Trang tiếng Anh

Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt   

   

...... ... ..  . ..  .  .

Tổng thống Ấn Độ,
Tiến sĩ Dayal Sharma,
nói về triết học của Đức Phật

Thích Tâm Tịnh dịch

Các giá trị do Đức Phật giảng dạy như tình thương không biên giới, phục vụ nhân loại, sự bình đẳng và sự tôn trọng chân giá trị của con người- các giá trị phổ quát và có thể ứng dụng khắp nơi-đã cấu thành nên nền tảng đạo đức và luân lý vững chắc của xã hội của chúng ta, của quốc gia của chúng ta và của những đặc cách của chúng ta. Các giá trị này đã là những nguyên lý hàng đầu cho cuộc đấu tranh giành độc loập của đất nước chúng ta. Các giá trị ấy đã được thể hiện vào quốc hiệu của chúng ta, đầu cột Sư tử của đại đế A-dục, biểu tượng chủ quyền của đất nước Ấn Độ. Bốn con Sư tử hướng mặt về bốn phương tượng trưng cho thông điệp của Ấn Độ, thông điệp của Phật giáo, gởi đến nhân loại xưa và nay. Bánh xe cuộc đời, qui luật và chánh pháp (Dharmachakra) của Phật  giáo đã trang hoàng cho quốc kỳ của Ấn Độ.

 Thông điệp của Như Lai trở nên quan trọng không chỉ cho từng hành vi của từng cá nhân mà hơn thế, là thước đo cho sự tương quan giữa con người với con người. Thông điệp ấy vô cùng quan trọng cho quốc gia và xã hội của chúng ta, cho mối bang giao giữa các quốc gia trên thế giới, và trên thực tế, cho toàn thể nhân loại. 

 Đức Phật Thích Ca đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tâm trong tư duy và hành động của con người. Hành vi chân chánh chỉ có thể có được bằng sự thanh lọc tâm. Suốt cuộc đời hoằng pháp không mệt mỏi của Đức Phật,  ngài đã chứng minh bằng chính cuộc sống của ngài rằng con đường giải thoát chính mình, giác ngộ và niết-bàn chỉ có thể đạt được bằng sự thanh lọc tâm. Cặp kệ đầu tiên của Kinh Pháp Cú, bộ Kinh quan trọng như Kinh Thánh của các tôn giáo khác, phản ánh rất rõ điều này:

 “Tâm dẫn đầu các hiện tượng tâm lý; tâm làm chủ và tâm tác tạo tất cả. Do đó, nếu con người nói năng hay hành động với tâm bất thiện, khổ báo sẽ lê bước theo sau như bánh xe lăn theo dấu chân của bò kéo xe”.
 “Tâm dẫn đầu các hiện tượng tâm lý; tâm làm chủ và tâm tác tạo tất cả. Do đó, nếu con người nói năng hay hành động với tâm cao thượng, hạnh phúc sẽ dấn bước theo sau nhưbónh theo hình”.
 Đặt lời dạy trên trong bối cảnh và thời đại của Đức Phật lúc bấy giờ, chúng ta sẻ thấy triết lý này rõ nét hơn. Đó là thời kỳ khi mà các tôn giáo bấy giờ đã trở nên thiết chế hóa và cả một cấu trúc xã hội phát triển chỉ đặt trên nền tảng đức tin di truyền và mù quáng, như Jawaharlal Nehru đã khẳng định trong tác phẩm của ông   “Sự khám phá Ấn Độ” (Discovery of India):
 Đức Phật đã bi-trí-dũng chống lại tôn giáo quần chúng, những tập tục mê tín, các lễ nghi phiền toái, các thầy tu bà-la-môn thủ đoạn và những đặc quyền đặc lợi giành cho giai cấp này. Ngài cũng đã lên án những quan niệm thần học và siêu hình học, các bùa phép, sự thiên khải và sự siêu nhiên phản khoa học. Ngài chú trọng đến lôgíc, lý trí và thực nghiệm. Ngài nhấn mạnh đến các phương diện đạo đức và phương pháp của ngài là sự phân tích mang tính tâm lý học...Toàn thể phương pháp tiếp cận của ngài đạt đến nguồn thở của không khí trong lành của núi rừng sau trạng thái không khí đánh giá siêu hình”.

