Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Tham luận của Hội Phật Tử Việt Nam Tại Pháp
trong Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc GHPGVN lần thứ IV

Nam Mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính bạch chư Tôn Đức Trưởng Lão Hòa thượng trong Hội đồng chứng minh và Hội đồng Trị sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Kinh thưa Đoàn Chủ tịch,

Kính thưa Quí vị Đại biểu,

Chúng tôi là những Phật tử từ xa trở về, từ một ngôi chùa cách đây hàng vạn dặm, tận mãi xứ trời Tây. Ngôi chùa này một số quí vị hiện diện ở đây cũng đã biết tới, chùa mang tên là Trúc Lâm Thiền Viện, cách thành phố Paris hai mươi cây số về phía nam, nhưng là một ngôi chùa Việt Nam, Việt Nam trong nhiều nghĩa:

Trúc Lâm Thiền Viện do người Việt xây, do kiến trúc sư Việt vẽ, tượng Phật do thợ Việt làm, lại mang nặng nghĩa tình với nhiều chùa trong nước, vì các pho tượng Phật, tượng Bồ Tát, La Hán cùng các pháp khí như câu đối, hoành phi, đại hồng chung, khánh, trống... đã được các tổ đình, các tự viện như Trường Tín, Quảng Bá, Châu Long, Báo Quốc, Vĩnh Nghiêm Sài gòn, Thiên Thai-Bà rịa... gửi tặng, lúc mới khởi công.

Trúc Lâm cũng là tên của nhiều thiền viện tại Việt Nam ngày nay. Đây không phải là một ngẫu nhiên, vì tất cả cùng nguồn gốc; vì Trúc Lâm trước hết là nơi xây dựng Tinh xá đầu tiên của đức Phật cùng Tăng chúng, nơi đức Phật giảng nhiều bài pháp quan trọng; vì Trúc Lâm cũng là tên của một dòng thiền Việt Nam nổi tiếng ngày xưa.

Trong ý nghĩa đó, Trúc Lâm Thiền Viện, dù chẳng thể so sánh với các ngôi chùa cổ trong nước, vẫn mang nặng tâm tình của những người Phật tử tha hương nhưng lòng lúc nào cũng hướng về quê cha đất tổ, gắn bó tình cảm mình với tình cảm của dân tộc, giềng mối đạo mình với giềng mối đạo của đất nước Việt Nam.

Phương châm của người Phật tử Trúc Lâm từ hơn ba mươi năm qua, là " Thể Hiện Đạo Pháp, Hướng Về Dân Tộc ". Nó được thể hiện trong phong cách hành trì chính pháp, trong chương trình giảng dạy, nghi lễ, trong các hoạt động tương trợ từ thiện, các sinh hoạt như báo chí, hội thảo về các vấn đề Phật Giáo và thời đại v.v... và có thể cô đọng trong những tiêu điểm sau đây:

1- Thể hiện một đạo Phật Việt Nam trong sáng

2. Vận dụng giáo lý Phật để tìm câu trả lời cho các vấn đề lớn của thời đại.

-oOo-

1- Thể hiện một đạo Phật Việt Nam trong sáng

Trong phần này chúng tôi triển khai ba điểm :

Trước hết, vì sao hành trì theo truyền thống đạo Phật Việt Nam. Sau đó, thế nào là một đạo Phật Việt Nam trong sáng. Cuối cùng là "vấn đề tụng kinh bằng chữ Việt".

a-Hành trì theo truyền thống đạo Phật Việt Nam

Trong vài thập niên vừa qua, Phật giáo phát triển mạnh ở Tây phương.

Theo thống kê mới nhất, có 2 triệu người Pháp có cảm tình nhiều với đạo Phật, vài chục ngàn người tự nhận là Phật Tử, hầu hết chịu ảnh hưởng truyền thống Nhật bản, Tây tạng. Tại Pháp có hàng trăm ngôi chùa, chùa Nhật Bản, chùa Tây tạng, chùa Trung Quốc, chùa Pháp v.v...

