩ là nghi thức duy nhất bằng tiếng Việt được biên soạn theo thể thơ lục bát và song thất lục bát. Nghi thức của PG Nam tông còn nặng về chữ Pali, mặc dù có bản tiếng Việt đối chiếu. Tuy nhiên cả hai nghi thức này bị giới hạn trong một số bài kinh và bài tụng ít ỏi, thiếu vắng các kinh điển quan trọng và căn bản của đức Phật.

Trong khi đó, PG Bắc tông VN có quá nhiều quyển nghi thức tụng niệm thuần Việt do các chùa và các cá nhân biên soạn, không theo một tiêu chuẩn nào cả. Còn quyển nghi thức tụng niệm của GHPGVN thì hoàn toàn xa lạ với văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Nghi thức này, ngoài việc tụng đọc các kinh điển bằng âm Hán Việt, còn là nghi thức hoàn toàn lệ thuộc vào nghi thức của Trung Quốc. Nghi thức tụng niệm của GHPGVN hiện nay thực chất là bản sao của Nghi thức tụng niệm của GHPGVNTN, được biên soạn cách đây trên 30 năm. Văn phong của nghi thức hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ Việt Nam, và do đó, sẽ gây không ít khó khăn cho người Phật tử trong khi đọc tụng, nếu không muốn nói là không có ích lợi gì về phương diện "hiểu để hành trì" lời Phật dạy.

Người viết rất mong giáo hội nên thỉnh cầu các vị cao tăng và các trí thức Phật giáo sớm soạn thảo một nghi thức tụng niệm thuần Việt tiêu chuẩn, chứa đựng các bài kinh quan trọng của hai truyền thống PG Nam tông và Bắc tông. Nghi thức thuần Việt này một mặt nhằm tách khỏi sự nô lệ văn tự Trung Quốc và Pali, mặt khác giới thiệu sắc thái độc lập và riêng biệt của PGVN trong phương pháp tu tập và hành trì lời Phật dạy. Được như vậy, người Phật tử Việt Nam có thể đọc tụng kinh điển bằng tiếng mẹ đẻ, dễ dàng hiểu rõ lời Phật dạy (văn), tư duy lời vàng ngọc của đức Phật (tư), để ứng dụng lời vàng đó (tu) trong cuộc sống hằng ngày. Có như thế thì sự đọc tụng kinh điển của người Phật tử Việt Nam mới thật sự có lợi ích (đọc kinh giả minh Phật chi lý).

10. Tương tác với các tôn giáo và các trào lưu tư tưởng

Giáo hội nên có một ban ngành hay một phân ban chuyên nghiên cứu về các tôn giáo bạn cũng như các trào lưu tư tưởng triết học trên thế giới. Các tôn giáo lớn mà ban ngành hay phân ban này cần nghiên cứu là Ky-tô giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo, Khổng giáo và Ấn giáo v.v… Các trào lưu tư tưởng bao gồm triết học hiện sinh, triết học Krishnamurti, triết học Osho v.v… Ngoài ra, cũng nên nghiên cứu các đạo giáo và tín ngưỡng Việt Nam như Cao Đài, Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương và các tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Sự nghiên cứu về tôn giáo và trào lưu tư tưởng nên bao gồm các khảo cứu về nguồn gốc ra đời, các hình thái phát triển, các văn bản kinh điển và các sáng tác nói chung, các hình thái lễ hội văn hóa và sự hội nhập của chúng trong từng bối cảnh lịch sử và địa dư khác nhau.

Sự nghiên cứu này một mặt tiếp thu những cái hay của tôn giáo và trào lưu tư tưởng khác để áp dụng và phát huy trong phương tiện hành đạo của đạo Phật, mặt khác vạch ra những điểm tương đồng và dị biệt giữa đạo Phật với các tôn giáo và triết học, và quan trọng hơn là, cho thấy được sự siêu việt của đạo Phật so với các tôn giáo và triết học trên thế giới.

Ngoài ra, ban ngành này còn làm nhiệm vụ giải hoặc các sáng tác văn học và nghệ thuật của những người khác đạo hoặc không có đạo, khi họ vu khống, xuyên tạc đức Phật và đạo Phật dưới nhiều hình thức khác nhau. Công việc giải hoặc này nên được phổ biến rộng rãi dưới nhiều hình thức khác nhau của các phương tiện truyền thông đại chúng, để giúp cho người Phật tử và người khác đạo tránh được các ngộ nhận đáng tiếc có thể xảy ra.

11. Mở rộng các trung tâm tu học

Một trong những điểm quan trọng bậc nhất mà PGVN nên làm trong tương lai là giáo hội nên tạo điều kiện mở các trung tâm tu học khắp nơi trong nước và ngoài nước.

Đối với trong nước, giáo hội nên mở các khóa tu Thiền và Tịnh Độ trong thời gian 7 ngày (thiền thất, Phật thất). Các khóa tu này có thể được tổ chức ở các nơi riêng biệt yên tĩnh, nhưng cũng có thể tổ chức tập trung ở những địa điểm thích hợp. Các khóa tu ngắn hạn này sẽ là nơi trao đổi và học hỏi kinh nghiệm tu tập của người con Phật khắp nơi. Giáo hội cũng nên mời các vị thiền sư, pháp sư nổi tiếng trong nước và khắp thế giới về hướng dẫn các khóa tu, để tăng trưởng đạo tâm và trình độ tu tập của người con Phật. Ngoài ra, giáo hội cũng nên có kế hoạch và chính sách hẳn hòi, đưa ban hoằng pháp vào các vùng sâu và vùng xa của đất nước, những nơi mà Phật giáo chưa được biết đến.

Đối với nước ngoài, giáo hội nên có chương trình đào tạo các vị pháp sư tinh thông kinh điển, thế học và ngoại ngữ (Anh, Hoa và Pháp) gởi ra nước ngoài để truyền bá Phật Pháp như các nước Phật giáo Thái Lan, Tích Lan, Miến Điện, Đài Loan đã làm. Để làm được viêc này, giáo hội nên mở các tu viện, thiền viện ở nước ngoài để công việc truyền bá và tu học được dễ dàng hơn. Ngoài ra, giáo hội cũng nên có các tạp chí Phật học hay nhà xuất bản Phật giáo bằng 2 thứ tiếng quốc tế là Anh và Pháp để truyền bá thông điệp của đức Phật đến giới độc giả phương Tây. Các xuất bản này tốt nhất là phát hành theo dạng ấn tống, hay ít nhất là các ấn bản giá rẽ, không vụ lợi để truyền bá Phật pháp. Các trung tâm tu học như vậy chắc chắn không chỉ xác định vai trò nhập thế của Phật giáo VN mà còn là nguồn truyền bá Phật pháp trong tinh thần bao dung, hòa hợp và hiệu quả.

-oOo-

Người viết tin chắc rằng, với sự thay đổi thiết chế giáo hội theo các điểm căn bản trên, PGVN sẽ là một trong những nguồn năng lực quan trọng trong sự nghiệp hoằng truyền thông điệp từ bi và trí huệ của đức Phật một cách vững mạnh, hiệu quả và đáp ứng được nhu cầu mong đợi của con người VN nói riêng, con người nói chung, trong thiên niên kỷ mới.

Tháng 12-1999, bổ sung tháng 6-2000

http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/009-tnt-thietche.htm

 


Cập nhật: 1-7-2000

Trở về mục "Diễn đàn"

Đầu trang