 Đó là bối cảnh Đức Phật truyền bá triết học hành vi và tư tưởng lý trí. Ngài khuyên tất cả mọi người nên áp dụng các tiêu chuẩn của lý trí và lôgíc vào những hình thái triết học, ý niệm và những phương thức hành trì, ngay cả những giáo huấn của chính ngài. Trong Kinh bộ Tăng chi, đức Phật dạy dân tộc Kalama rằng:
 “Này các thiện nam tín nữ kalama, không nên chấp nhận bất cứ lời dạy nào (hiện tượng) chỉ vì điều đó là do người khác tương truyền hoặc chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống hoặc chỉ vì bạn tin rằng đó là trách nhiệm của bạn hoặc chỉ vì điều đó được ghi lại ttrong Kinh điển hoặc chỉ vì bị áp lực của tranh luận hoặc chỉ vì người nào đó bảo bạn rằng đây là con đường hoặc chỉ vì hình thức bên ngoài hay thẩm mỹ của hình thức hoặc chỉ vì người nói điều đó là thầy của bạn.
 Này các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị nên quán sát, suy tư và thể nghiệm và chỉ khi nào, sau khiquán sát, quý vị thực sự nhận thấy lời dạy náy là tốt lành, đạo đức, hướng thượng, chói sáng và được người trí tán thán; nều sống và thực hành theo các lời dạy này sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc thực sự ngay hiện tại và về sau, thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm tin vững chắc và thực hành theo.”

 Đó là nguyên lý của một đức tin lý trí và khoa học, đặt nền tảng trên phân tích và thể nghiệm. Ngài dạy ngay cả lời dạy của ngài cũng không nên chấp nhận với một thái độ thiếu nhận thức và không đặt vấn đề. Trong Kinh Tương Ưng, ngài dạy rằng:
 “Như thợ vàng thử vàng bằng nhiều cách khác nhau, này các Tỳ-kheo, hãy khảo sát lời dạy của Như Lai bằng nhiều cách khác nhau. Hãy chấp nhận chúnh khi nào các vị thấy chúng có giá trị. Đừng chấp nhận với thái độ chỉ vì đó là những lời dạy của Như Lai.”
 Tính nhân bản của Đức Phật và sự vĩ đại của triết học của ngài chói sáng thông qua những lời dạy sâu sắc và cao đẹp này. Chỉ có Bậc giác ngộ, người đã nhổ sạch gốc rễ của bản ngã, mới có thể khiêm tốn như thế.

 Tinh hoa triết học của Đức Phật được thể hiện trong và tuôn trào từ suối nguồn Trung đạo qua bài Kinh Chuyển pháp luân. Tại đây, trong vườn nai của đất thiêng Sarnath, ngài đã dạy chúng ta:
 “Này các Tỳ-kheo, con đường trung đạo, con đường xa lià hai cực đoan, được Như Lai giảng dạy là con đường khai mở mắt, đem đến nhận thức, có khả năng đem lại sự an lạc của nội tâm, đạt đến trí tuệ cao thượng và sự chứng đắc toàn vẹn.”
 Lời dạy này là lời khuyên sâu xa cho từng cá nhân lẫn đoàn thể, xã hội. Nó khuyên chúng ta tránh xa những trạng thái không cân bằng và những thái quá dẫn đến cực đoan trong nhiều phương diện của cuộc sống. Hành vi chân chánh đối với từng cá nhân là sự hành trì sự thăng bằng, cân đối và hài hòa trong nếp nghĩ và hành vi, như được trình bày trong Thanh Tịnh Đạo luận:
 “Tám chánh đạo là thánh đạo, là trung đạo và được mô tả như sau:chánh kiến là ngọn đuốc soi đường, chánh tư duy là người hướng dẫn, chánh ngữ là nơi cư trú trên con đường, chánh nghiệp là dáng đi trang nghiêm, ngay thẳng, chánh mạng là thực phẩm, chánh tinh tấn là những bước đi, chánh niệm là hơi thở và chánh định mang lại sự an lạc cho suốt lộ trình.”