Vậy tại sao phải xây chùa Việt Nam, hành trì theo truyền thống nghi lễ của đạo Phật Việt Nam? Có hai lý do:

Lý do thứ nhất, đối với chính mình, những người Việt sống ở nước ngoài, chúng tôi muốn quay về nguồn gốc để tìm lại quân bình trong đời sống.

Sống nơi xứ người thì bắt buộc phải hội nhập vào xã hội người, đó là điều kiện sống còn, không tránh khỏi. Nhưng dù có "hòa mà không đồng", làm sao quên được nơi chôn nhau cắt rốn, làm sao quên được những hình ảnh âm thanh thân thương của quê hương và gia đình. Cùng vang vọng trong một kỷ niệm ấy có những tiếng chuông chùa lắng quyện trong nếp sống tâm linh.

Những người Phật tử Việt Nam, tại Pháp cũng như tại các nước Âu Mỹ khác, đã tụ họp trong tình quê lẽ đạo, dưới mái chùa Việt Nam, và hành trì một đạo Phật với bản sắc Việt Nam, một đạo lý đã hòa nhập trong nền văn hóa dân tộc Việt từ hơn 18 Thế kỷ qua.

- Lý do Thứ hai, đối với con em, những thế hệ hai, thế hệ ba sinh trưởng tại đất Pháp, sớm chiều sống chung với bạn Pháp, nói tiếng Pháp giỏi hơn tiếng Việt, thậm chí nhiều khi còn không nói được tiếng Việt, vấn đề đặt ra là làm sao cho chúng không quên nguồn gốc, tổ tiên. Mái chùa truyền thống, lời kinh tiếng kệ, tạo cho tâm thức chúng quen với những hình ảnh của quê cha đất mẹ, tiếng nói của tổ tông, văn hóa đạo đức của dân tộc.

b-Thể hiện một đạo Phật Việt Nam trong sáng

Trở về cội nguồn, nhưng phải chăng là cứ tiếp thu tất cả? Đạo Phật Việt Nam, theo dòng thăng trầm của dân tộc, không hẳn lúc nào cũng sáng chói, truyền thống không hẳn lúc nào cũng tinh thuần, do đó sự trở về cũng có gạn lọc, nhất là Đức Phật đã dạy ta trong kinh Kalama, "không phải cứ truyền thống là phải tuân theo".

Đạo Phật đã lâu đời hội nhập vào văn hóa Việt, đã có thời kỳ là sức mạnh trí tuệ, là sức mạnh tinh thần nung đúc lòng kiên cường của dân tộc. Nhưng đến thời Pháp thuộc thì đạo đã bị quá nhiều tệ đoan xâm nhập, tạo một màn u minh dày đặc che lấp ngọn đuốc của Như Lai. Vào những năm 30-40, một trong những mục tiêu chính của Phong trào Chấn Hưng Phật Giáo là bài trừ mê tín dị đoan, gần đây qua sách báo, chúng tôi biết vấn đề này vốn là mối quan tâm lớn của Giáo Hội.

Tiếp nối đường hướng của Phong trào Chấn Hưng, noi gương Giáo Hội trong nước, người Phật tử Trúc Lâm cố gắng thể hiện một đạo Phật trong sáng, không mê tín dị đoan.

Tại Trúc Lâm Thiền Viện, không có đồng bóng, không cúng sao giải hạn, không đốt vàng mã, không xin xâm xin quẻ, không phổ biến loại lịch có ngày tốt ngày xấu v.v...

c-Tụng niệm bằng chữ Việt

Trở về cội nguồn, cũng là để giữ mình còn là người Việt Nam. Mà người Việt Nam thì nói tiếng Việt Nam, chuyện này quá hiển nhiên.

Nói năng sinh hoạt thì như thế, nhưng còn khi tụng niệm thì sao? Nhìn quanh, người Trung Quốc họ tụng niệm bằng tiếng Trung Quốc, người Pháp họ tụng niệm bằng tiếng Pháp, còn mình? Có nên tụng niệm bằng tiếng Việt không?

