Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .
Câu chuyện về hai vị thiền sư
Như Nguyện

 

Có một vị thiền sư trú trong túp lều tranh ở trên núi, một buổi tối khi đi thiền hành trở về, nhìn thấy một tên trộm chiếu cố túp lều tranh của mình nhưng tìm không được vật gì cả. Ngài bèn cởi chiếc áo ngoài đang mặc trên người đứng ngoài cửa đợi tên trộm ra, vì ngài sợ làm kinh động tên trộm.

 Tên trộm vừa quay ra thì gặp thiền sư, trong lúc tên trộm hốt hoảng vị thiền sư liền nói: “Anh bạn! đường sá xa xôi vất vả lên núi thăm tôi, tôi không đành lòng để anh về không, đêm khuya rồi, khoác chiếc áo này lên mà về cho đở lạnh. Nói xong ngài cầm chiếc áo khoác lên thân tên trộm.Tên trộm xấu hổ, cúi đầu rồi chạy thẳng xuống núi không dám nhìn lại.

Thiền sư nhìn dáng tên trộm khuất dần trong núi rừng mờ mịt, không ngừng thương cảm nói: “ rất đáng thương, tôi muốn tặng cho anh cả vầng trăng để chiếu sáng con đường cho anh xuống núi.

Hôm sau, khi thiền sư đang mở to đôi mắt nhìn ánh bình minh xuất hiện, thì nhìn thấy chiếc áo mà ngài khoác lên thân tên trộm hôm qua đó, xếp rất ngay ngắn đặt trước cổng, thiền sư vui vẽ nói : “ cuối cùng thì ta cũng đã tặng anh ta cả vầng trăng sáng rồi”.

Lại có câu chuyện khác cũng tương tự, Trong thiền viện của thiền sư Tiên Nhai, có một vị học tăng rất ham chơi, vị này không chịu nỗi cái cảnh vắng lặng yên bình của chốn thiền môn. Thường vào những buổi tối vị tăng sinh này ra vách tường sau chùa đặt một cái ghế để leo qua tường ra bên ngoài chơi.

Sau khi thiền sư biết được, ngài không nói với ai. Một lần ,vị học tăng trèo tường trốn đi chơi, ngài đi theo phía sau và mang chiếc ghế để qua một bên rồi ngồi vào chổ đó đợi vị học tăng trở về. Đêm khuya vắng vẽ, vị học tăng trở về, không biết chiếc ghế đã di chuyển nên leo qua vách tường và nhảy lên ngay chổ đó để vào chùa nhưng khi vừa đặt chân xuống thì cảm thấy chiếc ghế dưới chân mình sao mềm mại là lạ, cuối xuống nhìn ,thì hoá ra mình đang đứng trên vai vị thiền sư. Lập tức vị học tăng hồn bay phách tán quỳ xuống nói không ra lời. Thiền sư liền đở vị học tăng đứng lên nhẹ nhàng nói : “đêm khuya sương nhiều, cẩn thận chứ ướt lạnh hãy nhanh vào phòng nghỉ ngơi.

Sau khi về phòng vị tăng sinh cứ phập phồng lo sợ không yên, trắng đêm không ngủ, lo sợ thiền sư sẽ trách phạt mình trước mặt đại chúng. Nhưng sự việc thì ngược lại, cứ ngày ngày trôi qua, thiền sư không nhắc đến chuyện, cũng không nói cho ai biết.Vị tăng trẻ tự sâu xa trong lòng cảm thấy rất hổ thẹn, từ đó về sau không dám trốn ra ngoài chơi mà quyết chí tu học , cuối cùng trở thành một vị tăng nỗi tiếng đương thời.

Nếu bạn là thiền sư bạn sẽ xử lý thế nào với hai sự việc như thế? Tôi nghĩ, trong câu chuyện thứ nhất. Những người bình thường thì sẽ cùng tên trộm vật lộn hoặc sẽ la lớn lên “Trộm,trộm…”. Câu chuyện thứ hai, đối những với người bình thường thì sẽ nói lỗi vị học tăng trước mặt mọi người sau đó sẽ có hình thức trách mắng quở phạt riêng cho vị ấy.