 Tương tự Đức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của sự kiểm thúc thân tâm qua các kệ pháp Cú thứ 360 và 361:
 “Lành thay gìn giữ mắt này,
 Lành thay gìn giữ tốt hoài hai tai,
 Lành thay gìn giữ lưỡi ngay,
 Lành thay giữ mũi không say đắm mùi.
 Lành thay gìn giữ thân này,
 Lành thay gìn giữ cho ngay thẳng lời,
 Lành thay gìn giữ cả rồi,
 Tỳ-kheo được vậy xa lià khổ đau.”
 Thông điệp của Đức Phật không nhằm dạy con người chạy chốn sợ hãi tội lỗi nhưng nhằm khuyến khích con người vượt qua và chiến thắng tội lỗi và khổ đau. Triết lý này còn được thể hiện trong câu kệ thứ 183 của Kinh pháp Cú:
 “Mọi điều ác độc không làm,
 Hạnh lành thành tựu lại càng an vui,
٠tâm trong sạch sáng ngời,
 Là lời Phật dạy cho đời xưa nay.”

 Các nguyên tắc đạo đức của Phật giáo thích ứng không chỉ cho từng cá nhân mong muốn chấm dứt khổ đau và đạt được niết-bàn nhưng đồng thời cũng  nhằm mang lại sự tiến bộ và thịnh vượng chung cho toàn nhân loại. Đối với một quốc gia, con đường trung đạo là tiến trình chính trị dựa trên đối thoại, hợp tác và hòa giải lẫn nhau. Nó nhằm hướng đến sự thống nhất và vì lợi ích lớn nhất cho số đông. Nó đòi hỏi những tranh luận và thảo luận dân chủ dựa trên tư duy lý trí và lôgíc để nhằm đạt đến sự nhất trí về những vấn đề liên hệ đến xã hội và con người.      