Tiếng Việt Nam, tiếng nước tôi, tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi, tiếng mẹ cha khuyên nhủ dắt dìu ta từ tấm bé cho đến lúc nên người, đó cũng là tiếng hò dựng nước của ông bà tổ tiên, hay tiếng hát đối đáp của dân quê trong mùa cấy gặt, trong hội hè đình đám. Vậy mà những lúc linh thiêng nhất, khi đem cả tấm lòng thành kính cúng dường ba ngôi báu, ta không thể dùng thứ tiếng nói đó được sao?

Về tình là như vậy, còn về lý, mục đích của việc tụng niệm là để hiểu lời Phật dạy và phát biểu một cách chân thành những ý nguyện cao đẹp của mình, cao xa hơn là để giao cảm với các bậc giác ngộ. Do đó, ta nên tụng niệm bằng chữ Việt để khi tụng ta hiểu được ngay những lời hay ý đẹp của kinh. Như vậy, sự "xông ướp" tâm linh mới có nhiều kết quả tốt đẹp.

Chính vì vậy mà Nghi thức tụng niệm của Trúc Lâm Thiền Viện hoàn toàn bằng chữ Việt.

Thưa quí vị,

Từ hơn ba mươi năm qua, người Phật tử Trúc Lâm tụng niệm hoàn toàn bằng chữ Việt, bằng tiếng nước ta, với những buổi lễ có khi lên đến hàng bẩy tám trăm người, hay những buổi cầu siêu, cầu an, trong gia đình, nơi nghĩa trang... Trong những buổi lễ này, các cụ già quen nghi lễ truyền thống cũng không bỡ ngỡ, các thanh thiếu niên tâm tình vốn gắn bó nhiều với lối suy nghĩ phương Tây cũng không thấy lạ tai...

Nghi thức của Trúc Lâm được soạn dịch như hiện nay nhằm những đặc điểm: ngắn gọn, dễ hiểu và thực tiễn, đáp ứng đúng nhu cầu sinh hoạt và trình độ của việt kiều phật tử. Nghi thức này, xét ra cho cùng, chỉ là sự tiếp nối con đường đã được vạch ra từ lâu ở trong nước.

Ngoài bản Tâm Kinh Đại Trí Tuệ Siêu Việt (Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh) được dịch hoàn toàn ra chữ Việt và các bản kinh dịch từ Pali, như kinh Từ bi, Kinh Chơn Hạnh Phúc,... còn có rất nhiều bài tán tụng quen thuộc bằng chữ Việt, được trích ra từ các tập nghi thức thông dụng ở Việt Nam, như: "Cúng Hương Tán Phật", "Kỳ Nguyện", "Sám Hối Phát Nguyện", "Niệm Phật", "Tự Quy", "Hồi Hướng"...

Dĩ nhiên lúc khởi đầu, tụng kinh hoàn toàn bằng chữ Việt không tránh khỏi bỡ ngỡ, nhưng chỉ qua một thời gian rất ngắn, với sự hướng dẫn của tăng ni, Phật tử đã hoan hỉ tiếp nhận và công nhận sự tiện dụng của tiếng Việt .

Thưa quí vị,

Năm 1990, Hội đồng Chứng minh và Hội đồng chỉ đạo Phiên dịch và Ấn Hành Đại Tạng Việt Nam ra đời, khởi đầu công tác thực hiện một Đại Tạng Việt Nam. Đây đã là một bước tiến dài cho việc tìm học kinh Phật trên đất nước ta.

Chúng tôi tin rằng việc tụng niệm bằng tiếng Việt sẽ là một bước tiến dài cho việc hành trì Chính Pháp.

2-Vận dụng Giáo lý Phật để tìm câu trả lời cho các vấn đề lớn của thời đại

Trong vòng vài chục năm gần đây, các luồng tư tưởng nẩy sinh với "xã hội tiêu thụ" đã làm lung lay đến tận gốc rễ các nền văn hóa truyền thống phương Tây. Mất định hướng, nhiều thanh thiếu niên rơi vào cái bẫy của ma túy, của đời sống thụ hưởng, phóng dục tối đa, hay ngả theo những tà phái (secte) điên cuồng.

Từ các nước phương Tây hiện tượng này đã mau chóng lan ra mọi nơi.