Nếu làm như vậy kết quả sẽ như thế nào nhỉ? Tôi nghĩ có thể sãy ra hậu quả thế này, câu chuyện thứ nhất :Tên trộm sẽ đánh bị thương hoặc giết chết vị thiền sư hoặc có thể vị thiền sư đánh tên trộm bị thương và tên trộm sẽ trở lại trã thù thiền sư vào một ngày gần đó. Câu chuyện thứ hai, sau khi vị học tăng bị quở phạt, cảm thấy rất xấu hổ với bạn bè, trong lòng buồn phiền thối chí tu học cuối cùng trở thành con người bình thường, và có thể từ bỏ lối sống thiền môn.

Hai vị thiền sư này xử sự không giống những người bình thường chúng ta, mà lấy sự khoang dung đại trí đại bi để thay đổi một tên lãng tử thành vị danh tăng. Con người  không phải là thánh nhân nên tất nhiên có những sai trái, đối với những người phạm lỗi chúng ta nên có thái độ rộng lượng khoang dung. Im lặng mà hơn cả to tiếng trách móc đây là phương pháp giáo dục tốt nhất. Khoang dung là một phẩm chất đạo đức tốt, khoang hồng tha thứ lỗi cho người giống như ngọn gió mùa xuân mang mưa xuân đến thấm nhuần cây cỏ làm vạn vật thêm xanh tươi. Khoang dung còn hơn cả vàng, khoang dung là một phẩm chất không thể thiếu trong mỗi con người chúng ta.

Tác giả Văn Đan ,Như Nguyện dịch

Trạng thái bệnh của tâm lý

Tinh Vân đại sư ,Như Nguyện dịch

Mỗi con người chúng ta đều phải trãi qua những lúc bị bệnh, nếu thân bệnh thì đi bác sĩ. Tâm lý chúng ta cũng thường có bệnh như tham lam ,sân hận , đố kỵ…lúc tâm bệnh cũng phải dùng nhiều phương pháp để trị; thân dơ thì dùng nước để tẩy rữa, tâm dơ thì phải dùng nước tinh khiết của chân lý mà rữa.

  Tâm thường có bệnh gì ? và trạng thái tâm bệnh như thế nào?

Một là, trạng thái tâm lý hại mình hại người. Có một số người làm việc không suy nghĩ kỷ, không xác định được mục tiêu,việc làm có lợi không làm mà làm những vĩec có hại cho mình và người, người đó làm việc một cách hồ đồ không xét trước sau, kết quả là chẳng những có lợi ích mà còn tổn hại cho ta và người, tự mình cũng đánh mất đạo đức và phẩm chất trong sạch vốn có.

Hai là, trạng thái tin những việc xấu mà không tin việc tốt. Đó là việc tốt thì không được nhiều người biết, mà việc xấu thì truyền đi rất nhanh. Có những người chúng ta giới thiệu với họ những tấm gương tốt thì họ không tin và không chịu học hỏi, nhưng nếu chúng ta nói ai đó có những tật xấu như tham lam ,trôm cắp,… thì họ hoàn toàn tin tưởng cho là thật. Đó là trạng thái tâm bệnh tin xấu không tin tốt.

Ba là, trạng thái tâm bệnh không sợ nhân quả, có một số người lúc làm việc xấu mà trong lòng luôn cảm thấy hạnh phúc, nhưng khi hậu quả đến thì mới hối hận, hoang mang sợ hãi. Đó là trạng thái của tâm bệnh không sợ nhân quả.

Bốn là, trạng thái tâm bệnh tin giả không tin thật, những người bình thường rất thích nghe những lời nói ngọt ngào xảo trá, thậm chí tự khen những lời hoa ngôn mỹ ngữ của mình. Do vậy những lời chân thật về chân lý đạo đức có lợi không nghe mà thích nghe những lời ngon ngọt giả dối để rồi khi hậu quả đến thì buồn phiền thất vọng than trời trách đất.

Nếu như chúng ta không thay đổi những trạng thái tâm bệnh này thì cho dù là có rất nhiều thiện pháp tốt cũng không thể rót vào thân tâm chúng ta được, mà ngược lại trên thế gian này toàn là những tội ác, những buồn rầu lo lắng dai dẳng trong tâm và hình thành trạng thái tâm lý bệnh. Bởi vậy ,nên phải thường tự mình quán chiếu xem xét để biết bệnh của mình mà kịp thời tìm cách trị liệu.