 Trong Kinh Đại bát niết-bàn, thuộc Kinh Trung bộ, Đức Phật dạy về một xã hội dân chủ. Tôi xin được trích dẫn ra đây một đoạn Kinh trong bài Kinh trên để trình bày điều tôi cho là vô cùng quan trọng đối với tất cả chúng ta, những người đang nổ lực để đạt được tiến bộ trên con đường dân chủ. Mỗi tư tưởng trong đoạn Kinh này chứa đựng đầy ý nghiã sâu xa, đáng để phân tích và ứng dụng:
 “Này các Tỳ-kheo, ta sẽ dạy về lợi ích của một đời sống cộng đồng, hãy lắng nghe cho kỹ. Cho đến khi nào các Tỳ-kheo thường gặp nhau, thường hội hợp trong tinh thần đoàn kết, giải tán trong tinh thần đoàn kết vì tăng đoàn và vì Phật giáo; cho đến khi nào các Tỳ-kheo không hủy bỏ những gì mà kinh nghiệm cho thấy là thiện, và không giới thiệu những gì ngoài trừ những vấn đề đã được chứng nghiệm cách cẩn trọng; cho đến khi nào các trưởng lão thi hành công bằng; cho đến khi nào các Tỳ-kheo cung kính tôn trọng và ủng hộ các bậc tôn túc và lắng nghe những giáo huấn đúng chánh pháp của họ; cho đến khi nào các Tỳ-kheo không phí uổng thì giờ vào những việc thảo luận vô ích, không lười biếng trong tu học; cho đến khi nào các Tỳ-kheo chuyên cần tu tập bảy pháp đem lại sự giác ngộ như tầm cầu chân lý (trạch pháp), tinh tấn, hỷ, chân thành, kiểm thúc thân tâm, thiền định và xã...cho đến khi ấy tăng-già mới đảm bảo không suy tàn và trở nên thịnh hành. Chính vì thế, này các Tỳ-kheo, hãy sống với chánh tín, chân thành trong tư tưởng, sợ hãi những lỗi lầm, cần cầu học tập, kiên định trong ý chí, năng động trong tinh thần và tràn đầy trí tuệ.”
 Ngoài việc nhấn mạnh đến hành vi chân chánh và thảo luận dân chủ, Đức Phật tin tưởng xác quyết rằng không có quyền lực tuyệt đối nào về sự lãnh đạo tăng đoàn có thể ngự trị trong bất kỳ thành viên tăng-già nào. Khi các vị đệ tử của hỏi về vấn đề ai sẽ là người thay thế Như Lai lãnh đạo tăng đoàn, Đức Phật đã tứả lời rằng chỉ có chánh pháp, quy luật muôn đời, có thể đảm nhiệm chức năng đó. Lời khải thị này dù trải qua hơn 2500 năm vẫn có giá trị vô song cho thời đại chúng ta hôm nay. Hơn thế nữa, lời dạy ấy đã được thi hành trong thiết chế chính trị của chúng ta, trong các hội đoàn dân chủ của chúng ta và còn là nguồn khích lệ và khai thị vĩnh hằng. Tôi xin dẫn chứng cho các bạn một trong rất nhiều ví dụ cho thấy những gốc rễ sâu xa của Ấn Độ hiện đại trong truyền thống và đặc tính tinh thần dân tộc Ấn Độ cổ đại.

 Cách thế tiếp cận dân chủ là nhằm bắt cầu và hòa giải những dị biệt về quan điểm, ngay cả đối với những quan điểm sung đột bạo động, thông qua đối thoại. Đây là điều Đức Phật đã khuyên dạy chúng ta trong Kinh pháp Cú:
 “Hận thù không thể được tháo gở bằng những phương thức trả đủa hay những hành vi cừu địch mà chỉ có thể bằng tình thân ái, tình thương vô biên và lòng hỷ xã. Đây là quy luật ngàn đời.” (Kệ 5).

 Một trong những giáo nghiã thiêng liêng của con đường sống dân chủ đặt trên nền tảng lý trí và lôgíc do Đức Phật chỉ dạy là Ahimsa, tinh thần bất bạo động và yêu chuộng hòa bình. Và do đó, truyền thống đạo Phật mở rộng và tôn trọng các dòng tư tưởng và triết học khác nhau trên thế giới:
          Tinh thần vĩ đại này được ghi lại trong một tấm bia ký trên đá ở Shahbazgarhi (nay là Peshawar) do đại đế A-dục dựng. Sau đây là một đoạn trích từ tấm bia ký nêu trên:
 “Sức mạnh tinh thần có thể được nâng cao bằng nhiều hình thức khác nhau. Nhưng điều căn bản và quan trọng nhất là kiểm thúc lời nói của mình, tránh miệt thị tôn giáo khác, đề cao tôn giáo mình hoặc đề cập đến trong trong những dịp không thích hợp. Vì trong những dịp thuận lợi, người của tôn giáo khác cần được tôn trọng cách thích đáng. Trong cách thế cư xử như vậy, người ta một mặt tôn trọng tôn giáo của mình và mặt khác giúp ngừơi của tôn giáo khác tôn trọng tôn giáo của họ. Cư xử trái với điều này, người ta sẽ làm thương tổn tôn giáo của mình và đồng thời gây tác hại đến tôn giáo của người khác. Những ai tôn trọng tôn giáo của mình mà miệt thị tôn giáo của người khác hay bơm phòng tôn giáo mình khỏi các tôn giáo khác, chắc chắn làm thương tổn tôn giáo của họ.”