Cơn nước lũ "toàn cầu hóa" hiện tại không phải chỉ truyền bá đi những tiến hóa kỹ thuật, những tư tưởng khai sáng mà còn cuốn theo mọi tệ đoan xã hội, mọi tư tưởng điên rồ. Những vấn đề của người, trong một thời gian rất ngắn rất có thể là vấn đề của chính ta.

Cùng lúc đó, tiến triển của khoa học kỹ thuật mỗi ngày một đi nhanh, nhất là những tiến triển về sinh học, và y học từ 50 năm nay, đã đặt ra nhiều vấn đề mới cho xã hội, cho loài người. Tại Pháp, năm 1983, nhà nước đã phải thành lập một "Ủy ban tư vấn quốc gia về đạo đức sinh học và y học" nhằm cố vấn các cơ quan chức trách trong những đạo luật liên quan đến những vấn đề đạo đức sinh học như: trợ tử, trao tặng và lắp ghép các bộ phận lên con người, nghiên cứu và thí nghiệm di truyền, thụ thai nhân tạo, thụ thai trong ống nghiệm và chuyển phôi, thí nghiệm trên con người và động vật v.v...

Những " Ủy ban tư vấn quốc gia về đạo đức sinh học và y học" cũng được thành lập tại các nước Đan Mạch, Úc, Thụy Điển, Ý, Gia Nã Đại v.v...

Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác như Ô nhiễm môi trường, Nghèo đói, Si đa, Kỳ thị chủng tộc, Kỳ thị giới tính v.v...

Trong những điều kiện đó, người Phật tử cần phải có thái độ đúng đắn về những vấn đề được đặt ra.

Những thái độ này chỉ có thể có qua những cuộc trao đổi tư tưởng, dưới mọi hình thức như báo chí, hội thảo, v.v... giữa những người Phật tử, trong cũng như ngoài nước, trong tinh thần phá chấp, không tiên kiến, không e ngại, trong tinh thần của đạo lý Giác ngộ.

Đã ba năm nay, Trúc Lâm Thiền Viện tổ chức mỗi năm một buổi hội thảo về các vấn đề lớn, các thao thức của thời đại, với sự tham gia của các Phật tử, Giáo sư, học giả tại Pháp và Châu Âu, có sự hiện diện của các vị thành viên trong Giáo Hội từ trong nước sang tham dự.

---

Kính bạch chư Tôn Đức Trường Lão Hòa thượng trong Hội đồng chứng minh và Hội đồng Trị sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Kinh thưa Đoàn Chủ tịch,

Kính thưa Quí vị Đại biểu,

Để chấm dứt bài phát biểu, chúng tôi xin phép nêu lên sáu điểm sau đây trong chương trình tốt đạo đẹp đời của giáo hội:

1- Xúc tiến soạn thảo một nghi lễ chung cho sự tu trì hằng ngày của Phật tử toàn quốc và hoàn toàn Việt hóa nghi lễ tụng niệm.

2- Xây dựng chùa "xanh", bảo vệ thiền cảnh thiền lâm, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái của cuộc sống.

3-Nhanh chóng hoàn thành và phổ biến rộng rãi Đại tạng Kinh Việt Nam nhất là cho Phật tử Việt kiều.

4-Phát huy thiền định, giữ gìn thiền phong Việt Nam trong nếp sống tăng ni.

5- Khuyến khích truyền thọ bốn phần dự lưu cho Phật tử tại gia, tăng cường giáo dục thanh thiếu đồng niên.

6- Xem nặng vấn đề giao lưu văn hóa Phật Giáo Việt Nam và các nước phương Tây mà phương tiện thuận lợi nhất là những cộng đồng người Việt sống ở nước ngoài.

Xin kính chúc Quí vị pháp thể thường an, chúng sinh dị độ, và đại hội thành công.

Nam Mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

http://www.buddhismtoday.com/viet/dien/004-thamluan.htm


Chân thành cảm ơn cư sĩ Lại Như Bằng đã gởi tặng phiên bản điện tử của bài viết này. ĐPNN, 25-6-2000

 


Cập nhật: 1-7-2000

Trở về mục "Diễn đàn"

Đầu trang