 

Nước mắt Thiền Sư

Lâm Thanh Huyền ,Như Nguyện dịch

Có một người thanh niên sau khi xuất gia trở thành một vị cao tăng, sống và trù trì một tu viện cách rất xa gia đình. Rất nhiều người ngưỡng mộ danh đức của Ngài nên đến xuất gia làm đệ tử. Ngài luôn dạy các đệ tử nên đoạn trừ thế duyên cần cầu tự mình liễu ngộ chân lý ,tinh tấn khơi dậy trí tuệ, phá trừ ngã chấp, tự độ độ tha.Và ngài nhấn mạnh chỉ có đoạn trừ tình ái thế gian thì mới có khã năng đạt được giải thoát.

Một ngày nọ, từ nơi quê hương xa xôi của ngài truyền đến một tin đồn rằng: “đứa con duy nhất của thiền sư lúc chưa xuất gia đã lâm trọng bệnh qua đời. Các đệ tử của ngài sau khi nhận được tin này cùng nhau tụ tập lại luận bàn, họ đưa ra hai vấn đề như sau: một là, nên hay không nên báo tin buồn này cho sư phụ biết? hai là, khi sư phụ nghe tin bất hạnh này rồi sẽ có phản ứng thế nào ???

  Cuối cùng họ đi đến kết luận: “sư phụ đã đoạn trừ thế duyên rồi , đứa con duy nhất đó dù sao thì cũng là con của ngài, nên báo tin không vui này cho ngài biết. Đồng thời họ cũng nghĩ sư phụ là người đã tu hành đến mức cao như vậy rồi nếu nghe tin đứa con duy nhất chết thì cũng chỉ thản nhiên thôi.

  Thế là họ cùng nhau đi đến báo tin này cho thiền sư, khi vị cao tăng vừa nghe tin thì lòng buồn ruời rượi và hai dòng nước mắt cứ lăn dài xuống má. Các đệ tử vừa nhìn thấy sư phụ có phản ứng như vậy thì cảm thất rất lạ, họ cũng không ngờ sư phụ qua thời gian dài tu hành như vậy mà cũng không đoạn trừ được thế duyên.

            Trong nhóm đệ tử có một người can đảm đứng ra chấp tay hỏi ngài: “sư phụ, bình thường sư phụ thường dạy chúng con đoạn trừ thế duyên, cần cầu giải thoát phải không? Sư phụ xuất gia đã lâu vì sao nghe tin con chết lại đau khổ nhiều như vậy, như thế có phải là ngược lại tất cả những gì mà hằng ngày sư phụ vẫn thường dạy chúng con không?

  Trong đôi mắt đẫm lệ, Thiền sư ngước lên nói: “Tôi dạy các người đoạn trừ tình cảm thế tục mong cầu thành tựu giải thoát, chứ không phải dạy các người sống cuộc sống ích kỷ chỉ biết có mình, mà từ thành tựu của chính mình đem lại lợi ích an vui cho nhân loại. Mỗi một chúng sanh lúc chưa giác ngộ đều có những người thân ra đi , đều làm cho họ đau lòng, đứa con của ta cũng là một trong những chúng sanh ,tất cả chúng sanh giống như con của ta, ta vì những đứa con của ta mà khóc, cũng là vì nỗi đau của tất cả chúng sanh chưa chứng ngộ của thế gian mà khóc vậy” !

  Sau khi các đệ tử nghe lời ngài dạy, tròng lòng tràn đầy thương cảm, mở rộng tình thương tinh tấn tu học, cần cầu giải thoát.

   Đây là câu chuyện có thật làm xúc động lòng người, nói rõ động cơ và mục tiêu của việc tu hành. Nếu một người đáng được tôn kính ? thì ngừơi đó phải xác lập được việc tu hành của mình là vì mang đến lợi ích cho chúng sanh mà không vì lợi ích cá nhân như thế mới thành tựu đích thực ý nghĩa của việc xuất gia, đó là con người đứng trên những con người, khó mà lấy gì để so sánh được.