 Tôi nghĩ rằng đã đến lúc chúng ta nên tìm kiếm những chất bổ dưởng tinh thần từ những lời dạy vàng son của Đức Phật và ứng dụng chúng vào cuộc sống thường nhật của chúng ta bằng tất cả lòng nhiệt thành, tinh tấn trong hành vi và nếp nghĩ của chúng ta.

 Gắn liền với phương thức tiếp cận lý trí, trung đạo và hòa hợp này là sự tôn trọng chân giá trị của con người và tình thương yêu rộng lớn đối với tất cả chúng sanh. Theo Đức Phật, tất cả mọi người sanh ra đều bình đẳng. Tất cả chúng sanh trên hành tinh này đều cảm nhận đau khổ và tất cả đều có quyền giải thoát, chứng đắc niết-bàn ngay tại thế. Ngài phản đối hệ thống giai cấp bất công, phi đạo đức và những cấu trúc thế tập bám rễ nhiều đời, những thứ giết chết tính sáng tạo và tiến bộvà làm cho con người chống trái lẫn nhau. Trong Kinh Suttanipata, Đức Phật đã giảng dạy rằng chính hành vi của con người thông qua lời, ý nghĩ, việc làm, làm cho con người trở nên cao thượng hay hèn hạ, chứ không thể do di truyền, gia thế hay giai cấp. Lời dạy tương tự cũng được Đức Phật mô tả trong những vần kệ pháp Cúsau đây:
 Hương thơm của các loài hoa, 
 Không sao ngược gió bay ra đâu mà.
 Nhưng hương đức hạnh thật thà,
 Vẫn thường ngược gió lan xa vô ngần.
 Tiếng thơm các bậc chân nhân,
 Tỏa cùng khắp cõi xa gần nhân gian. (Kệ 54).

 Người lành dù ở xa,
     Sáng tỏ như núi tuyết.
     Kẻ ác dù ở gần,
                    Như tên bắn ban đêm. (Kệ 305).
 Tôi tin rằng tất cả chúng ta đều ít nhiều quen thuộc với những truyện tích Bổn sanh Bổn sự, kho tàng vô giá của trí tuệ và tri thức, suối nguồn cung cấp thông tin cho chúng ta về thời đại của Đức Phật.   Các truyện tích minh chứng rằng các thành viên của các giai cấp Ấn Độ thời ấy đều tìm về Đức Phật và noi theo chánh pháp của ngài. Chủ nghiã bình đẳng và không phân biệt màu da, sắc tộc, giới tính của Đức Phật được phản ánh trong những lời truyền giáo của ngài bằng ngôn ngữ quần chúng hơn là bằng ngôn ngữ cổ điển Sanskrit, thứ ngôn ngữ chỉ dành cho số tinh hoa trí thức.

 Thực ra, Đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ và thành ngữ của người thường dân để giải thích những khái niệm sâu xa nhằm giúp cho người nghe có thể dễ dàng lãnh hội được liền những gì ngài giảng dạy. Các dụ ngôn, các phép so sánh và tục ngữ liên hệ đến cuộc sống đời thường của người dân, chẳng hạn như hương thương của các loài hoa, hình ảnh ngọn núi sừng sửng...trong Kinh Pháp Cú, đã giúp cho triết lý của ngài gần gủi với con người hơn. Đức Phật sử dụng biểu tượng bánh xe đơn giản để dụ cho chân lý cao siêu của ngài. Ngài dạy rằng các cây căm của bánh xe được ví như những điều lệ của hành vi trong sáng, công lý là sự hợp nhất của các cây căm đơn lẻ ấy, trí tuệ là sự nhẫn nại và khiêm cung, và chánh niệm là trục quay của cả bánh xe.

 Sự bênh vực quyền lợi cho những giai cấp bị chà đạp và tình thương yêu bao la đối với tất cả chúnh sanh của đạo Phật  cũng còn được phản ảnh qua sự hảo tâm và bố thí. Một tặng phẩm không chỉ đơn thuần là một từ thiện mà còn là nơi thể hiện cả một tấm lòng. Tặng phẩm không chỉ là vật chất mà còn là giáo pháp.  Chúng ta cần phải phát huy tinh thần trách nhiệm giúp đỡ người khác, nhất là người lâm vào cảnh đau khổ và đang cần sự giúp đỡ.. Có thể nói người học trò năng động và nổi tiếng nhất của những lời dạy của Đức Phật, đại đế A-dục, đã  làm nhiều công trình phúc lợi cho đa số trong suốt những năm tháng trị vì của mình. Ông đã đào đê dẫn nước vào ruộng đồng, xây dựng bệnh viện, cất nhà tình thương, xây dựng cầu đường như là một phần trách nhiệm và Dharma của mình. Phục vụ nhân bản đã trở thành yếu tố trọng tâm của quốc tuý chúng ta.

 Chúng ta nên làm sống dậy và phát huy truyền thống này bằng cách truyền bá rộng rã lời dạy của Đức Phật. Bởi lẽ, nói cho cùng, chúng ta chỉ có thể phát triển một quốc gia khi chúng ta thay đổi được cuộc sống khốn khó của những người cùng đinh, người bị áp bức và bị chà đạp. Phật giáo, trong Ấn Độ cận đại, đã khải bản hợp âm sâu xa, và dưới sự lãnh đạo tài tình của Bồ-tát sống Babasaheb Ambedkar đã trở thành lực lượng nồng cốt trong tiến trình giải phóng và tiến bộ xã hội Ấn Độ.

 Những lời dạy của Đức Phật về hòa bình và bất bạo động, bình đẳng và tôn trọng chân giá trị con ngừơi đã ảnh hưởng sâu xa đến những bậc lãnh tụ chính trị đại tài của thế kỷ 20 này. Mahatma Gandhi đã chuyển triết học bất bạo động của Đức Phật thành năng lực đạo đức và luân lý hùng mạnh và đem lại độc lập tự do cho dân tộc Ấn. Pandit Nehru đã ứng dụng triết lý này trong lãnh vực quốc tế và đem lại sự tôn quý của quốc tế đối với quốc gia và quốc tuý củaa chúng ta. Ông còn ứng dụng triết lý này qua mối tương giao quốc tế trên nến tảng của các nguyên lý cùng tồn tại hòa bình, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không xăm lăng và không can thiệp vào các vấn đề nội bộ của nhau. Khái niệm bình đẳng chủ quyền của các quốc gia và sự tương tác trên nền tảng tôn trọng lẫn nhau cho các hệ thống xã hội, ý thức hệ vàvăn hóa khác nhau đã được đưa vào Hiến chương của Liên hợp quốc. Sự ứng dụng các chuẩn mực của lý trí và giá trị của những vấn đề liên hệ quốc tế đã trở thành tiêu chuẩn đo lường chất lượng cho chính sách không liên minh của chúng ta.

 Trong thời cận đại, khi sự tương thuộc lẫn nhau phát triển và thế giới được thu nhỏ thành ngôi làng quốc tế với những phương tiện thông tin đại chúng tốc độ, chúng ta cần phải giữ gìn gốc rễ quốc tuý của chúng ta và kiên định trong việc duy trì, bảo vệ và nâng cao sự an ninh và lợi ích quốc gia chúng ta. Trong khi chủ chương mở rộng những phát triển mới về khoa học, kỹ thuật và các lãnh vực khác nhằm đóng góp vào tiến trình tiến bộ quốc gia,  đất nước chúng ta đã phục hồi thật nhanh đủ để chống lại các áp lực làm yếu chúng ta. Trong mỗi việc làm của chúng ta, chúng ta cần phải duy trì hòa bình, bất bạo động, giải trừ quân bị và phát triển toàn thế giới.