  Từ câu chuyện này chúng ta có thể thấy rõ tinh thần của Phật giáo đại thừa, Phật giáo đại thừa lấy tâm từ bi làm gốc, như thế mới có thể làm cho vạn vật tìm được chổ trú chân. Cũng có thể nói đó là tinh thần “không mà không phải không” , vô ngã là không, từ bi là không phải không. Tuy biết là vô ngã mà không bỏ đi từ bi đó là không mà không phải không; tuy hành hạnh từ bi mà không chấp trước có ngã đó là không phải không mà không. Khi một người không hiểu rõ nghĩa của “không”thì không có khã năng thực hành được pháp tu quán tất cả chúng sanh và mình là không phải hai và không có sự khác biệt, như vậy tuy cũng có từ bi nhưng không phải chân thật từ bi. Đó là vì sao các đệ tử của cao tăng trước phải nhập vào tánh không sau đó mới có thể luận đàm nghĩa mình và vạn loại là một không có sự sai khác.

  Phải nhập vào không tánh thì mới có từ bi đích thực. Kinh Hoa Nghiêm nói: “khi các bồ tát quán thấu triệt tất cả các pháp vốn bình đẳng, không khởi lên tâm niệm có oán có thân. Bồ tát nhìn chúng sanh bằng đôi mắt của tình thương không ân không oán, xem tất cả đều là thiện tri thức vì họ mà thuyết pháp hướng dẫn cho họ con đường để có thể tu tập. Trong thế giới bao la này biết bao nhiêu là chúng sanh tham đắm ngũ dục, không biết ân nghĩa, không biết hướng thiện, tội ác lan tràn. Nếu Bồ tát không quán tất cả bình đẳng thì làm sao có khã năng hoà nhập vào đời thương tất cả chúng sanh như con mình để mà độ họ”.

  Đức Phật cũng đã nói trong kinh Niết Bàn rằng: “Ta yêu tất cả chúng sanh như con một. Chổ khác biệt của bồ tát và tiểu thừa là từ bi. Phật dạy ba độc tham sân si là nguyên nhân của tất cả khổ đau, tu tiểu thừa phải đoạn trừ tham sân si, nhưng tu đại thừa thì không đoạn mà dùng nó để độ chúng sanh. Vì sao? Nguyệt Khê đại sư nói: tham là tham độ chúng sanh làm cho thành Phật đạo, sân là quở trách chúng sanh tán thán đại thừa, si là nhận chúng sanh lám con. Bồ tát không đoạn trừ tham sân si không phải là bồ tát mê chấp mà là vì lòng từ thương chúng sanh mà không đoạn.

   Từ bi là gì? có phải là thứ tình cảm bình thường mà chúng ta thường nói không? “từ” là mang niềm vui đến “bi” là làm cho hết khổ. Làm cho chúng sanh thoát khỏi bể khổ sanh tử và đạt được niềm vui chân thật đó mới đúng nghĩa của “từ bi”.

 Trong giáo lý của đạo Phật phân từ bi thành ba loại. “Chúng sanh duyên từ” đó là xem tất cả chúng sanh trong tam đồ lục đạo như cha mẹ anh em một nhà do đó mà thường luôn tìm cách đem niềm vui và dứt hết khổ đau cho họ. Hai là “pháp duyên từ” đó là mình phá bỏ chấp trước nhân ngã, luôn tuỳ theo mong cầu của chúng sanh mà làm cho lìa khổ được vui. Ba là “ vô duyên từ” đó là tâm của chư Phật ,biết được các duyên vốn không thật, điên đảo hư vọng cho nên tâm không chổ duyên, nhưng lại làm cho tất cả chúng sanh tự nhiên đạt được lợi ích của sự dứt khổ và đạt được an vui.

  Do có “chúng sanh duyên từ” mới có khã năng nhập vào “pháp duyên từ” và “vô duyên từ”. Nếu không có thành tựu về chúng sanh ,thành tựu về duyên, thành tựu về từ bi thì hành giả tu đại thừa cũng không cả khã năng thành tựu.Nước mắt của thiền sư vì vậy mà rơi, bồ tát nhìn thấy chúng sanh ở thế giới ta bà mê muội, đến chết mà cũng chưa ngộ. Như vậy không phải từng ngày từng ngày nước mắt lòng rơi đó sao?

 

http://www.buddhismtoday.com/viet/truyen/cauchuyen2vithiensu.htm

 


Vào mạng: 10-9-2008

Trở về mục "Truyện Phật giáo"

Đầu trang