 Một trong những khía cạnh quan trọng của Phật giáo thích ứng với sinh viên của các Đại học và các viện nghiên cứu là đặt nặng vào sự theo đuổi cái toàn thiện. Thiết chế của tăng-già đã truyền sức sống và năng lực vào đời sống giai điệu của tu viện và Đại học. Và điều này đã ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống thế tục. Hệ thống giáo dục đã thúc đẩy các tiêu chuẩn thành tựu cao không chỉ đơn thuần ở mặt tinh thầnvà tri thức nhưng cũng còn ở các phương diện khác nhau của nghệ thuật, họa, điêu khắc, văn học, y học, công nghệ, thiết kế và kiến trúc, như Đức Phật đã dạy trong Kinh Pháp Cú:
   “Cần phải làm nên làm,
   Làm cùng tận khả năng.
   Xuất gia sống  phóng đảng,
   Chỉ tăng lọan bụi đời.” (Kệ 313).

 Nét đẹp của kiến trúc hang động và tranh vẽ của Ajanta và sự lộng lẫy của các tháp tại đây và ở Sanchi hoặc sự trang nghiêm của cung điện Potala ở Lhasa, chứng minh cho sự nỗ lực vì sự hoàn thiện này. Hệ thống giáo dục của các Phật học viện Phật giáo đã khai sanh các trường đại học vĩ đại và nổi tiếng khắp thế giới như Nalanda, Vallabhi và Vikramshila. Các học giả Trung quốc như Huyền Trang, Pháp Hiền đã ghi lại một ảnh hưởng rộng rải của các trường đại học này. Chủ tịch của trường đại học Vikramshila, tôn giả Dipankar Srijnana hay Atisa, đã đóng góp rất nhiều công sức trong việc truyền bá Phật giáo ở Tây Tạng và tài trợ cho việc phiên dịch các tác phẩm Phật học ra tiếng Tây Tạng. Nhiều quyển trong số các tác phẩm đó đã không còn nguyên bản nhưng lại còn được duy trì tốt trong bản Tây Tạng.

 Có một vấn đề tôi muốn khuyên các bạn đó là chúng ta hãy nổ lực tìm hiểu cả hai phương ngoại lai và bí truyền của Phật giáo. Đó chính là các phương diện huyền thoại của lời Phật dạy, nhiều trong số đó đã hình thành nên khối tổng thể của Phật giáo Tây Tạng, điều cần phải được phân tích, phiên dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau và cần được trình bày qua ngôn ngữ giản dị cho quần chúng. Sự đầu tư sớ giải về các phương diện khác nhau của triết học Phật giáo sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn nội dung, sự hành trì và nhận chân đúng nguyên lý giảng dạy của Đức Phật ở các nước khác nhau.

 Trước khi kết buổi nói chuyện này, tôi xin nhấn mạnh ở đây rằng chính Mahatma Gandhi, vị lãnh tụ đại tài của dân tộc Ấn Độ, cũng đã nói về thông điệp của Đức Phật trong bài viết của mình “ Young India” vào ngày 24/10/1927 như sau:
 “Lời dạy của Đức Phật , như chính trái tim của người, đã đang và sẽ còn được mở rộng và được đón nhận và do đó lời dạy của người đã làm cho pháp thân của người sống mãi và trải rộng khắp bề mặt của hành tinh.”

 Như các vị đại đệ tử của Đức Phật, như các sứ giả của đại đế A dục và như các tiếng rống sư tử của Sarnath, tôi chân thành chúc các bạn thành công trong việc truyền bá thông điệp vì hạnh phúc cho đa số vì an lạc cho đa số của Đức Phật, thông điệp hòa bình, hòa hợp và tình huynh đệ giữa con người với con người, quốc gia với quốc gia và giữa các dân tộc trên thế giới.   

Thích Tâm Tịnh dịch từ University News,  a Weekly journal of Higher Education, October 7,1996, pp20-26

http://www.buddhismtoday.com/viet/triet/

 


Vào mạng: 1-4-2000

Trở về mục "Triết học Phật giáo"

Đầu trang